intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Lạm phát kỳ vọng và chính sách tiền tệ ở các quốc gia Châu Á và Việt Nam

Chia sẻ: Nguyễn Bình | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:86

23
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn này nghiên cứu, đánh giá và kiểm định lại các các nhân tố vĩ mô chính tác động lên lạm phát ở các quốc gia Châu Á nói chung và ở Việt Nam nói riêng trong giai đoạn 1996 – 2013, giai đoạn mà hầu hết các quốc gia Châu Á chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ hai cuộc khủng hoảng năm 1997 và 2008, trong đó đánh giá tác động của nhân tố mới là chính sách tiền tệ trong mô hình NKPC.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Lạm phát kỳ vọng và chính sách tiền tệ ở các quốc gia Châu Á và Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM --------o0o-------- TRẦN THỊ BÍCH NGỌC LẠM PHÁT KỲ VỌNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở CÁC QUỐC GIA CHÂU Á VÀ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM --------o0o-------- TRẦN THỊ BÍCH NGỌC LẠM PHÁT KỲ VỌNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở CÁC QUỐC GIA CHÂU Á VÀ VIỆT NAM Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng Mã số : 60.34.02.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA TP. Hồ Chí Minh - Năm 2013
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn ‘‘LẠM PHÁT KỲ VỌNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở CÁC QUỐC GIA CHÂU Á VÀ VIỆT NAM’’ là công trình nghiên cứu của chính tác giả, nội dung được đúc kết từ quá trình học tập và các kết quả nghiên cứu thực tiễn trong thời gian qua, số liệu sử dụng là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Luận văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Thị Liên Hoa. Tác giả luận văn TRẦN THỊ BÍCH NGỌC
  4. MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU DANH MỤC PHỤ LỤC TÓM TẮT ........................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ............................................................................ 2 1.1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 2 1.2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................. 4 1.3. Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................... 5 1.4. Bố cục của luận văn .............................................................................. 5 CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY .................................................................................................................. 6 2.1. Tổng quan lý thuyết về lạm phát và NPKC ......................................... 6 2.2. Cách thức hình thành kỳ vọng trong NPKC: ....................................... 8 2.3. Diễn biến lạm phát kỳ vọng theo mô hình NPKC ở Việt Nam giai đoạn từ Khủng hoảng tài chính thế giới 2008 ............................................. 10 2.4. Các nghiên cứu thực nghiệm theo mô hình NPKC ở các quốc gia Châu Á ......................................................................................................... 11 2.5. Các nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam .......................................... 13 CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............... 17 3.1. Mô hình nghiên cứu............................................................................ 17 3.2. Mẫu dữ liệu nghiên cứu ...................................................................... 20
