intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của kiểm toán viên trong kiểm toán báo cáo tài chính - Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:94

23
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài xem xét liệu có tồn tại khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC tại Việt Nam hiện nay; tìm hiểu các nguyên nhân tạo ra khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC tại Việt Nam; đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC hiện nay tại Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của kiểm toán viên trong kiểm toán báo cáo tài chính - Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NGUYỄN QUỐC KỊP KHOẢNG CÁCH MONG ĐỢI VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM TOÁN VIÊN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH - NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành: KẾ TOÁN Mã số: 60340301 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN THỊ GIANG TÂN TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2015
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ kinh tế: “Khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của kiểm toán viên trong kiểm toán báo cáo tài chính - Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa học của tôi với sự hướng dẫn của PGS.TS. Trần Thị Giang Tân. Luận văn này chưa được ai công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Tất cả các nguồn tài liệu tham khảo đã được công bố đầy đủ. TP.HCM, ngày 28 tháng 10 năm 2015 Tác giả luận văn Nguyễn Quốc Kịp
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng biểu PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1 2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................ 2 3. Câu hỏi nghiên cứu .............................................................................................. 2 4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 3 4.1 Đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 3 4.2 Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 3 5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 3 6. Kết cấu luận văn .................................................................................................. 4 CHƯƠNG 1: CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC VỀ KHOẢNG CÁCH MONG ĐỢI VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM TOÁN VIÊN TRONG KIỂM TOÁN BCTC 1.1 Các nghiên cứu trước về khoảng cách mong đợi kiểm toán trên thế giới ............ 5 1.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam ...........................................................................12 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 2.1 Trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC .................................................15 2.1.1 Trách nhiệm của KTV theo VSA 200 ...........................................................15 2.1.2 Trách nhiệm của KTV theo VSA 240 ...........................................................16 2.1.3 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 315 ........................................................19 2.1.4 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 330 ........................................................20 2.2 Khoảng cách mong đợi kiểm toán ....................................................................21 2.2.1 Khái niệm khoảng cách mong đợi kiểm toán.................................................21 2.2.2 Nguyên nhân hình thành khoảng cách mong đợi kiểm toán ...........................23 2.3 Lý thuyết nền tảng ...........................................................................................24
  4. 2.3.1 Lý thuyết ủy nhiệm .......................................................................................24 2.3.2 Lý thuyết niềm tin ký thác ............................................................................25 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Thiết kế nghiên cứu .........................................................................................28 3.2 Đối tượng khảo sát...........................................................................................29 3.3 Nội dung khảo sát ............................................................................................30 CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU KHOẢNG CÁCH MONG ĐỢI VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA KTV TRONG KIỂM TOÁN BCTC TẠI VIỆT NAM 4.1 Tổng quan về hoạt động kiểm toán độc lập tại Việt Nam .................................33 4.1.1 Lịch sử phát triển ..........................................................................................33 4.1.2 Các quy định pháp lý ....................................................................................34 4.2 Kết quả khảo sát khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam .......................................................................................35 4.2.1 Thống kê mô tả các đặc điểm của các đối tượng khảo sát..............................35 4.2.2 Kết quả khảo sát về khoảng cách hợp lý .......................................................37 4.2.3 Kết quả khảo sát về khoảng cách năng lực ....................................................46 4.2.4 Kết quả khảo sát về khoảng cách chuẩn mực ................................................50 CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN, GIẢI PHÁP VÀ HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI 5.1 Kết luận ...........................................................................................................57 5.2 Đề xuất quan điểm và định hướng thu hẹp khoảng cách mong đợi ..................60 5.3 Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo ...........................................69 Kết luận .................................................................................................................72 Tài liệu tham khảo Phụ lục
