intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Những nhân tố tác động đến sự hài lòng dịch vụ khám chữa bệnh Bảo hiểm y tế tại tỉnh Long An

Chia sẻ: ViJiji ViJiji | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:109

26
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn được nghiên cứu với mục tiêu nhằm xác định các nhân tố tác động đến sự hài lòng dịch vụ khám chữa bệnh BHYT. Đánh giá mức độ tác động của các nhân tố này. Kiểm định sự khác biệt và sự hài lòng của người bệnh đối với các biến giới tính.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Những nhân tố tác động đến sự hài lòng dịch vụ khám chữa bệnh Bảo hiểm y tế tại tỉnh Long An

  1. 1 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1 Sự cần thiết của đề tài Trong cuộc sống, để thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu, con người phải lao động sản xuất để có thu nhập. Tuy vậy, không phải lúc nào người lao động cũng đảm bảo chắc chắn duy trì được việc làm thường xuyên và thu nhập ổn định. Đó là những lúc gặp rủi ro như ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động dẫn đến bị mất sức lao động hoặc giảm một phần sức lao động. Hơn nữa trong hoạt động lao động sản xuất của con người không phải lúc nào cũng thuận lợi vì còn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, môi trường làm việc, xã hội...Vì vậy phải có biện pháp phòng tránh và khắc phục rủi ro đã trở thành một nhu cầu của con người. Tính tất yếu phải đối mặt với những hụt hẫng về thu nhập trong những trường hợp bất khả kháng đã buộc người lao động tìm cách khắc phục bằng nhiều biện pháp khác nhau như tiết kiệm hoặc dựa vào sự quan tâm của xã hội và cộng đồng. Xã hội ngày càng phát triển, những biện pháp có tính truyền thống đã tỏ ra không đủ độ an toàn để giúp cho mỗi người có thể khắc phục hoặc vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Để bổ sung những khó khăn đó là các biện pháp có tính hiện đại như bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), cứu trợ xã hội, trợ giúp xã hội... Bảo hiểm y tế (BHYT) là một chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động, các tổ chức và cá nhân có nhu cầu được bảo hiểm, từ đó hình thành nên một quỹ và quỹ này sẽ được sử dụng để chi trả khám chữa bệnh khi một người nào đó có tham gia bảo hiểm y tế khi mắc phải bệnh tật. Thực tế hiện nay cho thấy, chất lượng khám, chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) thấp hơn nhiều so với chất lượng chăm sóc sức khỏe (CSSK) theo cách tự do bỏ tiền, do đó một số bộ phận không nhỏ có thẻ BHYT nhưng mỗi khi đi khám chữa bệnh tại bệnh viện lại chọn phương thức khám dịch vụ do chất lượng khám chữa bệnh với thẻ BHYT quá thấp, thủ tục nhiêu khê, khâu cấp phát thuốc không đáp ứng được nhu cầu của người bệnh. Điều này được Bộ y tế giải thích “Mức thu phí dịch vụ
  2. 2 thấp ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng khám chữa bệnh”. Khi mức thu không đủ cho chi, người bệnh phải mua thêm thuốc. Theo khảo sát của Nguyễn Thành Luân thuộc Bộ môn quản lý y tế (Trường Đại học Y dược TP Hồ Chí Minh [1]), 370 bệnh nhân BHYT đến khám tại Bệnh viện Nguyễn Trãi thì đã có 52.3% số bệnh nhân trả lời không hài lòng với khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế. Bởi vậy, nhiều người có thẻ bảo hiểm y tế sẵn sàng bỏ thẻ để trả tiền khám dịch vụ. Nghiên cứu về chỉ số sẵn sàng chi trả - WTP (Willingness to Pay) thường được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế, quản