  5. 3.3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 21 3.3.1. Xử lý dữ liệu ban đầu ...................................................................... 21 3.3.2. Kiểm định nghiệm đơn vị ADF và PP trước khi xây dựng mô hình ... ......................................................................................................... 23 3.3.3. Phương pháp ARIMA để tìm độ trễ của lạm phát trong mô hình ... 25 3.3.4. Phương pháp OLS để xây dựng mô hình cuối cùng ....................... 28 CHƯƠNG 4: NỘI DUNG VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .............. 31 4.1. Kết quả ước lượng của Việt Nam ....................................................... 31 4.1.1. Kiểm định nghiệm đơn vị ADF và PP ............................................. 31 4.1.2. Ước lượng ARIMA tìm độ trễ của lạm phát .................................... 34 4.1.3. Ước lượng OLS tìm ra mô hình dự báo lạm phát kỳ vọng ở Việt Nam ......................................................................................................... 38 4.1.4. Kiểm định đồng liên kết Engle-Granger ......................................... 41 4.2. Kết quả ước lượng ở tám quốc gia Châu Á ........................................ 42 CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN............................................................................. 49 5.1. Kết luận và hàm ý ............................................................................... 49 5.2. Hạn chế của luận văn .......................................................................... 50 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ADF: Augmented Dickey-Fuller CPI: Chỉ số giá tiêu dùng FAO: Tổ chức lương nông thế giới FDI: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FII: Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài FPI: Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán GDP: Tổng sản phẩm quốc nội IFS: International Monetary Fund’s International Financial Statistics HP: Hodrick – Prescott NHNN: Ngân hàng nhà nước NKPC: Mô hình đường cong Phillips mới OECD: Organization for Economic Co-operation and Development PP: Phillips-Perron PPI: Chỉ số sản xuất công nghiệp WB: Ngân hàng Thế giới
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 1: Dự báo mối quan hệ giữa các biến độc lập và lạm phát. Bảng 2: Tóm tắt hành vi của các hệ số AC và PAC trong mô hình MA, AR và ARMA Bảng 3: Các giá trị đặc trưng cho kiểm định DW = 0 Bảng 4: Kiểm định ADF đối với dữ liệu Việt Nam Bảng 5: Kiểm định PP đối với dữ liệu Việt Nam Bảng 6: Kết quả các tham số của mô hình ARIMA, AR(4) được ước lượng theo phần mềm Stata Bảng 7: Kết quả các tham số của mô hình ARIMA, MA(4) được ước lượng theo phần mềm Stata Bảng 8: Kết quả các tham số của mô hình ARIMA, AR(4) MA(4) được ước lượng theo phần mềm Stata Bảng 9: Kết quả các thông số kiểm định Bảng 10: Kết quả ước lượng mô hình lạm phát kỳ vọng ở Việt Nam Bảng 11: Kết quả kiểm định đồng liên kết theo phần mềm Stata Bảng 12: Phân loại các quốc gia theo IMF Bảng 13: Tóm tắt các biến có ý nghĩa trong mô hình dự báo lạm phát kỳ vọng ở Hàn Quốc và Singapore Bảng 14: Tóm tắt các biến có ý nghĩa trong mô hình dự báo lạm phát kỳ vọng ở các quốc gia còn lại Bảng 15: Chế độ Tỷ giá ở các quốc gia Châu Á
  8. DANH MỤC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ Hình 1: Lạm phát kỳ vọng ngắn hạn ở các quốc gia Đông Nam Á Hình 2: Lạm phát thực tế và lạm phát kỳ vọng ở Việt Nam Hình 3: Số liệu dưới dạng ln của các biến của Việt Nam, 2001Q1 – 2013Q1 Hình 4: Đồ thị tương quan của dữ liệu sau khi biến đổi sai phân bằng phần mềm Stata DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC Phụ lục 1: Diễn biến lạm phát thực tế và lạm phát kỳ vọng ở tám quôc gia Châu Á Phụ Lục 2: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị Phụ Lục 3: Số liệu dưới dạng ln của các nước Phụ Lục 4: Các yếu tố xác định lạm phát kỳ vọng ở các nước