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. ACCA Hội kế toán công chứng Anh 2. BGĐ Ban Giám đốc 3. BQT Ban Quản trị 4. BCKT Báo cáo kiểm toán 5. BCTC Báo cáo tài chính 6. BCTN Báo cáo thường niên 7. BTC Bộ tài chính 8. CPA Chứng chỉ kiểm toán viên 9. ĐVĐKT Đơn vị được kiểm toán 10. GTTB Giá trị trung bình 11. KSCL Kiểm soát chất lượng 12. KTV Kiểm toán viên 13. NQL Nhà Quản lý 14. VACPA Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam 15. VSA Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ BẢNG BIỂU Hình 2.1: Mô hình khoảng cách mong đợi kiểm toán ........................................... 22 Bảng 4.1: Thống kê mô tả các đặc điểm của các đối tượng khảo sát .................... 37
  6. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Một BCTC đã được kiểm toán luôn tạo được sự tin cậy cho các Cổ đông và các bên có quyền lợi liên quan của đơn vị được kiểm toán, đặc biệt đó là cơ sở cho những nhà đầu tư ra quyết định có nên đầu tư hay không. Tuy nhiên, hiện nay niềm tin đó đã bị suy giảm đáng kể bởi chất lượng hoạt động kiểm toán BCTC bị ảnh hưởng rất lớn sau nhiều vụ sụp đổ lớn trên thế giới như Enron, Worldcom,…Sự chỉ trích và mất niềm tin của xã hội vào KTV, vào BCTC đã được kiểm toán do nhiều nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân này là do khoảng cách giữa mong đợi của xã hội về kiểm toán bao gồm cả mong đợi hợp lý và chưa hợp lý với khả năng mà nghề nghiệp kiểm toán đáp ứng được. Thuật ngữ “Khoảng cách mong đợi” đã xuất hiện trong các nghiên cứu từ năm 1970 của thế kỷ trước. Các nghiên cứu kết luận rằng tồn tại một khoảng cách giữa hiểu biết các KTV về nghề nghiệp của họ so với nhận thức của những người khác, đặc biệt có sự khác biệt trọng yếu trong nhận thức về vai trò của KTV đối với việc phát hiện gian lận (Yusuf Munir Sidani, 2007), có sự khác biệt đáng kể trong nhận thức của nhóm KTV và nhóm lợi ích liên quan đến báo cáo tài chính như nghiên cứu của Semiu Babatunde Adeyemi và Olayinka Marte Uadiale, 2011 tại Nigeria, nghiên cứu của Porter bắt đầu từ năm 1989 đến năm 2008 tại Anh và New Zealand. Nhìn chung, người sử dụng BCTC và các nhóm lợi ích khác trong xã hội có sự khác biệt về nhận thức liên quan đến chức năng, mục tiêu kiểm toán hoặc trách nhiệm của KTV. Một số nghiên cứu khác cho thấy nhân tố thể chế và văn hóa của mỗi nước ảnh hưởng đến kì vọng của xã hội về trách nhiệm và đánh giá của họ về kết quả thực hiện trách nhiệm của KTV. Tuy nhiên các nghiên cứu về khoảng cách mong đợi kiểm toán chưa nhiều tại Việt Nam. Phần lớn các nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào vấn đề về quy trình lập kế hoạch và hoàn thiện các thủ tục kiểm toán nhằm phát hiện hoặc ngăn ngừa gian lận (Lý Trần Kim Ngân, 2011; Trương Thị Yến Nhung, 2012 và Nguyễn Thị Thùy Linh, 2013), đánh giá một số thuộc cá nhân của KTV đối với chất
  7. 2 lượng kiểm toán (Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2013), những vấn đề về luân chuyển KTV và những giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán BCTC (Lâm Huỳnh Phương, 2013; Nguyễn Trọng Thể, 2013 và Nguyễn Quốc Cường, 2013), nâng cao trách nhiệm của KTV (Ngô Thị Thu Hà, 2007) nhưng chưa chú trọng mong đợi thực tế của xã hội về trách nhiệm của KTV, trách nhiệm đó đã được KTV thực hiện như thế nào, bản thân KTV nhìn nhận ra sao, ĐVĐKT nghĩ gì về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC. Vì vậy tác giả đã thực hiện nghiên cứu “Khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC - Nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam”. Nghiên cứu này nhằm cung cấp một bằng chứng thực nghiệm liệu có tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Việt nam, về sự mong đợi của xã hội về trách nhiệm hiện tại của KTV trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam hiện nay, đánh giá kết quả thực hiện trách nhiệm của KTV hiện nay như thế nào theo quan điểm của người sử dụng BCTC và có những đề xuất nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi đối với trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam. 2. Mục tiêu nghiên cứu  Xem xét liệu có tồn tại khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC tại Việt Nam hiện nay.  Tìm hiểu các nguyên nhân tạo ra khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC tại Việt Nam.  Đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC hiện nay tại Việt Nam. 3. Câu hỏi nghiên cứu Dựa trên mục tiêu nghiên cứu, luận văn trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu như sau:  Có tồn tại khoảng cách sự mong đợi về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC tại Việt Nam không?  Các nguyên nhân tạo ra khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC tại Việt Nam là gì?
