intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu một số yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thép Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:64

25
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài này được thực hiện dựa trên bài nghiên cứu của Ray (2011) về xem xét các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các công ty ngành thép ở Ấn Độ. Áp dụng mô hình này, tác giả đưa ra số liệu của 13 công ty thép tiêu biểu trong nước trong giai đoạn 2007-2011. Bằng phương pháp bình phương bé nhất OLS để chạy mô hình hồi quy đa nhân tố kiểm định tác động của 9 nhân tố độc lập đến cấu trúc vốn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu một số yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thép Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp. HCM -------------- Bùi Thị Nữ NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CẤU TRÚC VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH THÉP VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh - Năm 2012
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp. HCM -------------- Bùi Thị Nữ NGHIÊN CỨU MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CẤU TRÚC VỐN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH THÉP VIỆT NAM Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng Mã số: 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS Nguyễn Ngọc Định TP. Hồ Chí Minh - Năm 2012
  3. i Mục lục Lời cam đoan ..................................................................................................... ii Lời cảm ơn ....................................................................................................... iii Tóm tắt ............................................................................................................. iv Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt ................................................................... v Danh mục các bảng, biểu ................................................................................. vi 1. Giới thiệu....................................................................................................... 1 1.1 Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1 1.2 Vấn đề nghiên cứu ................................................................................... 2 1.3 Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................ 3 1.4 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu............................................................ 3 2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu về cấu trúc vốn trên thế giới ................. 4 3. Mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn ...................................... 13 4. Nghiên cứu thực nghiệm các công ty ngành thép tại Việt Nam ................. 27 4.1 Thị trường thép trong nước ................................................................... 27 4.1.1 Lịch sử ngành thép trong nước ....................................................... 27 4.1.2 Đặc điểm ngành thép trong nước.................................................... 27 4.2 Kiểm định mô hình tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của các công ty thép Việt Nam............................................................. 28 4.2.1 Lý do lựa chọn mô hình của tác giả Ray ........................................ 28 4.2.2 Về phương pháp kiểm định và thu thập số liệu .............................. 29 5. Kết luận và hạn chế ..................................................................................... 35 5.1. Kết luận ................................................................................................ 35 5.2. Hạn chế ................................................................................................. 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ WEBSITE ..................................................... 36 Phụ lục ............................................................................................................. 38
  4. ii Lời cam đoan Tôi xin cam đoan rằng luận văn “Nghiên cứu một số yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thép Việt Nam” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các thông tin, dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, các nội dung trích dẫn đều được ghi rõ nguồn gốc và các kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn này chưa được công bố tại bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 12 năm 2012 Học viên Bùi Thị Nữ
  5. iii Lời cảm ơn Sau một thời gian học tập, nghiên cứu tài liệu và điều tra thu thập thông tin, đến nay ý tưởng trong luận văn tốt nghiệp cao học với đề tài: “Nghiên cứu một số yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thép Việt Nam” đã được thực hiện thành công. Có được thành quả này là nhờ công ơn to lớn của toàn thể quý thầy cô, gia đình và bạn bè đồng nghiệp đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Đặc biệt, tôi xin chân thành gửi lời cám ơn sâu sắc đến: PGS.TS Nguyễn Ngọc Định, người đã dìu dắt hướng dẫn tôi từ những bước đi đầu tiên đến khi hoàn thành luận văn cao học. Đồng thời cũng là người động viên và giúp đỡ tôi rất nhiều trong việc điều tra, thu thập số liệu, phân tích, xử lý dữ liệu, và từ những góp ý sâu sắc của thầy để tôi hoàn thiện luận văn của mình. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 12 năm 2012 Học viên Bùi Thị Nữ
  6. iv Tóm tắt Đề tài này được thực hiện dựa trên bài nghiên cứu của Ray (2011) về xem xét các yếu tố tác động đến cấu trúc vốn của các công ty ngành thép ở Ấn Độ. Áp dụng mô hình này, tác giả đưa ra số liệu của 13 công ty thép tiêu biểu trong nước trong giai đoạn 2007-2011. Bằng phương pháp bình phương bé nhất OLS để chạy mô hình hồi quy đa nhân tố kiểm định tác động của 9 nhân tố độc lập đến cấu trúc vốn. Mô hình cho ra độ phù hợp gần 60%, và kiểm định t-value cũng có ý nghĩa với hầu như các biến. Kết quả mô hình chỉ ra có 3 biến số tác động đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp ngành thép Việt Nam. Đó là: Tài sản đảm bảo, PROF1(ROA) và PROF2(ROS). Trong đó tài sản đảm bảo và PROF1 có tác động âm đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp, và PROF2 có tác động dương đến việc vay nợ của doanh nghiệp ngành thép ở Việt Nam. Các biến số còn lại mô hình chỉ ra có tác động dương hoặc âm, tuy nhiên nó không có ý nghĩa về mặt thống kê và chưa thể kết luận các biến số này thực sự có ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp ngành thép ở Việt Nam.