  9. 1 TÓM TẮT Bài nghiên cứu này theo đuổi cách thức xác định lạm phát trong tương lai ở tám quốc gia Châu Á – Hàn Quốc, Singapore, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia, Philippine, Indonesia và quan trọng là ở Việt Nam trong giai đoạn từ những năm 1991 đến đầu năm 2013, thông qua việc tìm hiểu các nhân tố gây ra lạm phát kỳ vọng ở các nước này bằng việc ước lượng theo mô hình đường cong Phillip mới (NKPC) từ các nhân tố vĩ mô chính như lạm phát trong quá khứ, chính sách tiền tệ, chi phí biên và các cú sốc sung. Các kết quả thực nghiệm cho thấy lạm phát trong quá khứ, đặc biệt là lạm phát trước đó một năm có ảnh hưởng rất lớn đến lạm phát hiện tại và là dự báo tốt nhất cho lạm phát kỳ vọng trong ngắn hạn. Một điểm thú vị khác là bài nghiên cứu còn tìm thấy mức ý nghĩa thống kê của biến giá lương thực thế giới ở sáu trên tám quốc gia – giá này được lấy từ tổ chức FAO. Điều này khác với các nghiên cứu trước đây và khẳng định rằng, giá lương thực thế giới vẫn có ảnh hưởng, tác động lên kỳ vọng và lạm phát sau đó ba tháng. Từ khóa: Lạm phát, lạm phát kỳ vọng, chính sách tiền tệ, khe hở sản lượng, khe hở cung tiền thực, mô hình ARIMA, kiểm định ADF, kiểm định PP, kiểm định đồng liên kết Enger-Granger
  10. 2 CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 1.1. Lý do chọn đề tài Trong suốt hai thập kỷ gần đây, các nền kinh tế Châu Á mới nổi có tốc độ tăng trưởng rất cao và nhanh. Điều này đã và đang khiến các vấn đề liên quan đến việc kiểm soát lạm phát trở nên gay gắt và bức thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, muốn điều hành lạm phát một cách hiệu quả, Chính phủ mỗi quốc gia phải hiểu và nắm được các áp lực chính gây ra lạm phát trong chính quốc gia đó. Các áp lực này đã trở nên căng thẳng hơn từ sau năm 2008 – hậu quả của khủng hoảng tài chính toàn cầu – lạm phát gia tăng rất nhanh từ tháng 10/2009 – thời điểm các gói kích thích kinh tế của các nước trên thế giới được tung ra để cứu kinh tế. Từ đó, các yếu tố tiền tệ tích lũy từ các gói kích thích kinh tế cùng với giá lương thực và dầu mỏ tăng cao đã đẩy lạm phát tăng quá nhanh. Những yếu tố về kỳ vọng trong thời gian này trở nên mất kiểm soát khiến các nhà hoạch định chính sách không thể thành công với các chính sách tiền tệ của mình. Kỳ vọng về lạm phát là yếu tố rất quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách. Bởi việc neo thành công những kỳ vọng này sẽ tạo dựng niềm tin của dân chúng đối với ngân hàng trung ương, từ đó giúp chính sách tiền tệ phát huy tác dụng của mình, tạo ra một không gian tương đối cho các chính sách tiền tệ trở nên linh hoạt hơn trong ngắn hạn. Những kỳ vọng về lạm phát trong tương lai có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình ra quyết định của các đại diện trong nền kinh tế. Bên cạnh yếu tố lạm phát kỳ vọng, các yếu tố liên quan đến chính sách tiền tệ như cung tiền và lãi suất cũng có vai trò quan trọng không kém trong việc hình thành lạm phát ở các quốc gia Châu Á, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á.
  11. 3 Hình 1: Lạm phát kỳ vọng ngắn hạn ở các quốc gia Đông Nam Á (Nguồn: Economic Consensus, BIS Papers No 70, năm 2012) Mức độ kỳ vọng lạm phát của người dân phụ thuộc vào diễn biến lạm phát trong quá khứ. Từ năm 2005 đến nay chỉ số lạm phát của Việt Nam luôn ở mức cao so với hai quốc gia có thể xem là tương tự như nước ta là Thái Lan và Trung Quốc. Chính mức độ cao và dai dẳng đó đã dần hình thành mức độ kỳ vọng lạm phát cao trong người dân và có thể dẫn đến khả năng kiểm soát của Chính phủ sẽ rất khó khăn. Hình 2: Lạm phát thực tế và lạm phát kỳ vọng ở Việt Nam