  8. 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  Đối tượng nghiên cứu: ý kiến của các đối tượng liên quan gồm KTV, công ty được kiểm toán, người sử dụng BCTC.  Phạm vi nghiên cứu:  Luận văn chỉ tập trung vào kiểm toán độc lập, không nghiên cứu về kiểm toán nhà nước hay kiểm toán nội bộ.  Không gian: Bảng câu hỏi khảo sát được thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh.  Thời gian: Thời gian thực hiện nghiên cứu từ tháng 08/2015 đến tháng 10/2015. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp định tính thông qua việc thu thập các dữ liệu ban đầu từ bảng câu hỏi khảo sát và kết hợp phương pháp thống kê mô tả, phân tích tổng hợp các số liệu thu thập được. Từ đó đánh giá kết quả khảo sát về khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam, tìm ra các nguyên nhân hình thành khoảng cách này nhằm đề ra giải pháp thu hẹp. Bảng câu hỏi được thiết kế dựa trên bảng câu hỏi từ bài nghiên cứu của Porter (2012), “Report on research conducted in the united kingdom and new zealand in 2008 investigating the audit expectation-performance gap and users’ understanding of, and desired improvements to, the auditor’s report” với một vài thay đổi cho phù hợp với môi trường pháp lý, văn hóa tại Việt Nam cũng như dựa trên một số nghiên cứu khác. Các bảng câu hỏi được gửi trực tiếp và thực hiện khảo sát dựa vào ứng dụng của Google.docs cho ba nhóm đối tượng có liên quan lợi ích đến kiểm toán:  Nhóm KTV: là những người có kiến thức chuyên môn về kiểm toán và là những người trực tiếp thực hiện trong cuộc kiểm toán. Đối tượng này tham gia khảo sát gồm có KTV chính, chuyên viên kiểm toán và trợ lý kiểm toán…
  9. 4  Nhóm người làm việc tại đơn vị được kiểm toán: là những cá nhân chịu trách nhiệm trong việc lập và trình bày BCTC, tiếp xúc, trao đổi và giải trình trực tiếp cho KTV trong quá trình kiểm toán. Nhóm này tham gia khảo sát bao gồm Ban (Tổng) Giám đốc, Kế toán Trưởng, Kế toán viên…  Nhóm người sử dụng BCTC: Đây là nhóm có lợi ích liên quan như đánh giá thông tin tài chính để cho vay hoặc đánh giá tình hình hoạt động để đầu tư hay đánh giá khả năng đóng góp cho Nhà nước thông qua đóng thuế,…Nhóm này được khảo sát bao gồm: các nhân viên ngân hàng, các nhân viên làm việc ở các Công ty Chứng Khoán, các nhân viên làm việc ở các Cơ quan thuế… Các số liệu được thu thập, tổng hợp và xử lý bằng phần mềm excel 2010. Từ đó phân tích thực trạng và đề ra giải pháp nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi của xã hội về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC tại Việt Nam hiện nay. 6. Kết cấu luận văn Luận văn được kết cấu theo 5 chương: PHẦN MỞ ĐẦU Chương 1. Các nghiên cứu trước về khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC. Chương 2. Cơ sở lý thuyết Chương 3. Phương pháp nghiên cứu Chương 4. Kết quả nghiên cứu về khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam. Chương 5. Kết luận, giải pháp và hạn chế của đề tài.
  10. 5 CHƯƠNG 1: CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC VỀ KHOẢNG CÁCH MONG ĐỢI VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM TOÁN VIÊN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH 1.1 Các nghiên cứu trước về điều tra khoảng cách mong đợi kiểm toán trên thế giới Thuật ngữ “Khoảng cách mong đợi” đã tồn tại từ rất lâu, khoảng 100 năm trước và là chủ đề được rất nhiều nghiên cứu tiến hành trên thế giới: [1] Lee (1970) có thể là người tiên phong nghiên cứu đầu tiên về khoảng cách mong đợi kiểm toán được tiến hành ở Anh. Hơn 80% số người được phỏng vấn (gồm KTV, công ty được kiểm toán và các đối tượng có lợi ích từ kiểm toán) về mục tiêu kiểm toán. Các đối tượng cho rằng KTV có trách nhiệm trong việc phát hiện các gian lận và sai sót trên BCTC, đảm bảo các công ty đã tuân thủ tất cả các yêu cầu pháp lý của Luật doanh nghiệp, xác minh tính chính xác của sổ sách kế toán và các hồ sơ, và đưa ra ý kiến về các sự trung thực và hợp lý về BCTC của công ty. Trái với mong đợi của Lee, sự hiểu biết của KTV về mục tiêu kiểm toán dường như là không khác với công ty được kiểm toán và các bên có lợi ích từ kiểm toán . Kết quả này cho thấy rằng KTV dường như đã nhầm lẫn và không xác định rõ mục tiêu cuộc kiểm toán của mình (Forter 2012, trang 10, đoạn 2). [2] Beck (1973) đã tiến hành một cuộc khảo sát ở Úc tương tự như của Lee ở Anh. Kết quả từ nghiên cứu của Beck là cổ đông có mâu thuẫn về tính độc lập của KTV, đó là các cổ đông tin rằng nếu KTV sở hữu cổ phần trong công ty được kiểm toán thì lợi ích của KTV sẽ được kết hợp chặt chẽ hơn với những lợi ích của các cổ đông. [3] Humphrey, Moizer và Turley (1993) đã tiến hành một cuộc khảo sát tại Anh để điều tra ý kiến của KTV, công ty được kiểm toán và người sử dụng BCTC về KTV và công việc mà họ thực hiện. Và cũng giống như các nghiên cứu trước đó, kết quả nghiên cứu cho thấy rằng những ý kiến của nhóm KTV khác biệt rõ rệt với những người là các giám đốc tài chính và những người sử dụng BCTC.