lý môi trường...nhằm tìm hiểu số tiền lớn nhất mà một người sẵn sàng chi trả cho một loại hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó cũng như các yếu tố tác động đến thái độ chi trả. Trên thế giới, nghiên cứu về chỉ số này ngày càng được quan tâm trong lĩnh vực y tế. Trong giai đoạn từ năm 1984 đến 1996, đã có 45 nghiên cứu sử dụng chỉ số này trong việc lượng giá một loại hình chăm sóc sức khỏe. Tại Việt Nam, với việc ban hành Thông tư số 13/2004/TTLT – BTC – BYT – BNV [2] và Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 cho phép các cơ sở y tế công lập được tự chủ thu, chi, sự cạnh tranh gay gắt của mô hình y tế tư nhân, y tế công và các mô hình chăm sóc sức khỏe khác, đã đặt các nhà quản lý bệnh viện trước những vấn đề mới. Việc chuyển chăm sóc y tế trở thành một dịch vụ có cung và có cầu, có cạnh tranh bình đẳng, đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ đối tượng phục vụ nhằm đáp ứng một cách tốt nhất và hiệu quả nhất. Trong lĩnh vực này có nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thanh Hà phân tích sự khác biệt giữa hai giới nam và nữ trong giá trị WTP cho mô hình dựa vào cộng đồng. Tuy nhiên các yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc tham gia và sử dụng các dịch vụ y tế chưa được đánh giá một cách toàn diện. Một trong những vai trò quan trọng của nền kinh tế là phân tích sự hoạt động của thị trường chăm sóc sức khỏe. Chúng ta cần trả lời các câu hỏi như sau: Người dân đánh giá như thế nào về chăm sóc sức khỏe? Người dân sẵn lòng chi trả bao nhiêu cho chăm sóc sức khỏe? Hành vi của người cung ứng như thế nào? Vấn đề cạnh tranh đối với những người cung ứng ra sau? Để làm rõ các yếu tố tác động đến sự hài lòng chi trả phí bảo hiểm y tế và dịch vụ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế để hướng đến bảo hiểm y tế toàn dân nên tôi chọn đề tài “Những nhân tố tác động đến sự hài lòng dịch vụ khám chữa bệnh Bảo hiểm y tế tại tỉnh Long An”, để làm luận
  3. 3 văn Thạc sĩ kinh tế của mình. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu chung Xây dựng và kiểm định mô hình những nhân tố tác động đến sự hài lòng của dịch vụ khám chữa bệnh BHYT tại Bệnh viện Đa khoa Long An. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - Xác định các nhân tố tác động đến sự hài lòng dịch vụ khám chữa bệnh BHYT. - Đánh giá mức độ tác động của các nhân tố này. - Kiểm định sự khác biệt và sự hài lòng của người bệnh đối với các biến giới tính. - Đề xuất hàm ý quản trị. 1.3 Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng khảo sát: người nhà của bệnh nhân và những người khám chữa bệnh dịch vụ Bảo hiểm y tế tại Bệnh viện Đa khoa Long An. - Đối tượng phân tích: người bệnh và người nhà của bệnh nhân và những người khám chữa bệnh dịch vụ Bảo hiểm y tế tại Bệnh viện Đa khoa Long An. 1.4 Phạm vi nghiên cứu 1.4.1 Phạm vi về không gian địa điểm: Nghiên cứu được thực hiện tại Bệnh viện Đa khoa Long An chủ yếu tập trung vào người bệnh, người nhà khi khám và điều trị bệnh bằng thẻ BHYT. 1.4.2 Phạm vi về thời gian: Phạm vi nghiên cứu dựa vào những tài liệu, số liệu thống kê đã được BHXH Việt Nam công bố được thực hiện từ tháng 11/2018 đến tháng 4/2019. 1.5 Câu hỏi nghiên cứu Với mục tiêu trên cần nghiên cứu trả lời những câu hỏi sau: (1) Những nhân tố nào tác động đến sự hài lòng khi khám chữa bệnh BHYT ? (2) Nhân tố nào chi phối tích cực đến việc sẵn lòng chi trả BHYT ?