  12. 4 (Nguồn: Economic Consensus, BIS Papers No 70, năm 2012) Ba năm gần đây, ổn định vĩ mô là một trong bốn vấn đề quan trọng trong định hướng chính sách ở Việt Nam, trong đó lạm phát là vấn đề nổi bật nhất. Sau khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam dần chuyển sang nền kinh tế mở, sự ảnh hưởng của kinh tế thế giới lên kinh tế Việt Nam ngày càng rõ nét. Khác với giai đoạn Khủng hoảng năm 1997, Việt Nam là một ngoại lệ thì nay Việt Nam đang bị cuốn vào dòng xoáy của Khủng hoảng tài chính thế giới 2008 và khủng hoảng nợ công ở Mỹ và Châu Âu. Từ 2011 đến nay, Việt Nam vẫn đang rất chật vật xoay sở trong việc kiềm chế sự gia tăng của lạm phát, các yếu tố kỳ vọng và tìm cách đưa kinh tế thoát khỏi suy thoái. Nhiều thách thức mới cho việc quản lý kinh tế vĩ mô được đặt ra. Hàng loạt những thay đổi trong mô trường vĩ mô và chính sách kinh tế đã đặt ra yêu cần mới trong việc tiếp cận một cách có hệ thống và toàn diện nhằm xác định những nhân tố vĩ mô quyết định lạm phát trong bối cảnh mới. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “LẠM PHÁT KỲ VỌNG VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở CÁC QUỐC GIA CHÂU Á VÀ VIỆT NAM” để đánh giá tác động của các nhân tố vĩ mô chính lên lạm phát ở Châu Á và quan trọng là ở Việt Nam, trong đó xem xét ảnh hưởng của yếu tố kỳ vọng của các nhân tố lên lạm phát hiện tại. Từ đó, đưa ra khả năng dự báo của các nhân tố này đối với sự hình thành lạm phát trong tương lai. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu Luận văn này nghiên cứu, đánh giá và kiểm định lại các các nhân tố vĩ mô chính tác động lên lạm phát ở các quốc gia Châu Á nói chung và ở Việt Nam nói riêng trong giai đoạn 1996 – 2013, giai đoạn mà hầu hết các quốc gia Châu Á chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ hai cuộc khủng hoảng năm 1997 và
  13. 5 2008, trong đó đánh giá tác động của nhân tố mới là chính sách tiền tệ trong mô hình NKPC. Từ đó, tác giả xây dựng mô hình dự báo lạm phát kỳ vọng ở các quốc gia này, đồng thời luận văn còn tìm hiểu sự khác biệt về vai trò của từng nhân tố này đối với lạm phát kỳ vọng giữa nhóm các quốc gia phát triển và đang phát triển. 1.3. Câu hỏi nghiên cứu Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu trên, tác giả đưa ra một số câu hỏi nghiên cứu như sau:  Lạm phát trong quá khứ ảnh hưởng như thế nào đến lạm phát hiện tại và việc hình thành lạm phát kỳ vọng ở các quốc gia Châu Á và Việt Nam ?  Vai trò của chính sách tiền tệ qua hai nhân tố tăng trưởng cung tiền và lãi suất thực có tác động như thế nào đối với lạm phát ở các quốc gia Châu Á và đặc biệt là ở Việt Nam ?  Khả năng dự báo của các nhân tố này đối với việc hình thành lạm phát trong tương lai ? 1.4. Bố cục của luận văn Luận văn này gồm có 5 chương : chương 1 giới thiệu trình bày tổng quan các nội dung chính của luận văn và giải thích lý do tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu. Chương 2 trình bày tổng quan lý thuyết, nội dung, phương pháp và kết quả của các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan trước đây. Chương 3 mô tả mẫu dữ liệu nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, mô hình nghiên cứu và giải thích các biến được sử dụng để phân tích. Chương 4 thảo luận về những kết quả thực nghiệm. Chương 5 kết luận của luận văn.