  11. 6 [4] Porter (1993) đã tiến hành một cuộc khảo sát ở New Zealand để xác định ý kiến đến trách nhiệm của KTV hiện có theo quy định của pháp luật, các tiêu chuẩn về sự thực hiện những trách nhiệm đó. Năm 1999, Porter và Gowthorpe (2004) nhân rộng nghiên cứu năm 1989 của Porter ở cả New Zealand và Anh để so sánh giữa cơ cấu, thành phần và mức độ của khoảng cách mong đợi kiểm toán ở New Zealand và Anh 1999, hai nơi có môi trường pháp lý, văn hóa và kinh tế - xã hội tương tự nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy người sử dụng BCTC vẫn có sự hiểu lầm về chức năng của kiểm toán và trách nhiệm tồn tại của KTV. [5] Hian Chye Koh và E-Sah Woo (1998) cho rằng có một sự lo ngại khi KTV và công chúng có niềm tin khác nhau về trách nhiệm của KTV và các thông điệp được truyền đạt bởi các báo cáo kiểm toán. Trong những năm gần đây, nhiều công ty lớn sụp đổ đã làm cho khoảng cách mong đợi kiểm toán càng lớn. Rõ ràng, nhận thức không hợp lý của công chúng là một nguyên nhân chính của khoảng cách này. Và điều này phù hợp với các nghiên cứu trước về khoảng cách mong đợi kiểm toán. Nghiên cứu của tác giả đã thực hiện thông qua xem xét các tài liệu về khoảng cách mong đợi kiểm toán theo chiều dọc như sau: định nghĩa của khoảng cách mong đợi kiểm toán; bản chất và cấu trúc của khoảng cách mong đợi; và cách để giảm khoảng cách mong đợi. Nhóm tác giả hy vọng rằng đó là một nỗ lực có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc về khoảng cách mong đợi kiểm toán. [6] Best, Peter J and Buckby, Sherrena and Tan, Clarice (2001) nghiên cứu về mức độ và tính chất của khoảng cách mong đợi kiểm toán tồn tại ở Singapore vào giữa những năm 1990 và so sánh các kết quả của nghiên cứu này với Schelluch (1996) tại Úc. Các kết quả từ nghiên cứu này tìm thấy bằng chứng của một khoảng cách mong đợi kiểm toán rất lớn ở Singapore, đặc biệt là trách nhiệm của KTV đối với việc ngăn ngừa và phát hiện gian lận. [7] Z. Jun Lin và Feng Chen (2004) điều tra việc nổi lên như một hiện tượng của khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Kết quả cho thấy rằng vai trò và các lợi ích của kiểm toán được sự công nhận một cách tích cực bởi những người hưởng lợi ích từ kiểm toán và nhu cầu mở rộng áp dụng kiểm toán
  12. 7 ngày càng tăng. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng thu được bằng chứng quan trọng về sự tồn tại của khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Trung Quốc liên quan đến các mục tiêu kiểm toán; trách nhiệm của KTV trong việc phát hiện và báo cáo gian lận; và trách nhiệm với bên thứ ba. Các nguyên nhân và ý nghĩa thực tế của sự tồn tại khoảng cách này là do bối cảnh hiện tại về các điều kiện kinh tế và xã hội của Trung Quốc và các thủ tục được yêu cầu để thực hiện trong cuộc kiểm toán. Nghiên cứu này đã làm sáng tỏ sự hiểu biết của người sử dụng và giúp ích rất lớn cho các tổ chức ban hành và phát triển kiểm toán ở Trung Quốc. [8] Philmore Alleyne và Michael Howard (2006) điều tra về việc làm thế nào KTV và người sử dụng cảm nhận được trách nhiệm của KTV đối với việc phát hiện gian lận, tính chất và mức độ gian lận tại Barbados, và các thủ tục kiểm toán được sử dụng tại Barbados từ sự kiện Enron. Kết quả từ 43 người được hỏi (19 KTV và 24 người sử dụng) đã chỉ ra rằng tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán rất lớn tại Barbados vì KTV cảm thấy rằng việc phát hiện gian lận là trách nhiệm NQL, trong khi người sử dụng và NQL không đồng ý điều này. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng phát hiện rằng gian lận không phải là một vấn đề lớn ở Barbados vì các công ty có kiểm toán nội bộ, hệ thống kiểm soát hữu hiệu và hiệu quả giúp trang bị tốt để đối phó với việc phòng chống và phát hiện gian lận. [9] Yusuf Munir Sidani (2007) nghiên cứu xem liệu có sự tồn tại của một khoảng cách mong đợi giữa KTV và những người không phải KTV tại Lebanon. Kết quả cho thấy tồn tại một khoảng cách giữa hiểu biết các KTV về nghề nghiệp của họ so với nhận thức của những người khác, đặc biệt có sự khác biệt trọng yếu trong nhận thức về vai trò của KTV đối với việc phát hiện gian lận. [10] Mahdi Salehi (2008) thực hiện nghiên cứu thực nghiệm để xác định khoảng cách mong đợi về trách nhiệm của KTV giữa KTV và chủ ngân hàng ở Iran. Theo quan điểm thực tế, các yếu tố quan trọng trong việc nâng cao sự tín nhiệm là sự nhận thức của các cổ đông đánh giá BCTC được cung cấp bởi nhà quản lý. Trong những năm gần đây, nhiều vụ bê bối của công ty lớn đã xảy ra, vì vậy các bên thứ ba yêu cầu KTV phải là một thẩm phán trung thực. Các bên thứ ba mong đợi KTV