  4. 4 (3) Có tồn tại sự khác biệt về sự hài lòng đối với các biến thu nhập và nghề nghiệp. (4) Giải pháp nào được đưa ra để thúc đẩy sự hài lòng của người bệnh. 1.6 Những đóng góp mới của luận văn 1.6.1 Đóng góp về phương diện khoa học Đề tài nghiên cứu thang đo về những nhân tố tác động đến sự hài lòng dịch vụ khám chữa bệnh Bảo hiểm y tế tại Bệnh viện Đa khoa Long An nói riêng. Ngoài ra, có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu các vấn đề liên quan đến sự hài lòng về dịch vụ khám chữa bệnh BHYT, góp một phần cơ sở lý luận cho các nghiên cứu tiếp theo về lĩnh vực này. 1.6.2 Đóng góp về phương diện thực tiễn Việc thực hiện điều tra khảo sát và nghiên cứu cũng như đánh giá sự ảnh hưởng của các nhân tố đối với sự hài lòng của người bệnh sẽ giúp cho ban Giám đốc của Bệnh viện và toàn thể cán bộ đang làm việc tại Bệnh viện nhận ra nhu cầu mong muốn của người bệnh để từ đó bệnh viện có căn cứ và cơ sở thực hiện nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh, cải tiến đổi mới chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh BHYT. 1.7 Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện bằng phương pháp kết hợp định tính và định lượng: được sử dụng trong nghiên cứu chính thức bằng cách thu thập thông tin qua bảng câu hỏi điều tra thông qua khảo sát các bệnh nhân và người nhà bệnh nhân đang điều trị tại tại Bệnh viện Đa khoa Long An. Bảng câu hỏi điều tra chính thức được hình thành từ nghiên cứu định tính sau khi có sự tham vấn ý kiến của các chuyên gia. Các dữ liệu thông số sẽ được tiến hành kiểm tra chạy trên phần mềm SPSS 20 để kiểm định độ tin cậy của thang đo bằng phương pháp phân tích hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha và phân tích nhân tố; kiểm định giả thuyết nghiên cứu; phân tích tương quan giữa các yếu tố EFA; phân tích hồi quy xác định mô hình hồi quy tuyến tính. * Quy trình nghiên cứu: Tác giả tiến hành khảo sát chính thức với bệnh nhân và người nhà bệnh nhân đang chữa trị tại Bệnh viện đa khoa Long An là 200 mẫu
  5. 5 bằng bảng câu hỏi. Mẫu được sử dụng để đánh giá thang đo và kiểm định lại các giả thuyết. Phương pháp hồi quy bội được sử dụng để kiểm định các giả thuyết với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 20. * Mô tả dữ liệu nghiên cứu: - Phương pháp chọn mẫu - Phương pháp xử lý số liệu - Đánh giá độ tin cậy của thang đo - Phân tích nhân tố - Phân tích tương quan hồi quy, T Test- Anova 1.8 Kết cấu của luận văn Luận văn này được chia thành 5 chương: + Chương 1 Tổng quan về đề tài nghiên cứu (bao gồm sự cần thiết của đề tài, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu, những đóng góp mới của đề tài và cấu trúc đề tài). + Chương 2 Trình bày cơ sở lý luận và mô hình nghiên cứu (tác giả khái quát về Bệnh viện Đa khoa Long An và xây dựng mô hình nghiên cứu để phát triển giả thuyết nghiên cứu bao gồm các nghiên cứu có liên quan đến đề tài, trên cơ sở phân tích ưu nhược điểm của các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước làm cơ sở đề xuất một số vấn đề nghiên cứu mới). + Chương 3 Xây dựng phương pháp nghiên cứu (bao gồm quy trình nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu dữ liệu nghiên cứu, thiết kế thang đo và các biến của mô hình). + Chương 4 Xử lý dữ liệu, trình bày kết quả nghiên cứu và thảo luận (Thống kê đặc điểm mẫu nghiên cứu đã thu thập thông qua bảng câu hỏi, phân tích dữ liệu về thực trạng việc sẵn lòng chi trả BHYT cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của người bệnh và thân nhân khi khám và điều trị dịch vụ BHYT và những nhân tố tác động đến mức độ hài lòng của người bệnh về nơi khám chữa bệnh).
  6. 6 + Chương 5 Kết luận và đề xuất hàm ý quản trị (căn cứ vào kết quả nghiên cứu đưa ra kết luận và đề xuất hàm ý quản trị).