  14. 6 CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY 2.1. Tổng quan lý thuyết về lạm phát và NPKC Các lý thuyết hiện đại về lạm phát của Samuelson và Nordhaus (2005) trong cuốn sách của mình “Kinh tế vĩ vô, bản thứ 18” cho thấy có ba nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát: cầu đẩy, chi phí đẩy và các kỳ vọng lạm phát trong tương lai cũng như lạm phát trong quá khứ.  Lạm phát cầu đẩy diễn ra khi tổng cầu tăng không ổn định dẫn đến việc gia tăng các áp lực lên nguồn lực kinh tế và GDP thực lớn hơn GDP tiềm năng, tức là khe hở sản lượng dương. Một sự gia tăng trong tổng cầu có thể đến từ nhiều nguyên nhân như người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn, hoặc cũng có thể do lãi suất giảm, thuế bị cắt hay đơn giản là niềm tin của người tiêu dùng gia tăng… Và một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng là sự gia tăng trong cung tiền mở rộng – tổng tiền trong nền kinh tế trong một thời điểm làm gia tăng tổng cầu, từ đó làm giá cả tăng lên. Điều này sẽ dẫn đến lạm phát nếu cầu tăng nhanh hơn cung.  Lạm phát chi phí đẩy: cách tiếp cận này dựa trên nguyên nhân là sự gia tăng trong chi phí các nhân tố sản xuất. Khi chi phí sản xuất tăng cao, sản lượng giảm sút. Cung bị giảm dẫn đến giá tăng. Theo đó, người lao động yêu cầu mức lương cao hơn và điều này lại dẫn đến tăng chi phí. Mà nguyên nhân chi phí các nhân tố sản xuất tăng cao có thể do giá dầu, sự phá giá đồng tiền dẫn đến giá nhập khẩu các nguyên liệu tăng cao, lãi suất tăng khiến chi phí vay nợ tăng cao…  Kỳ vọng lạm phát thời gian gần đây được xem là một nhân tố quan trọng trong việc dự báo lạm phát và luôn được các nhà kinh tế, các nhà chính
  15. 7 sách theo dõi. Bởi những kỳ vọng này ảnh hưởng lên hành vi của người dân theo nhiều cách khác nhau và có ảnh hưởng lâu dài lên lạm phát. Trong khi đó, khi nghiên cứu về lạm phát theo hướng của Phillips (1958) và Lipsey (1950) phát triển dựa trên mô hình đường cong Phillips, việc bổ sung vai trò kỳ vọng về lạm phát vào mô hình của Friedman (1960) và Edmund Phelps (1967) và những cải biên, chỉnh sửa gần đây của Fischer (1977) và Taylor (1979) đã khẳng định vai trò quyết định lớn đến lạm phát hiện tại và tương lai của lạm phát kỳ vọng. Các kết quả của Calvo (1983) và Gali và Gertler (1999) cũng góp phần khẳng định thêm điều này. Vì vậy, việc xác định các nhân tố kỳ vọng này sẽ giúp các nhà hoạch định dự báo được lạm phát trong tương lai. NPKC mô tả mối quan hệ giữa lạm phát và kỳ vọng của các đại diện trong nền kinh tế về lạm phát tương lai, chi phí biên hay khe hở sản lượng. Thông qua NPKC, lạm phát sẽ có xu hướng tăng khi khe hở sản lượng tăng, vì lúc này, chi phí cao được chuyển vào giá cả và khi lạm phát kỳ vọng tăng cao, các đại diện kinh tế sẽ tăng giá hôm nay để phản ánh mức giá cao hơn ở hôm sau. Gali và Gertler (1999), Whelan, Karl (2005) đã phát triển mô hình NKPC thành dạng sau: = + Ε {π }+γ π  Ε {π } = (− +π −γ π )/ Từ mô hình trên, có thể thấy lạm phát kỳ vọng chịu sự tác động rất lớn từ lạm phát quá khứ và hiện tại. Các nghiên cứu của Woodford (2003) và Christiano, Eichenbaum và Evans (2005) bổ sung thêm vai trò của lạm phát quá khứ vào mô hình NPKC. Đây là nhân tố có vai trò rất quan trọng quyết định đến lạm phát hiện tại và tương lai. Nhân tố này giúp xác định yếu tố kỳ vọng của lạm phát.