  13. 8 cần có nhiều trách nhiệm hơn nữa trong việc phát hiện gian lận. Tuy nhiên KTV thì hiểu rằng giới hạn trách nhiệm của họ là không thể phát hiện tất cả các loại gian lận. Vì vậy, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có khoảng cách đáng kể giữa KTV và các chủ ngân hàng về việc nhận thức trách nhiệm phát hiện gian lận của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC. [11] Mahdi Salehi (2009) nghiên cứu về sự độc lập của KTV và khoảng cách mong đợi kiểm toán. Độc lập là cơ sở để đảm bảo độ tin cậy của báo cáo kiểm toán. Các nguyên nhân để giảm tính độc lập là từ sự phụ thuộc tài chính của KTV với khách hàng; cạnh tranh thị trường kiểm toán; việc cung cấp các dịch vụ phi kiểm toán. Từ sự phụ thuộc đó, KTV không thể đưa ra một báo cáo hợp lý. Nghiên cứu kết luận rằng “sự độc lập của KTV là một yếu tố quan trọng để giảm khoảng cách mong đợi kiểm toán, bởi vì các nhà đầu tư và những người sử dụng khác đang mong đợi nhiều hơn từ các KTV và công ty kiểm toán”. [12] Javed Siddiqui (2009) điều tra những tác động của giáo dục về kiểm toán trong việc làm giảm khoảng cách mong đợi kiểm toán tại một nền kinh tế mới nổi, cụ thể là Bangladesh. Nghiên cứu này đã chứng minh rằng giáo dục về kiểm toán làm giảm đáng kể khoảng cách mong đợi kiểm toán, tuy nhiên, kết quả cũng chỉ ra rằng mặc dù đã giới thiệu nhiều trường hợp bê bối trong kiểm toán cho các sinh viên trong chương trình, nhưng vẫn còn một sự mong đợi không hợp lý liên quan đến trách nhiệm của KTV. [13] Dan Stirbu (2009) đã đặt ra câu hỏi: Có phải KTV chịu trách nhiệm cho việc phát hiện gian lận trong những công ty mà họ kiểm tra? Và kết quả là: hầu hết công chúng nghĩ là có. Các KTV thường không đồng ý. Trách nhiệm của KTV đối với việc ngăn ngừa, phát hiện và báo cáo gian lận là một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất trong kiểm toán. Và nghiên cứu này đã tìm hiểu về việc nhận thức của người sử dụng BCTC về mức độ gian lận ở Romania và trách nhiệm của KTV trong phát hiện gian lận và các thủ tục kiểm toán có liên quan. Kết quả cho thấy đa số nhận thức sai lầm về mục tiêu của một cuộc kiểm toán. Điều này là do một số người
  14. 9 trả lời đã đặt một sự mong đợi cao vào trách nhiệm của KTV trong việc phát hiện và báo cáo gian lận hơn là yêu cầu của chuẩn mực kiểm toán. [14] Oyinlola oluwagbemiga (2010) điều tra vai trò của KTV trong việc phát hiện, ngăn chặn và báo cáo về gian lận. Dữ liệu được lấy từ 184 người được hỏi ở Nigeria. Kết quả cho thấy rằng những người trả lời rất quan tâm đến các vấn đề gian lận và đặt mong đợi rất cao về trách nhiệm của KTV về phòng, chống và phát hiện gian lận. Điều này là trái ngược với nhận thức và mục tiêu chính của KTV. Do đó, tạo ra một khoảng cách mong đợi kiểm toán rất lớn tại Nigeria. [15] Fowzia Rehana (2010) cũng nghiên cứu thực nghiệm về khoảng cách mong đợi kiểm toán thông qua nghiên cứu vai trò của giáo dục về kiểm toán tại Bangladesh. Khoảng cách mong đợi kiểm toán là sự khác biệt giữa những gì các KTV thực sự làm và những gì các bên thứ ba nghĩ rằng KTV làm hoặc nên làm trong việc thực hiện các thủ tục kiểm toán. Sự mâu thuẫn quan điểm đã được làm rõ liên quan đến vai trò của giáo dục trong việc thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán này. Nghiên cứu này đã được tiến hành nhằm điều tra xem liệu có bằng chứng cho thấy việc cung cấp giáo dục về bản chất và giới hạn của kiểm toán như là một phần trong chương trình đào tạo cử nhân kinh doanh góp phần thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán mà nguyên nhân từ một sự hiểu lầm các quy định và mục tiêu kiểm toán. Cũng như kết quả của các nghiên cứu trước, cho thấy rằng giáo dục về kiểm toán có hiệu quả đáng kể trong việc thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán. [16] Semiu Babatunde Adeyemi và Olayinka Marte Uadiale (2011) nghiên cứu về sự tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Nigeria. Nghiên cứu cho thấy một khoảng cách mong đợi kiểm toán tồn tại ở Nigeria, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến trách nhiệm KTV. Kết quả cho thấy rằng có sự khác biệt đáng kể trong nhận thức của nhóm trả lời tạo nên khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Nigeria. Do đó, nghiên cứu kiến nghị cần thiết phải thông tin cho công chúng về các đối tượng của một cuộc kiểm toán, vai trò và trách nhiệm của KTV để thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán.