  7. 7 CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU 2.1 Những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài 2.1.1 Bảo hiểm y tế 2.1.1.1 Khái niệm BHYT BHYT là một phương thức tài chính nhằm bảo vệ người tham gia khỏi những gánh nặng tài chính mà họ phải gánh chịu nếu gặp phải các rủi ro có liên quan đến sức khoẻ, bệnh tật. Theo luật BHYT Việt Nam năm 2008, BHYT là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của Luật BHYT. Theo đó, BHYT giống như các loại hình bảo hiểm khác dựa trên nguyên tắc cơ bản: tập hợp số đông chia sẻ rủi ro, nguy cơ về sức khoẻ và bệnh tật: thu phí từ số đông người khoẻ mạnh để chi trả cho số ít những người đau ốm. Người tham gia bảo hiểm đóng góp một mức phí từ trước khi đau ốm vào một quỹ BHYT và sẽ được hưởng các quyền lợi về chăm sóc y tế khi đến các cơ sở khám chữa bệnh. Vì vậy, cách thức tham gia BHYT còn được gọi là trả trước cho chi phí KCB. 2.1.1.2 Các chủ thể trên thị trường BHYT và mối quan hệ Có ba chủ thể với các chức năng khác nhau nhưng có mối quan hệ rất chặt chẽ và khăng khít trong chu trình BHYT. Người tham gia BHYT (thành viên của quỹ BHYT): Là người đóng phí BHYT hay mua thẻ BHYT theo mức quy định của cơ quan Bảo hiểm và được hưởng mức quyền lợi theo quy định của quỹ. Chủ thể này đôi khi còn được phân biệt chi tiết giữa người mua và người sử dụng thẻ khi có nhiều trường hợp bố mẹ mua thẻ cho con cái, con cái mua thẻ cho bố mẹ già. Quỹ BHYT: Là đơn vị thực hiện thu phí BH, xây dựng và xác định phạm vi quyền lợi của người tham gia BH và đảm bảo cung cấp dịch vụ y tế cho người tham gia BH. Cơ quan cung cấp dịch vụ y tế: Là các cơ sở KCB, họ thực hiện việc cung cấp
  8. 8 các dịch vụ KCB theo hợp đồng với cơ quan Bảo hiểm để đảm bảo quyền lợi về KCB cho người có thẻ BHYT khi họ đến KCB và thanh toán với cơ quan BH về những chi phí đã tiêu tốn để phục vụ bệnh nhân có thẻ BHYT. 2.1.1.3 Đặc thù của sức khỏe, dịch vụ chăm sóc sức khỏe Theo tổ chức y tế thế giới WHO[3], sức khỏe là một tình trạng hoàn toàn thoải mái cả về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không phải chỉ là không có bệnh. Sức khỏe vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu của mọi quá trình phát triển. Đã từ lâu CSSK là một trong số các yếu tố cấu thành cơ bản của hai chỉ tiêu quan trọng phản ánh sự phát triển của quốc gia: chỉ số phát triển con người HDI và chỉ số nghèo khổ HPI. HDI được Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc UNDP sử dụng để đo lường chất lượng sống của con người ở các quốc gia. Chỉ số này dựa trên 3 chỉ tiêu: (1) Tuổi thọ mong đợi; (2) Trình độ học vấn; (3) Điều kiện kinh tế (thu nhập bình quân đầu người). Chỉ số nghèo khổ HPI để đo lường mức nghèo khổ của một quốc gia. Chỉ số này bao gồm 3 nội dung: (1) Tỉ lệ sinh tồn; (2) Tỉ lệ thất học và thiếu giao tiếp; (3) Tỉ lệ thiếu những điều kiện cho cuộc sống được tôn trọng; Được tổng hợp theo 3 chỉ số là tỉ lệ người không được dùng nước sạch, tỉ lệ người không được chăm sóc y tế, tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi. Sức khỏe còn là phương tiện quan trọng bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng cuộc sống của các cá nhân cũng như việc đạt mục tiêu phát triển của các quốc gia bởi sự phát triển vững bền của một quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng các nguồn nhân lực trong khi sức khỏe quyết định tới năng suất lao động, khả năng làm việc và học tập của họ. Như vậy, đầu tư cho chăm sóc sức khỏe con người chính là đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. CSSK vừa mang tính tiêu thụ, vừa mang tính đầu tư. Sức khỏe tốt là kết quả có sự đóng góp to lớn của dịch vụ y tế, đồng thời sức khoẻ tốt lại đóng góp lớn cho sản xuất, nên cũng chính là đầu tư. Vì vậy, CSSK không chỉ có ý nghĩa về mặt y
  9. 9 học, xã hội mà còn có ý nghĩa lớn về kinh tế. CSSK cần được coi như một quyền của con người. Mọi người không bình đẳng với nhau trước sức khỏe. Sự không bình đẳng này có thể có nguyên nhân từ lối sống, điều kiện kinh tế nhưng cũng có thể do cơ địa hay đi truyền. Chất lượng dịch vụ CSSK: Đối với lĩnh vực KCB thì tiêu chí về chất lượng dịch vụ có thể được hiểu dưới hai góc độ. Chất lượng về mặt chuyên môn như kết quả KCB (khỏi, đỡ, tác dụng phụ...) thì chỉ có bản thân người trực tiếp điều trị biết hoặc có thể được giám sát, đánh giá ít nhiều bởi đồng nghiệp của họ còn người bệnh không phải lúc nào cũng đủ khả năng để đánh giá về chất lượng dịch vụ y tế mà mình sử dụng. Đối với bệnh nhân thì chất lượng dịch vụ KCB được hiểu đơn giản theo các khía cạnh như không phải chờ đợi, được tiếp đón ân cần, nhiệt tình, phòng bệnh vệ sinh sạch sẽ… Chính vì vậy không phải lúc nào bệnh nhân cũng có đủ thông tin để lựa chọn nơi phù hợp để tìm kiếm dịch vụ. Có sự khác biệt lớn giữa nhu cầu và yêu cầu. Trong lĩnh vực CSSK, nhu cầu có thể được hiểu theo hai cách cơ bản là nhu cầu chuẩn mực và nhu cầu cảm thấy. Nhu cầu chuẩn mực là nhu cầu được nhà chuyên môn (bác sỹ) đánh giá dựa trên cơ sở chuyên môn còn nhu cầu cảm thấy là nhu cầu do cá nhân tự đưa ra. Nhiều khi hai loại nhu cầu trên mâu thuẫn với nhau bởi sự hạn chế về chuyên môn của bệnh nhân. Tương tự, nhu cầu chuẩn mực cũng khác so với yêu cầu khi yêu cầu phản ánh ý thích của cá nhân trên cơ sở tự nguyện chi trả. Phẫu thuật thẩm mỹ là yêu cầu nhưng nhiều khi không là nhu cầu chuẩn mực, tương tự tiêm phòng ung thư cổ tử cung ở nữ giới là nhu cầu chuẩn mực nhưng nhiều khi lại không là yêu cầu hay nhu cầu cảm thấy. Sự khác biệt này một phần do sự hạn chế của bệnh nhân trong nhiều trường hợp có thể là do sức khỏe tâm thần (người mắc bệnh tâm thần) hay do tình huống đặc biệt (đang trong tình trạng bất tỉnh). 2.1.1.4 Khái niệm và thuật ngữ trong nghiên cứu Khám bệnh: là việc hỏi bệnh, khai thác tiền sử bệnh, thăm khám thực thể, khi cần thiết thì chỉ định làm xét nghiệm cận lâm sàng, thăm dò chức năng để chẩn đoán và chỉ định phương pháp điều trị cho phù hợp đã được công nhận. Chữa bệnh: là việc sử dụng phương pháp chuyên môn kỹ thuật đã được công nhận và thuốc đã
  10. 10 được phép lưu hành để cấp cứu, điều trị, chăm sóc, phục hồi chức năng cho người bệnh. Cơ sở khám, chữa bệnh: là cơ sở cố định hoặc lưu động đã được cấp phép hoạt động và cung cấp dịch vụ KCB. Cơ sở y, dược tư nhân: là cơ sở do cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và quản lý, điều hành. Giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh: là số tiền phải trả cho mỗi dịch vụ KCB. Hộ gia đình: là những người ở cùng một nhà và ăn cùng mâm từ 03 tháng trở lên. Chủ hộ gia đình: là người đại diện cho hộ, được các thành viên trong hộ thừa nhận. Người bệnh: là nhừng người có tình trạng bất thường về sức khỏe kéo dài từ một ngày trở lên (ví dụ như ho, sốt, tiêu chảy, đau viêm, tai nạn chấn thương, bệnh mãn tính...), tình trạng bất thường này do người được hỏi nhận thức trả lời hoặc do xác định của nhân viên y tế. Người nhà bệnh nhân: là người trong gia đình đến chăm sóc bệnh nhân hàng ngày, hoặc dẫn bệnh nhân đi khám bệnh. Tiếp cận với dịch vụ KCB y tế công lập: là khả năng mà người sử dụng dịch vụ KCB khi cần có thể đến sử dụng tại nơi cung cấp dịch vụ KCB y tế công lập. Sử dụng dịch vụ KCB y tế công lập: là những người có tình trạng sức khỏe bất thường hoặc khi có nhu cầu đến KCB, mua thuốc hay sử dụng bất cứ hình thức cung cấp dịch vụ KCB nào do các cơ sở y tế công lập. Công bằng trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ KCB: Sự đối xử, sự đáp ứng theo yêu cầu của mỗi người hay mỗi nhóm người khi có nhu cầu KCB thì được sử dụng dịch vụ KCB theo hướng mọi người có bệnh như nhau sẽ được chăm sóc y tế như nhau, không phụ thuộc vào khả năng chi trả. Mức thu nhập của các hộ gia đình: phân loại kinh tế hộ gia đình. Chi phí khám, chữa bệnh: trong nghiên cứu này chi phí khám chữa bệnh được hiểu bao gồm mọi chi phí cho việc KCB bao gồm tiền công khám bệnh, xét nghiệm, tiền thuốc, tiền giường, tiền phẫu thuật, thủ thuật, chi phí đi lại, ăn ở… liên quan đến đợt khám chữa bệnh của người bệnh
  11. 11 2.1.2 Chất lượng dịch vụ 2.1.2.1 Khái niệm về chất lượng dịch vụ Xuất phát từ những quan điểm về chất lượng trong lĩnh vực sản xuất, ngày nay chất lượng dịch vụ đã được xác định như một yếu tố cạnh tranh mang tính chiến lược của các nhà cung cấp dịch vụ. Chất lượng dịch vụ là một phạm trù rất rộng và phức tạp, phản ánh tổng hợp các nội dung kinh tế, kỹ thuật và xã hội. Do đó, có rất nhiều khái niệm khác nhau về chất lượng, tuỳ theo hướng tiếp cận mà khái niệm về chất lượng dịch vụ được hiểu theo cách khác nhau. Theo TCVN ISO 9000: 2000 dựa vào khái niệm về chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có của dịch vụ thỏa mãn các nhu cầu, mong đợi của khách hàng và các bên có liên quan. Theo quan điểm hướng về khách hàng, chất lượng dịch vụ đồng nghĩa với việc đáp ứng mong đợi của khách hàng, thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Do vậy, chất lượng được xác định bởi khách hàng, như khách hàng mong muốn. Và nhu cầu của khách hàng thì đa dạng, cho nên chất lượng cũng sẽ có nhiều cấp độ tuỳ theo đối tượng khách hàng. Chất lượng dịch vụ là do khách hàng quyết định. Như vậy, chất lượng là phạm trù mang tính chủ quan, tuỳ thuộc vào nhu cầu, mong đợi của khách hàng. Cùng một mức chất lượng dịch vụ nhưng các khách hàng khác nhau sẽ có cảm nhận khác nhau, và ngay cả cùng một khách hàng cũng có cảm nhận khác nhau ở các giai đoạn khác nhau. Chất lượng dịch vụ là mức độ khác nhau giữa sự mong đợi của người tiêu dùng về dịch vụ và nhận thức của họ về kết quả dịch vụ (Parasuraman, 1988). Chất lượng dịch vụ được hình thành từ nhiều yếu tố khác nhau. Có thể nói nó là một khái niệm nhiều khía cạnh. Parasuraman và cộng sự (1985) đưa ra mười khía cạnh của chất lượng dịch vụ bao gồm: (1) Sự tin cậy (Reliability); (2) Khả năng đáp ứng (Responsiveness); (3) Năng lực phục vụ (Assurance); (4) Tiếp cận (Access), (5) Lịch sự (Courtesy);
  12. 12 (6) Thông tin (Communication); (7) Tín nhiệm (Credibility); (8) Độ an toàn (Security); (9) Hiểu biết khách hàng (Understanding customer); (10) Phương tiện hữu hình (Tangibles); Từ 10 khía cạnh này các nghiên cứu tiếp theo được rút về 5 yếu tố chính (theo Parasuraman và cộng sự, 1988, 1991) của chất lượng dịch vụ bao gồm: (1) Sự tin cậy (Reliability): Thể hiện khả năng thực hiện dịch vụ phù hợp và đúng thời hạn ban đầu. (2) Sự đáp ứng (Responsiveness): Thể hiện sự mong muốn và sẵn lòng của nhân viên phục vụ cung cấp dịch vụ kịp thời cho khách hàng. (3) Năng lực phục vụ (Assurance): Tính chuyên nghiệp của nhân viên phục vụ (4) Sự đồng cảm (Empathy): Thể hiện sự quan tâm của nhân viên đối với khách hàng (5)Phương tiện hữu hình (Tangibles): Trang phục, ngoại hình của nhân viên và trang thiết bị phục vụ cho dịch vụ.. Như vậy có thể thấy rằng chất lượng dịch vụ là một khái niệm bao hàm nhiều khía cạnh, nó là một chỉ tiêu tổng hợp của các nhân tố khác nhau. Trong những lĩnh vực dịch vụ khác nhau nó lại được đo lường bởi những yếu tố khác nhau. 2.1.2.2 Khái niệm dịch vụ y tế và đặc điểm dịch vụ Khái niệm dịch vụ y tế: Dịch vụ y tế là một loại hàng hóa kinh tế đặc biệt, vô hình khác biệt so với các sản phẩm hàng hóa hữu hình khác, về bản chất dịch vụ y tế bao gồm các hoạt động được thực hiện bởi nhân viên y tế như: Khám, chữa bệnh phục vụ bệnh nhân và gia đình. Dịch vụ y tế là loại hàng hóa mà người sử dụng (bệnh nhân) thường không thể hoàn toàn tự mình chủ động lựa chọn dịch vụ theo ý muốn mà phụ thuộc rất nhiều vào bên cung ứng (cơ sở y tế). Mặt khác dịch vụ y tế là loại hàng hóa gắn liền với tính mạng con người nên mặc dù không có tiền nhưng