  7. v Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt ASEAN: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á DNVVN: các doanh nghiệp vừa và nhỏ EPS: Thu nhập mỗi cổ phần J&M: Jensen và Meckling HNX: Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HOSE: Sở Giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh M&M: Modigliani và Miller ROA: Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản ROE: Tỷ suất sinh lợi trên vốn cổ phần ROS: Tỷ suất sinh lợi trên doanh thu OLS: Phương pháp bình phương bé nhất Vnsteel: Tổng Công ty Thép Việt Nam WSA: Hiệp hội Thép Thế giới
  8. vi Danh mục các bảng, biểu Bảng 3.1: Các biến độc lập, định nghĩa và dự đoán về dấu của tác giả Ray Bảng 3.2: Kết quả kiểm định từ mô hình của tác giả Ray Bảng 4.1: Kết quả mô hình thực nghiệm của các công ty thép tiêu biểu trong nước giai đoạn 2007 - 2011. Bảng 4.2: Kết quả ma trận hiệp phương sai từ mô hình thực nghiệm của các công ty thép tiêu biểu trong nước giai đoạn 2007 - 2011. Bảng 4.3: Kết quả mô hình hồi quy thu được từ mô hình thực nghiệm của các công ty thép tiêu biểu trong nước giai đoạn 2007 - 2011. Bảng 4.4: Kết quả mô hình hồi quy rút gọn.
  9. 1 1. Giới thiệu 1.1 Lý do chọn đề tài Hiện nay, trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức lớn đan xen với nhau. Qua quá trình nghiên cứu tìm hiểu và nhận định thị trường, tác giả thấy rằng có nhiều doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực, trong đó có các doanh nghiệp ngành thép, còn chưa chú trọng đúng mức đến cấu trúc vốn của công ty. Điều này làm cho doanh nghiệp khó hay không thể đạt đến tối ưu hóa giá trị doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả kinh doanh, bởi lẽ vai trò quan trọng của cấu trúc vốn có thể quyết định đến sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Nhận thức được vấn đề này tác giả mong muốn thực hiện một chuyên đề nghiên cứu liên quan đến vai trò quan trọng của cấu trúc vốn, cũng như chỉ ra một số nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp ngành thép của Việt Nam. Việc lựa chọn ngành thép dựa trên những cơ sở, quan điểm sau: Thứ nhất, Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; trong quá trình đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự phát triển và hội nhập khu vực và thế giới. Xây dựng và phát triển toàn diện đất nước đang là nhu cầu cấp thiết đặt ra cho Việt Nam giai đoạn hiện nay, mà đi cùng với đó là phải nâng cấp cơ sở hạ tầng để đáp ứng với những yêu cầu của phát triển. Trong đó, thép là vật tư chiến lược không thể thiếu được trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ hai, ngành thép không chỉ là ngành vật liệu xây dựng mà còn là ngành cung cấp nguyên liệu cho các ngành khác; sự tăng trưởng hay sụt giảm của ngành thép gắn chặt với sự tăng trưởng hay sụt giảm của ngành công nghiệp và kinh tế. Trong quá trình phát triển, nước ta luôn luôn quan tâm và có chính sách phù hợp để đầu tư phát triển ngành thép.