  15. 10 [17] Omid Pourheydari và Mina Abousaiedi (2011) điều tra liệu có tồn tại một khoảng cách mong đợi kiểm toán giữa KTV và người sử dụng BCTC tại Iran. Nghiên cứu sử dụng một công cụ khảo sát để xác định khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Iran. Các phương pháp nghiên cứu tương tự như bởi Schelluch; Best và các cộng sự; Fadzly và Ahmad; Dixon và các cộng sự. Cũng như các nghiên cứu trước đó, kết quả đã tìm thấy có sự tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Iran, đặc biệt liên quan đến mức độ và tính chất về trách nhiệm KTV đối với phát hiện gian lận, tính hiệu quả của kiểm soát nội bộ, và trách nhiệm chuẩn bị các BCTC. [18] Mahdi Salehi (2011) tiếp tục nghiên cứu liên quan đến khoảng cách mong đợi kiểm toán, lần này tác giả đề cập đến bản chất và kích thước khác nhau của khoảng cách mong đợi kiểm toán trên toàn thế giới. Nghiên cứu đi đến kết luận rằng khoảng cách này nên được thu hẹp bởi chính KTV, cải thiện trách nhiệm kiểm toán trong các chuẩn mực mới và giáo dục cho những người sử dụng khác nhau hiểu về mục tiêu và bản chất của cuộc kiểm toán. [19] Fatemeh Saeidi (2012) điều tra sự tồn tại của khoảng cách mong đợi kiểm toán liên quan đến trách nhiệm của KTV trong việc phòng ngừa và phát hiện gian lận giữa các đối tượng là KTV, các NQL tài chính và các nhà đầu tư tại Iran. Công cụ điều tra là một bảng câu hỏi được thiết kế theo Hassink và các cộng sự (2009) với những thay đổi nhỏ theo chuẩn mực kiểm toán và hội nghề nghiệp kiểm toán ở Iran. Có 34 câu hỏi được chia thành bốn nhóm: định nghĩa gian lận (Câu hỏi 1-10), trách nhiệm cho việc phát hiện gian lận (Câu hỏi 11-22), trách nhiệm điều tra nghi ngờ gian lận (Câu hỏi 23-28), và báo cáo phát hiện gian lận cho sự giám sát của hội đồng quản trị và xã hội (Câu hỏi 29-34), thu thập 147 bảng trả lời. Kết quả của nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng của sự tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán giữa ba nhóm trả lời liên quan đến trách nhiệm ngăn ngừa và phát hiện gian lận của KTV. [20] Rasha Kassem và Dr. Andrew Higson (2012) nghiên cứu sâu vào hai lĩnh vực. Thứ nhất, nó khám phá những lý do đằng sau khoảng cách mong đợi kiểm toán, và thứ hai, nó đánh giá những nỗ lực của các nhà ban hành chuẩn mực kiểm
  16. 11 toán và KTV để thu hẹp khoảng cách liên quan với việc phát hiện gian lận. Và nghiên cứu này cung cấp một tập hợp các đề xuất để giúp ích cho nỗ lực chống gian lận của nhà ban hành chuẩn mực kiểm toán và KTV. [21] Porter (2012) đã tiến hành một cuộc khảo sát ở New Zealand và Anh trong năm 2008 để xác định ý kiến đến trách nhiệm của KTV hiện có theo quy định của pháp luật, các tiêu chuẩn về sự thực hiện những trách nhiệm đó và để xác định sự hiểu biết người sử dụng BCTC về những thông điệp được chuyển tải trên báo cáo kiểm toán. Nghiên cứu này được mở rộng từ chính nghiên cứu của Porter được thực hiện trong năm 1999 cũng khảo sát tại New Zealand và Anh nhằm xác định và giải thích sự khác biệt về khoảng cách mong đợi kiểm toán giữa năm 2008 và 1999 tại đây. Kết quả của nghiên cứu là các nhóm khảo sát vẫn chưa nhận thức đúng về trách nhiệm hiện tại của KTV và kỳ vọng KTV thực hiện thêm những trách nhiệm mà chuẩn mực kiểm toán hiện tại chưa quy định. Điều này cho thấy tồn tại khoảng cách mong đợi ở Anh và New Zealand. Và khoảng cách này ở New Zealand thì lớn hơn so với Anh một cách đáng kể. Kết quả này khác so với năm 1999 khi mức độ chênh lệch khoảng cách mong đợi kiểm toán ở hai quốc gia đã được tìm thấy cơ bản giống nhau. Từ năm 1999 đến năm 2008, khoảng cách mong đợi ở Anh đã