  16. 8 2.2. Cách thức hình thành kỳ vọng trong NPKC: Kỳ vọng về lạm phát của dân chúng có được thông qua các tổ chức điều tra độc lập như Michigan, Reuters hoặc các cuộc điều tra hộ gia đình của “Survey of Profession Forecasters”. Dân chúng có thể đưa ra những dự đoán của mình về lạm phát trong năm tới bằng với lạm phát của năm vừa qua hoặc là trung bình của vài năm gần đây. Nếu dự đoán như vậy thì gọi là kỳ vọng thích nghi. Họ có thể không chỉ dựa vào quá khứ để đoán tương lai mà còn sử dụng những thông tin hiện tại để giúp mình dự đoán. Với cách này, các nhà kinh tế học gọi là kỳ vọng hợp lý. Giữa những nhà kinh tế có quan điểm khác nhau về sự hình thành kỳ vọng thích nghi hay hợp lý. Có ba trường hợp cơ bản cho việc hình thành kỳ vọng:  Khi lạm phát ở mức thấp trong suốt một khoảng thời gian dài, kỳ vọng sẽ “tĩnh” – nói cách khác, các tổ chức cá nhân (hộ kinh doanh và doanh nghiệp) sẽ không còn lo lắng về lạm phát và làm ngơ trước sự thật rằng mức lạm phát có thể thay đổi.  Khi lạm phát ở mức tương đối cao, người ta đã không thể làm ngơ được nữa. Nếu sự thay đổi trong tỷ lệ lạm phát diễn ra chậm, mức lạm phát của năm sau có thể dự tính được trên cơ sở mức lạm phát của năm trước – hay nói cách khác, khi đó kỳ vọng có khả năng thích ứng, tức là phụ thuộc vào các giá trị quá khứ của lạm phát. Đường cong Phillips trong trường hợp này có công thức: = + . + Đường cong sẽ dịch chuyển lên hoặc xuống tùy thuộc vào mức lạm phát của năm ngoái cao hay thấp hơn mức lạm phát của năm kia. Theo kỳ vọng thích ứng, tỷ lệ lạm phát sẽ tăng (giảm) theo thời gian nếu > 0 ( < 0), tức là − = . > 0.
  17. 9  Khi những điều kiện cơ bản và chính sách của chính phủ thay đổi nhanh chóng, kỳ vọng thích ứng sẽ dẫn tới những sai lầm to lớn và đắt giá. Trong những tình huống như vậy, các tổ chức cá nhân sẽ điều chỉnh kỳ vọng không phải dựa vào quá khứ, mà dựa trên cơ sở nhìn về phía trước và cố đoán biết các chính sách mà chính phủ sẽ ban hành trong tương lai. Hay theo cách khác, các tổ chức cá nhân sẽ bỏ qua kỳ vọng thích ứng và chuyển sang kỳ vọng hợp lý. Một điều thú vị là, khi các chính sách của chính phủ được tiên đoán m ột cách hoàn hảo thì chúng sẽ chẳng còn tác dụng gì cho nền kinh tế thực khi kỳ vọng được hình thành m ột cách hợp lý. Vì vậy, nếu chính phủ tuyên bố rằng sẽ tăng chi tiêu để tăng tỷ lệ việc làm, các tổ chức các nhân sẽ ngay lập tức điều chỉnh tăng tỷ lệ lạm phát kỳ vọng (đường cong Phillips dịch chuyển lên trên) và chính sách sẽ không có hiệu quả gì ngoài việc làm tỷ lệ lạm phát tăng cao hơn. Quá trình hình thành kỳ vọng cũng ảnh hưởng khác nhau lên hiệu quả của chính sách kinh tế. Nếu dân chúng hành động theo kiểu kỳ vọng thích nghi thì chính sách sẽ có công hiệu hơn là kỳ vọng hợp lý. Trong thực tế, doanh nghiệp và người lao động sẽ thực hiện mặc cả tiền lương của mình trong giai đoạn làm việc bằng cách hình dung giá cả của giai đoạn đó như thế nào. Một khi người lao động dự đoán rằng vào lúc vào lúc mà mình nhận lương giá cả sẽ tăng gấp đôi thì chắc chắn rằng ngày đặt bút ký hợp đồng lao động hôm nay là cơ hội tốt nhất để họ yêu cầu doanh nghiệp phải tăng tiền lương của mình, ít nhất là gấp đôi, nếu không muốn sắp tới phải ăn chỉ bằng một nửa của ngày hôm nay. Và nếu chủ doanh nghiệp cũng đồng ý chuyện này, nghĩa là sẽ trả lương tăng gấp đôi, thì không có lý do gì họ không tăng giá bán sản phẩm để bù vào phần chi phí tăng lương (và cả những nguyên liệu đầu vào mà họ cũng nghĩ là