  10. 2 Thứ ba, hiện nay khi mà tình hình kinh tế Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung có nhiều khó khăn, thách thức, ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng của ngành thép; các doanh nghiệp đang trong tiến trình tái cấu trúc doanh nghiệp, vì vậy nếu xây dựng một cơ cấu vốn hợp lý, sẽ giúp doanh nghiệp cân đối về tài chính, vượt qua khó khăn, ổn định và phát triển. Với những quan điểm trên, tôi thấy rằng, việc tìm kiếm mô hình cấu trúc vốn tối ưu, hợp lý cho các doanh nghiệp ngành thép là một vấn đề thực tế đặt ra đòi hỏi phải nghiên cứu và có những giải pháp giải quyết hợp lý, mang lại hiệu quả đáp ứng yêu cầu ổn định và phát triển của doanh nghiệp, của nền kinh tế. 1.2 Vấn đề nghiên cứu Đề tài này tác giả tập trung vào những nội dung chính sau: - Khái quát các lý thuyết cấu trúc vốn đã được nghiên cứu trước đây để thấy được tầm quan trọng của cấu trúc vốn trong sự phát triển của các doanh nghiệp. - Khái quát thị trường thép thế giới, cấu trúc vốn của các công ty thép lớn trên thế giới và phân tích tình hình thị trường thép Việt Nam trong những năm gần đây và hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành thép. - Khái quát nghiên cứu về các công ty thép Ấn Độ, tác giả kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp tiêu biểu trong ngành và đưa ra chiều hướng của các công ty khi quyết định cấu trúc vốn của mình. - Tìm hiểu thực trạng cấu trúc vốn của các doanh nghiệp thép Việt Nam và tiến hành kiểm định tác động của một số nhân tố tiêu biểu đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp thép Việt Nam.
  11. 3 1.3 Mục tiêu nghiên cứu - Kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp thép Việt Nam (các công ty niêm yết) theo mô hình của Ray (2011). - Ứng dụng mô hình của Ray cho các doanh nghiệp thép Việt Nam. 1.4 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu Đối với bài nghiên cứu này, tác giả chỉ dừng lại ở việc kiểm định sự tác động của các nhân tố đến cấu trúc vốn của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên sàn HOSE và HNX từ năm 2007 đến 2011. Sau khi tổng hợp số liệu và hồi quy theo mô hình kinh tế lượng, tác giả đưa ra nhận xét về các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn như thế nào.