thu hẹp đáng kể, trong khi đó ở New Zealand mở rộng một chút. Các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng sự thay đổi về khoảng cách mong đợi ở Anh và New Zealand khác nhau là do việc giám sát hoạt động KTV và công khai cho doanh nghiệp các vấn đề của BCTC đã kiểm toán tại Anh thì tốt hơn. Kết quả nghiên cứu còn cho thấy nội dung của chuẩn mực về báo cáo kiểm toán thì ít tác động đến sự hiểu biết của người sử dụng BCTC về những thông điệp được chuyển tải trên báo cáo kiểm toán. [22] Klaus Ruhnke & Martin Schmidt (2014) phân tích nguyên nhân của khoảng cách mong đợi kiểm toán cũng như tác động của những thay đổi đã được đề xuất nhằm thu hẹp khoảng cách này của các nghiên cứu trước cho các Cơ quan ban hành luật kiểm toán. Dựa trên bảng câu hỏi khảo sát được tiến hành trong năm 2011 tại Đức, nghiên cứu phát hiện rằng công chúng đã có những mong đợi quá mức vào trách nhiệm của KTV theo chuẩn mực hiện hành. Các nguyên nhân khác liên quan
  17. 12 là sự đánh giá quá khó, quá mong đợi của công chúng về hiệu quả hoạt động của KTV, nhưng mặt khác, cũng do sự thiếu năng lực của KTV trong cuộc kiểm toán. Kết quả nghiên cứu còn cho thấy KTV không nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình. Ngược lại với các đề xuất của nghiên cứu trước là bắt buộc xoay vòng KTV và một lệnh cấm thực hiện các dịch vụ phi kiểm toán cho công ty đang được kiểm toán, nghiên cứu này kiến nghị phải tăng nội dung thông tin của các ý kiến kiểm toán sẽ thu hẹp khoảng cách này đến một mức độ cao hơn. [23] Vidisha Gunesh Ramlugun (2014) cho thấy sự tồn tại của một khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Mauritius, đặc biệt hơn liên quan đến trách nhiệm, độ tin cậy và minh bạch cần thiết từ các KTV. Nguyên nhân của những khoảng cách mong đợi phát sinh do thiếu hiểu biết của người sử dụng BCTC về vai trò và trách nhiệm của KTV. 1.2 Các nghiên cứu tại Việt Nam Mặc dù thuật ngữ “khoảng cách mong đợi” liên quan đến trách nhiệm của KTV đã được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu trên thế giới nhưng chưa phổ biến ở Việt Nam. Phần lớn các nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào vấn đề về quy trình lập kế hoạch và hoàn thiện các thủ tục kiểm toán nhằm phát hiện hoặc ngăn ngừa gian lận (Lý Trần Kim Ngân, 2011; Trương Thị Yến Nhung, 2012 và Nguyễn Thị Thùy Linh, 2013), đánh giá một số thuộc cá nhân của KTV đối với chất lượng kiểm toán (Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2013), những vấn đề về luân chuyển KTV và những giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán BCTC (Lâm Huỳnh Phương, 2013; Nguyễn Trọng Thể, 2013 và Nguyễn Quốc Cường, 2013), nâng cao trách nhiệm của KTV (Ngô Thị Thu Hà, 2007) nhưng chưa chú trọng mong đợi thực tế của xã hội về trách nhiệm của KTV, trách nhiệm đó đã được KTV thực hiện như thế nào, bản thân KTV nhìn nhận ra sao, ĐVĐKT nghĩ gì về trách nhiệm của KTV trong cuộc kiểm toán BCTC. Vì có một khoảng trống trong các nghiên cứu truớc tại Việt Nam nên tác giả đã chọn đề tài này làm đề tài nghiên cứu cho mình. Nghiên cứu này nhằm cung cấp một bằng chứng thực nghiệm liệu có tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại
  18. 13 Việt nam, về sự mong đợi của xã hội về trách nhiệm hiện tại của KTV trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam hiện nay, đánh giá kết quả thực hiện trách nhiệm của KTV hiện nay như thế nào theo quan điểm của nguời sử dụng BCTC và có những đề xuất nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi đối với trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC tại Việt Nam.