  18. 10 tăng). Như vậy, khi cả hai bộ phận này trong dân chúng cùng có một kỳ vọng về giá cả trong tương lai tăng gấp đôi thì chắc chắn nó sẽ tăng ít nhất là gấp đôi. Rõ ràng là, sự tăng giá này chẳng phải bắt nguồn từ tăng tiền quá mức, biến động giá tương đối như tỷ giá hay sự thay đổi cấu trúc của nền kinh tế... mà bắt nguồn từ yếu tố kỳ vọng. Các chính sách chống lạm phát sẽ khó khăn hơn khi mà yếu tố kỳ vọng chưa ổn định. 2.3. Diễn biến lạm phát kỳ vọng theo mô hình NPKC ở Việt Nam giai đoạn từ Khủng hoảng tài chính thế giới 2008 Vào đầu năm 2007, nền kinh tế Việt Nam lúc này còn rất lạc quan, thị trường chứng khoán, bất động sản có giá tăng rất nhanh, FDI và FPI tăng rất mạnh và lớn nên dù cán cân tài khoản vãng lai bị thâm hụt nặng nhưng Ngân hàng nhà nước (NHNN) vẫn có thể âm thầm mua vào ngoại tệ mà không gây sức ép lên tỷ giá. Lúc này nền kinh tế vẫn rất ổn định trên đường Phillips có lạm phát kỳ vọng thấp. Chỉ sau đó ít lâu đến quý 4 năm 2007, lạm phát ở Việt Nam, lần đầu tiên sau nhiều năm, vượt qua ngưỡng một con số. Cũng trong năm 2007, chính sách tiền tệ của NHNN thể hiện qua các biện pháp hành chính vào lãi suất và tăng trưởng tín dụng đã có tác dụng không nhỏ lên lãi suất. Thực tế là lãi suất liên ngân hàng một tháng trung bình cho cả quý giảm từ 8.26% trong quý 1 xuống 5.55% trong quý 3, điều này cho thấy nền kinh tế đã được nới lỏng một cách gián tiếp. Trong quý 4 năm 2007, NHNN bắt đầu thực hiện siết thanh khoản làm lãi suất liên ngân hàng tăng trở lại lên 6.75%. Nhưng lần thắt chặt này đã khiến nền kinh tế rời khỏi đường Phillips rất nhanh. Vì vậy đầu năm 2008, NHNN nâng tất cả các loại lãi suất chính sách, phát hành 20,000 tỷ tín phiếu bắt buộc để rút thanh khoản về, đặt trần tăng trưởng tín dụng và chấm dứt tích lũy dự trữ ngoại tệ. Lãi suất liên ngân hàng một tháng đã tăng vọt lên 8.97% và đạt đỉnh 19.31% vào quý 3 năm 2008. Đồng thời, lãi suất cơ
  19. 11 bản lúc này tăng lên 14% từ ngày 11/06/2008. Lần thắt chặt đã diễn ra rất nhanh và quyết liệt. Điều này khiến nền kinh tế phản ứng như lý thuyết với đường Phillips mới có lạm phát kỳ vọng cao hơn. Quý 1 năm 2009, tăng trưởng GDP chỉ còn 3.1% so với năm ngoái đến từ hai nguyên nhân chính là tiền tệ bị thắt chặt và ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới 2008. Giá các loại nguyên liệu thô và giá dầu giảm mạnh, kéo lạm phát ở Việt Nam giảm theo. Nhờ vậy, lạm phát kỳ vọng ở Việt Nam giảm mạnh trong năm 2009 và giúp nền kinh tế trở về đường Phillips ban đầu. Từ tháng 10/2008, NHNN bắt đầu cắt giảm lãi suất và đến quý 1 năm 2009, lãi suất cơ bản chỉ còn 7%, thấp hơn năm 2007. Lãi suất liên ngân hàng lúc