  12. 4 2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu về cấu trúc vốn trên thế giới Các lý thuyết về sự cân bằng tối ưu giữa nợ và vốn đã trở thành một vấn đề trung tâm được nghiên cứu trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp từ trước đến nay. Theo đó, các công ty lựa chọn cấu trúc vốn tùy thuộc vào thuộc tính ảnh hưởng bởi các yếu tố chi phí và lợi ích khác nhau thông qua việc tài trợ bằng nợ và vốn cổ phần. Tác giả trình bày một số lý thuyết về cấu trúc vốn. David Durand (1952) đưa ra phương pháp tiếp cận thu nhập ròng của cấu trúc vốn, trong đó cho rằng công ty có thể làm tăng giá trị doanh nghiệp hoặc giảm chi phí sử dụng vốn bằng cách tài trợ bằng nợ. Ezra Soloman (1963) đưa ra quan điểm cho rằng giá trị của doanh nghiệp tiếp tục tăng đến một mức độ nhất định của việc sử dụng nợ và sau đó giá trị doanh nghiệp có xu hướng cố định với mức sử dụng nợ cao hơn và cuối cùng là giá trị doanh nghiệp sẽ giảm. Jensen và Meckling (1976) đã phát triển lý thuyết cấu trúc vốn dựa trên chi phí đại diện nơi công ty phải chịu hai loại chi phí đại diện - chi phí từ các cổ đông bên ngoài và chi phí liên quan đến khoản nợ hiện tại trong cấu trúc vốn. Đầu tiên, tổng chi phí đại diện sẽ giảm và sau khi đạt mức độ nhất định về vốn chủ sở hữu bên ngoài trong cấu trúc vốn, chi phí đại diện sẽ tăng lại. Tổng chi phí đại diện sẽ tối thiểu tại một mức độ nhất định của vốn chủ sở hữu bên ngoài. J&M cho rằng một cấu trúc vốn tối ưu có thể thu được bằng cách đánh đổi chi phí đại diện của nợ và lợi ích của nợ. Ross (1988) đã phát triển lý thuyết cấu trúc vốn dựa trên các thông tin bất cân xứng trong đó dẫn chứng rằng sự lựa chọn cấu trúc vốn của doanh nghiệp cung cấp cho các nhà đầu tư bên ngoài các thông tin trong nội bộ công ty. Myers và Majluf (1984) đã phát triển lý thuyết cho rằng cấu trúc vốn được thiết kế để giảm thiểu sự kém hiệu quả trong quyết định đầu tư do thông tin bất cân xứng (Harris và Raviv, 1991). Trong lý thuyết thứ tự tăng vốn của
  13. 5 Myers (1984), việc quản lý chặt chẽ các yếu tố nội tại được xem như một nguồn quỹ mới kể cả khi loại trừ những nguồn từ bên ngoài, ngoại trừ những chi phí phát sinh không thể tránh khỏi để hình thành các quỹ. Lý thuyết này giải thích các mối quan hệ nghịch giữa khả năng sinh lợi và tỷ lệ nợ, và cho rằng không có tỷ lệ mục tiêu giữa nợ và vốn. Đầu tiên, trong tài trợ, các nhà quản lý mong muốn tài trợ thông qua các nguồn vốn tự có và sau đó tài trợ thông qua nợ và cuối cùng là từ phát hành tăng vốn (Martin, 1988). Do đó, lý thuyết này giải thích các hành vi tài chính của các nhà quản lý doanh nghiệp. Chudson (1945) quan sát thấy có bằng chứng trực tiếp về các công ty với tỷ lệ tài sản cố định cao có xu hướng sử dụng nợ dài hạn nhiều hơn. Gordon (1962) tìm thấy rằng quy mô công ty càng lớn thì vay nợ càng nhiều; trong khi lợi tức đầu tư thì có mối quan hệ nghịch với tỷ lệ nợ và cũng xác nhận mối quan hệ nghịch giữa rủi ro hoạt động và tỷ lệ nợ. Baxter (1967) kết luận rằng đòn bẩy sẽ phụ thuộc vào phương sai của thu nhập ròng từ hoạt động và còn kết luận rằng có mối quan hệ nghịch giữa phương sai của thu nhập ròng từ hoạt động và đòn bẩy. Bray (1967) cho rằng các công ty rủi ro có thể có tỷ lệ nợ thấp hơn và tìm thấy mối quan hệ nghịch giữa tổng nợ và tỷ lệ tài sản cố định, giữa lợi nhuận trên đầu tư và tỷ lệ nợ, và không có mối quan hệ tuyến tính giữa quy mô và tỷ lệ nợ. Schwartz và Aronson (1967) kết luận rằng cấu trúc tài chính được đo bằng giá trị sổ sách không thay đổi đáng kể trong nội tại một ngành công nghiệp, nhưng biến thiên giữa các ngành công nghiệp. Gupta (1969) đề xuất rằng các tỷ lệ tổng nợ có mối quan hệ thuận với tăng trưởng và mối quan hệ nghịch với quy mô doanh nghiệp. Lev (1969) kết luận rằng có một mối quan hệ đáng kể giữa các ngành công nghiệp và tỷ lệ nợ. Hat (1980) tiết lộ đòn bẩy tài chính của công ty không liên quan đến quy mô và tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp và tiếp tục kết luận rằng có mối quan hệ nghịch giữa đòn bẩy tài chính với năng lực trả nợ và việc chi trả cổ tức. Ferri
  14. 6 và Jones (1979) tìm thấy rằng các ngành công nghiệp được liên kết với việc sử dụng đòn bẩy của công ty nhưng không thông qua một cách trực tiếp hơn so với những vấn đề đã được nêu trong các nghiên cứu trước đó và kết luận của việc sử dụng nợ của các công ty thì có liên quan đến quy mô của nó. Titman và Wessels (1988) cho rằng các doanh nghiệp có các sản phẩm độc đáo hoặc duy nhất có tỷ lệ nợ tương đối thấp. Marsh (1982) tiết lộ rằng các công ty đang chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các điều kiện thị trường và lịch sử của giá chứng khoán trong việc lựa chọn sử dụng giữa nợ và vốn. Barclay và Smith (1995) chỉ ra rằng nợ tối ưu của các công ty là chức năng làm giảm thu nhập của doanh nghiệp. Pandey (1985), Mathew (1991), Taub (1975), Brealey, Hodges và Capron (1976) và nhiều học giả khác đều nhấn mạnh những yếu tố quyết định khác nhau ảnh hưởng lên cấu trúc vốn trong các nghiên cứu thực nghiệm của họ. Dev và cộng sự (1997) trong môi trường hỗn loạn gia tăng, việc quản lý chiến lược của công ty ngày càng chiếm ưu thế hơn. Tuy nhiên cho đến nay, mối liên hệ giữa quản lý chiến lược và quản lý tài chính của công ty phần lớn chưa được nghiên cứu nhiều. Nghiên cứu này sử dụng hai phương pháp phân tích khác nhau để xác nhận mối liên hệ giữa cấu trúc vốn và vị thế chiến lược của công ty. Cụ thể, các nhà quản lý được nghiên cứu đã cấu trúc sự lựa chọn thông qua việc sử dụng nợ và vốn cho phù hợp với việc kiểm soát dài hạn rủi ro hệ thống theo mục tiêu chiến lược. Phần lớn các kết quả nghiên cứu xuất phát từ thực tiễn của các nền kinh tế đã phát triển có nhiều điểm tương đồng về thể chế (xem Hodder và Senbet, 1990; Rajan và Zingales, 1995; Wald, 1999; Ozkan, 2001; De Miguel và Pindado, 2001; Bevan và Danbolt, 2002, 2004). Điều này chỉ là trong những năm này thì câu hỏi về các yếu tố ảnh hưởng nào có ảnh hưởng quan trọng trong bối cảnh thay đổi nhanh chóng của khuôn khổ thể chế của các nước đã
  15. 7 phát triển này. Các nước đang phát triển đã thực hiện nhiều cải cách theo hướng thị trường ở khu vực tài chính. Hơn nữa, việc thiết lập thể chế mà trong đó các công ty đã hoạt động đã trải qua chuyển đổi cơ bản từ giữa những năm của thập niên 80 và đầu thập niên 90. Việc di chuyển theo hướng tư nhân hóa/ thị trường tự do, cùng với việc mở rộng và làm sâu sắc thêm sự đa dạng của thị trường tài chính bao gồm thị trường vốn, điều này đã cung cấp phạm vi cho các lĩnh vực của công ty để tối ưu việc xác định cấu trúc của họ. Một vài nghiên cứu thực nghiệm đã cố gắng để làm sáng tỏ về vấn đề cấu trúc vốn trong các đặc tính thể chế riêng ở các nước đang phát triển. Booth và cộng sự (2001) là một trong số những người cung cấp các nghiên cứu thực nghiệm toàn diện đầu tiên để kiểm tra khả năng giải thích của mô hình cấu trúc vốn ở các nước đang phát triển. Họ đã chọn các nước đang vận hành theo hệ thống kinh tế định hướng thị trường, việc chọn lựa này nhằm mang đến cho nghiên cứu nhiều điểm tương đồng với các nghiên cứu ở các nước đã phát triển trước đó. Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu từ 10 nước đang phát triển để đánh giá liệu lý thuyết cấu trúc vốn có thể được ứng dụng giữa các quốc gia có cấu trúc thể chế khác nhau hay không. Họ điều tra xem các sự kiện cách điệu, được quan sát từ các nghiên cứu của những quốc gia đã phát triển, có thể áp dụng chỉ cho những thị trường này hay có thể áp dụng một cách tổng quát hơn. Các kết quả đưa ra có một chút hoài nghi trong phân tích các tiền đề này. Họ đã cung cấp bằng chứng cho thấy các quyết định lựa chọn cấu trúc vốn của các công ty ở các nước đang phát triển bị ảnh hưởng bởi các biến tương tự như các nước đã phát triển. Tuy nhiên các quyết định này còn bị ảnh hưởng do sự khác biệt của các cấu trúc tổ chức giữa các quốc gia và phụ thuộc các yếu tố cụ thể của từng quốc gia. Các kết quả nghiên cứu của họ cho thấy rằng mặc dù một số hiểu biết của họ từ lý thuyết tài chính hiện đại được ứng dụng giữa các quốc gia, phần lớn vẫn được thực hiện để
  16. 8 hiểu tác động của các đặc điểm công ty khác nhau về sự lựa chọn cấu trúc vốn. Gần đây, Deesomsak, Paudyal và Pescetto (2004) cũng đã khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của các công ty hoạt động trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, trong bốn quốc gia (cụ thể là Thái Lan, Malaysia, Singapore và Úc) với môi trường pháp lý, tài chính và thể chế khác nhau. Họ nhận thấy rằng quyết định cấu trúc vốn của các công ty bị ảnh hưởng bởi những môi trường này, trong đó họ cũng dựa trên các yếu tố doanh nghiệp cụ thể được xác định trong hệ thống lý thuyết hiện tại. Trong thực tế, có rất ít nghiên cứu đã được thực hiện để nâng cao kiến thức của chúng ta về cấu trúc vốn trong các nước đang phát triển có cấu trúc thể chế khác nhau và đối với kiến thức của chúng ta thì không đủ đối với trường hợp của những nền kinh tế đang phát triển nhỏ, lẻ. Với đặc trưng của thị trường tài chính và nền kinh tế chung trong các nền kinh tế này và cùng với thực tế là họ có thị trường chứng khoán non trẻ và trải qua chuyển đổi cơ bản trong thập kỷ trước; các chứng cứ thực nghiệm về sau dự kiến sẽ mang lại những hiểu biết quan trọng về các tranh luận và bổ sung các lý thuyết hiện có. Philippe và cộng sự (2003) trong nghiên cứu của mình đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của 106 công ty Thụy Sỹ niêm yết trên thị trường chứng khoán Thụy Sỹ. Các phương pháp kiểm định được thực hiện cho giai đoạn 1991-2000. Qua đó, tìm thấy rằng quy mô của các công ty, tầm quan trọng của tài sản cố định và rủi ro kinh doanh có mối quan hệ thuận với đòn cân, trong khi tăng trưởng và khả năng sinh lợi có mối quan hệ nghịch với đòn bẩy. Dấu hiệu của mối quan hệ này cho thấy rằng cả lý thuyết thứ tự tăng vốn và lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn đều có ý nghĩa trong việc giải thích cấu trúc vốn của các công ty Thụy Sỹ, mặc dù nhiều bằng chứng tồn tại để nghiên về lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn. Phân tích cũng cho thấy các công ty Thụy Sỹ điều chỉnh hướng tới một tỷ lệ nợ mục tiêu, nhưng quá trình
  17. 9 điều chỉnh chậm hơn nhiều so với hầu hết các nước khác. Người ta lập luận rằng lý do cho điều này có thể được tìm thấy trong bối cảnh thể chế của riêng Thụy Sỹ. Wolfgang & Roger (2003) thử nghiệm đòn bẩy dự đoán của mô hình đánh đổi cấu trúc vốn và mô hình thứ tự tăng vốn bằng cách sử dụng dữ liệu của các công ty tại Thụy Sỹ. Ở cấp độ tổng hợp, đòn bẩy của các công ty Thụy Sỹ là tương đối thấp, nhưng kết quả phụ thuộc chủ yếu vào định nghĩa chính xác của đòn bẩy. Việc xác nhận mô hình thứ tự tăng vốn nhưng mâu thuẫn với mô hình đánh đổi cấu trúc vốn, nhiều công ty có lợi nhuận ít sử dụng đòn bẩy hơn. Các doanh nghiệp với nhiều cơ hội đầu tư hơn sẽ sử dụng dụng đòn bẩy ít hơn, điều này ủng hộ cho cả mô hình đánh đổi cấu trúc vốn và phiên bản phức tạp của mô hình thứ tự tăng vốn. Đòn bẩy cũng liên quan chặt chẽ đến tài sản cố định và biến động của thu nhập của công ty. Cuối cùng, bằng cách ước tính một mô hình hồi quy tuyến tính, chúng ta thấy rằng các công ty Thụy Sĩ có xu hướng duy trì tỷ lệ đòn bẩy mục tiêu. Kết quả thúc đẩy ra vài kỹ thuật dự báo thay thế. Keshar & Baral (2004) cố gắng để kiểm tra các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn - quy mô, rủi ro kinh doanh, tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ thu nhập, chia cổ tức, năng lực trả nợ, và mức độ hoạt động đòn bẩy của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Nepal vào ngày 16/7/2003. Tám mô hình hồi quy đa biến đã được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng của các biến giải thích lên cấu trúc vốn. Đầu tiên, các công ty sản xuất, các ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm, và các công ty tài chính được tiến hành phân tích. Tuy nhiên, do những bất thường về vấn đề trong thời hạn liên tục của mô hình, các công ty sản xuất bị loại trừ trong phân tích cuối cùng. Nghiên cứu này cho thấy rằng quy mô, tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ thu nhập là
  18. 10 những yếu tố ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê với cấu trúc vốn của các công ty niêm yết tại thị trường Nepal. Fakher và cộng sự (2005) cung cấp thêm bằng chứng về các lý thuyết cấu trúc vốn liên quan đến các nước đang phát triển và kiểm định tác động của việc thiếu một thị trường vốn thứ cấp qua việc phân tích cấu trúc vốn trong điều kiện môi trường kinh doanh ở Libya. Các kết quả từ mô hình hồi quy OLS cho rằng cả hai lý thuyết đánh đổi cấu trúc vốn và lý thuyết chi phí đại diện là các lý thuyết thích hợp với việc xác định cấu trúc vốn của các công ty Libya trong khi có ít bằng chứng để chứng minh cho lý thuyết về thông tin bất cân xứng. Sự thiếu vắng thị trường thứ cấp có thể có ảnh hưởng đến các chi phí đại diện, khi mà các cổ đông không thể bán cổ phiếu của họ có thể gây áp lực lên việc quản lý để phục vụ cho việc tối đa lợi ích của cổ đông. Joshua (2008) trong nghiên cứu của ông so sánh cấu trúc vốn của các công ty niêm yết, những công ty lớn không được niêm yết và các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) ở Ghana. Các kết quả không cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các cấu trúc vốn của các công ty niêm yết và những công ty lớn không được niêm yết. Kết quả cho thấy rằng nợ ngắn hạn chiếm một tỷ lệ tương đối cao trong tổng số nợ của các công ty được lấy mẫu. Các kết quả hồi quy chỉ ra rằng thời gian hoạt động, quy mô, cơ cấu tài sản, khả năng sinh lợi, rủi ro và vấn đề sở hữu công ty rất quan trọng ảnh hưởng đến quyết định cấu trúc vốn của các công ty Ghana. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, nghiên cứu đã chỉ ra rằng các yếu tố như giới tính của nhà quản lý, tình trạng xuất khẩu, ngành công nghiệp, vị trí của công ty và hình thức kinh doanh cũng rất quan trọng trong việc giải thích sự lựa chọn về cấu trúc vốn. Boodhoo (2009) đã gợi ý rằng luôn luôn có tranh cãi giữa các học giả trong thế giới tài chính khi nói đến chủ đề của cấu trúc vốn. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu chưa đạt một sự đồng thuận về cấu trúc vốn tối ưu của các
  19. 11 công ty và các vấn đề liên quan đến chi phí đại diện. Nghiên cứu của Boodhoo cũng cung cấp một đánh giá ngắn gọn về các lý thuyết về cấu trúc vốn và bằng chứng về mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và cấu trúc chủ sở hữu. Nghiên cứu này cũng cung cấp các bằng chứng cho các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn. Mehmet & Eda (2009) kiểm tra xem mức sử dụng đòn bẩy ở một lĩnh vực và mức sử dụng đòn bẩy ở một lĩnh vực mang tính tiên phong có hiệu quả vào các quyết định cấu trúc vốn của các doanh nghiệp được chọn và các lĩnh vực được niêm yết trên sàn ISE không. Họ nghiên cứu dựa trên phương pháp tiếp cận tài chính hành vi cho vấn đề này như là phương pháp bổ sung cách tiếp cận truyền thống của các lý thuyết tài chính về cấu trúc vốn. Đối với ảnh hưởng của nó lên mức sử dụng độ đòn bẩy các doanh nghiệp trong bốn lĩnh vực trong giai đoạn 1999-2006 (điện tử, ngân hàng, xi măng, giấy và đóng gói), trong khi mức trung bình của các lĩnh vực có hiệu quả tại một mức độ có ý nghĩa trong lĩnh vực hàng điện tử. Trong nghiên cứu, người ta thấy có mối quan hệ thuận với mức sử dụng đòn bẩy của các công ty với mức ý nghĩa 10%. B.Nimalathasan & Valeriu Brabete (2010) chỉ ra cấu trúc vốn và tác động của nó lên khả năng sinh lợi trong một nghiên cứu của công ty sản xuất được niêm yết ở thị trường Sri Lanka. Việc phân tích các công ty sản xuất niêm yết trên thị trường cho thấy tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu có mối quan hệ thuận có ý nghĩa với tất cả các biến về khả năng sinh lợi (lợi nhuận gộp, lợi nhuận hoạt động và tỷ suất lợi nhuận thuần). Puwanenthiren Pratheepkanth (2011) phân tích cấu trúc vốn và tác động của cấu trúc vốn lên tình hình tài chính của các công ty ở Sri Lanka trong giai đoạn 2005 - 2009 (5 năm). Kết quả cho thấy có mối quan hệ nghịch giữa cấu
  20. 12 trúc vốn và tình hình tài chính của các công ty ở Sri Lanka. Do đó các công ty này chủ yếu là phụ thuộc vào việc sử dụng nợ và trả chi phí lãi vay nhiều hơn. Một số lý thuyết, như được trình bày ở trên, đã được phát triển trong vài thập niên nhằm giải thích việc sử dụng các tỷ lệ nợ của các doanh nghiệp. Mặc dù chưa có phân định rõ ràng trong cuộc tranh luận về vấn đề liên kết giữa quyết định tài chính và giá trị của doanh nghiệp, có tương đối ít bằng chứng thực nghiệm về việc làm thế nào các công ty thực sự lựa chọn giữa các công cụ tài chính tại một thời điểm nhất định.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2