  19. 14 Kết luận chương 1 Nghiên cứu về khoảng cách mong đợi kiểm toán là một đề tài cấp thiết và có ý nghĩa to lớn đối với người sử dụng BCTC nói riêng và xã hội nói chung. Vì việc nâng cao chất lượng kiểm toán hiện nay không chỉ cố gắng nâng cao năng lực của KTV, hoàn thiện các thủ tục kiểm toán hay kiểm soát chất lượng của các công ty kiểm toán mà còn phải tìm hiểu xem mong đợi thực tế của xã hội hiện nay như thế nào, hợp lý hay không và họ có đánh giá tốt trách nhiệm mà KTV đã thực hiện trong cuộc kiểm toán BCTC không, từ đó hạn chế những mong đợi không hợp lý của các nhóm lợi ích vượt quá khả năng thực tế của KTV nhằm thu hẹp khoảng cách mong đợi kiểm toán. Và chủ đề này đã được rất nhiều nghiên cứu trên thế giới thực hiện, điển hình là nghiên cứu của Porter được tiến hành từ năm 1989 tại New Zealand và mở rộng cả Anh và New Zealand năm 1999 và 2008. Các nghiên cứu đều có một kết luận: tồn tại khoảng cách mong đợi kiểm toán tại Anh và New Zealand mặc dù nghiên cứu ở các năm khác nhau. Đó cũng là kết quả nghiên cứu của Best, Peter J and Buckby, Sherrena and Tan, Clarice (2001) tại Singapore; Philmore Alleyne và Michael Howard (2006) tại Barbados; Yusuf Munir Sidani (2007) tại Lebanon…Tuy nhiên, đề tài này chưa được nghiên cứu nhiều tại Việt Nam. Vì vậy, tác giả đã lựa chọn thực hiện nghiên cứu về vấn đề này để điều tra xem liệu có tồn tại khoảng cách mong đợi tại Việt Nam.
  20. 15 CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 2.1 Trách nhiệm của KTV trong kiểm toán BCTC 2.1.1 Trách nhiệm của KTV theo VSA 200 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 được Ban hành kèm theo Thông tư số 214/2012/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2012 của BTC. Theo đoạn 11 của chuẩn mực này, mục tiêu tổng thể của KTV và doanh nghiệp kiểm toán khi thực hiện kiểm toán BCTC là: “Đạt được sự đảm bảo hợp lý rằng liệu BCTC, xét trên phương diện tổng thể, có còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn hay không, từ đó giúp KTV đưa ra ý kiến về việc liệu BCTC có được lập phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày BCTC được áp dụng, trên các khía cạnh trọng yếu hay không”. KTV phải đạt được sự đảm bảo hợp lý về việc liệu BCTC, xét trên phương diện tổng thể, có còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc do nhầm lẫn hay không. Sự đảm bảo hợp lý là sự đảm bảo ở mức độ cao và chỉ đạt được khi KTV đã thu thập được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp nhằm làm giảm rủi ro kiểm toán (là rủi ro do KTV đưa ra ý kiến không phù hợp khi BCTC còn có những sai sót trọng yếu) tới một mức độ thấp có thể chấp nhận được. Tuy nhiên, sự đảm bảo hợp lý không phải là đảm bảo tuyệt đối, do luôn tồn tại những hạn chế vốn có của cuộc kiểm toán làm cho hầu hết bằng chứng kiểm toán mà KTV dựa vào để đưa ra kết luận và ý kiến kiểm toán đều mang tính thuyết phục hơn là khẳng định (đoạn 05). Những hạn chế vốn có của cuộc kiểm toán do:  Bản chất của việc lập và trình bày BCTC: việc lập và trình bày BCTC gồm các xét đoán của BGĐ, nhiều khoản mục trên BCTC liên quan đến các quyết định hoặc đánh giá chủ quan hoặc có mức độ không chắc chắn dẫn đến kết quả là một số khoản mục trên BCTC có mức độ thay đổi tiềm tàng, không thể loại trừ hoàn toàn mà chỉ có thể áp dụng các thủ tục kiểm toán bổ sung để đánh giá.  Bản chất của các thủ tục kiểm toán: khả năng thu thập bằng chứng kiểm toán của KTV bị giới hạn về tính khả thi hoặc giới hạn pháp lý như BGĐ ĐVĐKT hoặc đối tượng khác có thể cố ý hoặc vô ý không cung cấp đầy đủ thông tin; hành vi gian
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2