này giảm xuống còn 6.73%, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng quá nhanh. Gói kích cầu thông qua hỗ trợ lãi suất, tăng đầu tư công và giảm thuế lên lến 8% GDP đã được giữ quá lâu trong giai đoạn này và lãi suất cơ bản chỉ được nâng lên 8% vào cuối năm 2009 và đạt 8.78% vào quý 4 năm 2010 đã khiến lạm phát một lần nữa quay trở lại 2 con số. Lạm phát kỳ vọng tăng rất nhanh khiến các nỗ lực thắt chặt tiền tệ trong năm 2011 của NHNN trở nên chật vật trong hai năm 2011 và 2012. 2.4. Các nghiên cứu thực nghiệm theo mô hình NPKC ở các quốc gia Châu Á Trong hầu hết các mô hình NPKC đo lường cho các quốc gia phát triển, khe hở sản lượng được ứng dụng như một chỉ số đo lường tổng cầu. Mối liên hệ giữa lãi suất và mức cầu dư ở các nền kinh tế phát triển được tìm thấy rất rõ ràng bởi tính hiệu quả cao trong cơ chế truyền dẫn từ chính sách tiền tệ vào kinh tế thực thông qua lãi suất. Vì vậy Scheibe và Vines (2005) cho rằng không nên đưa cung tiền cùng với khe hở sản lượng vào mô hình. Tuy nhiên, kết quả thực nghiệm trên mười mô hình về lạm phát của Razzak (2002) lại
  20. 12 cho thấy khe hở sản lượng lại không phải là biến giải thích có ý nghĩa thống kê đối với lạm phát, mà các biến thuộc về chính sách tiền tệ như cung tiền và lãi suất thực mới là biến có ý nghĩa thống kê tốt hơn trong việc cung cấp thông tin về lạm phát trong tương lai. Với các quốc gia đang phát triển, mô hình đo lường lạm phát theo khe hở sản lượng cũng ít được ứng dụng. Nghiên cứu của Coe và McDermott (1997) về việc sử dụng mô hình có yếu tố khe hở sản lượng ở Châu Á cũng cho thấy mô hình này không thực sự hiệu quả ở Thái Lan, Trung Quốc và Ấn Độ. Một lý giải có thể chấp nhận được trong trường hợp này là các quốc gia đang phát triển có thị trường tài chính không thực sự phát triển, và do đó mối liên hệ giữa lãi suất và tổng cầu yếu. Vì vậy, đối với các quốc gia đang phát triển, khe hở cung tiền thực nên được đưa vào mô hình như là một nhân tố tiềm năng trong việc xác định lạm phát kỳ vọng thay cho khe hở sản lượng. Các cú sốc cung nội địa, đặc biệt là các cú sốc liên quan đến khu vực nông nghiệp, có thể cung cấp những chỉ báo vĩ mô quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển. Không xét đến việc các cú sốc này là tạm thời hay lâu dài, phạm vi ảnh hưởng lên lạm phát phụ thuộc vào tỷ trọng của khu vực ảnh hưởng này trong chỉ số giá. Ví dụ, ở các quốc gia đang phát triển, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong chỉ số giá tiêu dùng (CPI). Ngoài ra, giá thực phẩm có xu hướng không ổn định vì ảnh hưởng của thời tiết cũng như sự tồn tại của các hàng rào thương mại. Thêm vào đó, một sự gia tăng trong giá các hàng hóa thực phẩm không chỉ làm tăng lạm phát ngắn hạn do tỷ trọng cao trong CPI, mà còn khiến kỳ vọng lạm phát gia tăng, từ đó có những tác động không tốt lên tỷ lệ lạm phát. Kết quả của Carolina và Unsal (2011) cũng cho thấy lạm phát ở Châu Á trong suốt hai thập kỷ gần đây chủ yếu do các cú sốc tiền tệ và sốc cung, tuy nhiên
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2