  13. 13 vẫn phải khám chữa bệnh. Đặc điểm đặc biệt này không giống các loại hàng hóa khác. Với các loại hàng hóa khác người mua có rất nhiều phương pháp để lựa chọn thậm chí không mua nếu chưa có đủ khả năng tài chính. Các nhà nghiên cứu có nhiều quan điểm khác nhau về dịch vụ, nghiên cứu này giới thiệu một số khái niệm trích dẫn sử dụng bởi nhiều nhà nghiên cứu khác nhau như sau: Theo cách hiểu truyền thống: dịch vụ là những gì không phải nuôi trồng, không phải sản xuất. Theo cách hiểu phổ biến: dịch vụ là một hoạt động mà sản phẩm của nó là vô hình. Nó giải quyết các mối quan hệ với khách hàng hoặc với tài sản do khách hàng sở hữu mà không có sự chuyển giao quyền sở hữu. Khái niệm về dịch vụ trong lĩnh vực quản lý chất lượng thống nhất theo TCVN ISO 8402:1999: “Dịch vụ là kết quả tạo ra để đáp ứng yêu cầu của khách hàng bằng các hoạt động tiếp xúc giữa người cung cấp - khách hàng, và các hoạt động nội bộ của người cung cấp”. Theo quan điểm của chuyên gia marketing (Philip Kotler, 2001) được trích trong (Tạ Thị Kiều An và cộng sự, 2010): dịch vụ là mọi hoạt động và kết quả mà một bên có thể cung cấp cho bên kia, chủ yếu vô hình, không dẫn đến quyền sở hữu một cái gì. Sản phẩm của nó có thể gắn hay không gắn với một sản phẩm vật chất. Còn theo kinh tế học thì định nghĩa dịch vụ như là những thứ tương tự như hàng hoá phi vật chất. Dịch vụ là kết quả của một quá trình biến đổi các yếu tố đầu vào thành đầu ra cần thiết cho khách hàng. Quá trình đó bao gồm các hoạt động bên trong và các hoạt động bên ngoài, nơi mà khách hàng và nhà cung cấp dịch vụ tương tác với nhau nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng theo cách mà khách hàng mong đợi và suy cho cùng đó là việc tạo ra giá trị cho khách hàng. Về dịch vụ giáo dục là kết quả của quá trình truyền đạt kiến thức từ các yếu tố đầu vào là sách báo, nghiên cứu, kinh nghiệm của người cung ứng (giảng viên) thành những kiến thức cần thiết cho khách hàng (học viên), với sự tác động của các yếu tố bên trong và bên ngoài nhằm thoả mãn nhu cầu của học viên. Còn theo ( Zeithaml và Britner, 2000) dịch vụ là hành vi, quá trình, cách
  14. 14 thức thực hiện một công việc nào đó nhằm tạo ra giá trị sử dụng cho khách hàng làm thỏa mãn nhu cầu và mong đợi của khách hàng. Trong nghiên cứu này dịch vụ y tế (chăm sóc sức khỏe) được hiểu là toàn bộ các quá trình, các giải pháp mang lại những tiện ích cung cấp cho người bệnh nhằm đáp ứng các nhu cầu về khám chữa bệnh của họ. Như vậy có thể hiểu dịch vụ là những hoạt động tạo ra lợi ích nhằm thỏa mãn như cầu của khách hàng về một hoạt động nào đó. Các nhà nghiên cứu có thể có cách định nghĩa dịch vụ khác nhau tuy nhiên thống nhất với nhau về tính chất dịch vụ. Đặc điểm của dịch vụ nói chung (Nguyễn Đình Phan và cộng sự, 2006) đưa ra một số đặc điểm của dịch vụ như sau: - Tính vô hình (Intangibility): Sản phẩm dịch vụ là sản phẩm mang tính vô hình, chúng không có hình thái rõ rệt, người sử dụng không thể thấy nó hoặc cảm nhận về nó trước khi sử dụng. Khách hàng chỉ có thể cảm nhận về chất lượng dịch vụ khi họ sử dụng nó, tương tác với nó và không thể biết trước chất lượng dịch vụ. Hay nói cách khác chất lượng dịch vụ phụ thuộc nhiều vào cảm nhận chủ quan của người sử dụng, rất khó để có thể đo lường một cách chính xác bằng các chỉ tiêu kỹ thuật cụ thể. - Tính không đồng nhất (Variability): Chất lượng dịch vụ không có tính đồng nhất giữa các thời điểm thực hiện dịch vụ và nó còn phụ thuộc vào cảm nhận cá nhân của khách hàng về dịch vụ. Cùng một chu trình cung cấp dịch vụ nhưng cảm nhận về chất lượng dịch vụ của khách hàng tại những thời điểm khác nhau có thể khác nhau, cảm nhận cùng một dịch vụ của các cá nhân khác nhau có thể khác nhau, dịch vụ có thể được đánh giá từ mức kém đến mức hoàn hảo bởi những khách hàng khác nhau phụ thuộc vào kỳ vọng của họ. Do đặc điểm về tính không đồng nhất của dịch vụ làm cho việc tiêu chuẩn hóa dịch vụ trở nên khó khăn hơn so với việc tiêu chuẩn hóa sản phẩm hữu hình khác. - Tính không thể tách rời (Inseparability): Tính không thể tách rời của dịch vụ được thể hiện ở sự khó khăn trong việc phân biệt giữa việc tạo thành dịch vụ
  15. 15 và việc sử dụng dịch vụ như là hai công việc hay hai quá trình riêng biệt. Một dịch vụ không thể tách bạch được thành hai quá trình riêng biệt là (1) quá trình tạo thành dịch vụ và (2) quá trình sử dụng dịch vụ, chúng là đồng thời với nhau. Sự tạo thành và sử dụng của hầu hết các dịch vụ là diễn ra đồng thời với nhau. Đây là sự khác nhau cơ bản với hàng hóa hữu hình khác: Hàng hóa được sản xuất và đưa vào lưu trữ hoặc chuyển giao qua phân phối để tới tay người sử dụng, chúng là hai quá trình riêng biệt có thể tách rời một cách rõ ràng. Dịch vụ lại là một quá trình việc tạo ra, sử dụng là đồng thời, khách hàng và nhà cung cấp dịch vụ tham gia trong suốt quá trình tạo ra dịch vụ. Điều này làm nảy sinh các vấn đề như sau - Tính không lưu trữ được(Perishability): Dịch vụ có quá trình sản xuất và sử dụng diễn ra đồng thời vì vậy nó không thể lưu trữ được như các hàng hóa hữu hình khách. Nói cách khác ta không thể cất trữ và lưu kho dịch vụ trước khi đem ra lưu thông được - Tính đồng thời (Simultaneity): Tính đồng thời của dịch vụ được thể hiện qua việc sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời với nhau. Không thể tách rời quá trình sản xuất với quá trình tiêu dùng được. 2.1.3 Sự hài lòng của khách hàng 2.1.3.1 Khái niệm sự hài lòng của khách hàng Sự hài lòng của khách hàng là sự phản hồi tình cảm toàn bộ cảm nhận của khách hàng đối với nhà cung cấp dịch vụ trên cơ sở so sánh sự khác biệt giữa những gì họ nhận được so với mong đợi trước đó. Có rất nhiều chủ đề, sách báo khoa học đã xuất bản về đề tài này. (Oliver, 1999) đã chỉ ra rằng, sự hài lòng là cảm nhận của người tiêu dùng khi quá trình tiêu dùng đáp ứng được những nhu cầu, kỳ vọng, mục tiêu của họ một cách dễ chịu và thú vị. Trong lĩnh vực du lịch, (Chon, 1989) cho rằng: sự hài lòng của du khách phụ thuộc vào những mong đợi của du khách: cảm nhận trước khi đến và những trải nghiệm tại điểm đến du lịch (những gì mà du khách nhìn ngắm, cảm nhận và đạt được) có phù hợp với nhau không. Ðồng thời (Chon & Olsen,1991) đã phát hiện ra rằng: Có một mối tương quan về sự phù hợp giữa mong đợi của du khách đối với
  16. 16 điểm đến và sự hài lòng của du khách. Mối tương quan đó là, sau khi du khách mua những sản phẩm và dịch vụ du lịch, nếu những đánh giá của họ sau khi trải nghiệm các sản phẩm du lịch tốt hơn mong đợi của họ, họ sẽ hài lòng với chuyến du lịch của mình. 2.1.3.2 Mục tiêu đo lường sự hài lòng Việc đo lường sự hài lòng của khách hàng nhằm để biết được ý kiến của khách hàng, xác định xem khách hàng đón nhận hay không đón nhận tích cực dịch vụ cụ thể, để biết được mong đợi của khách hàng về dịch vụ, chất lượng dịch vụ. 2.1.3.3 Phân loại sự hài lòng của khách hàng Có thể phân loại sự hài lòng của khách hàng thành 3 loại và chúng có sự tác động khác nhau đến nhà cung cấp dịch vụ: - Hài lòng tích cực (Demanding customer satisfaction): là sự hài lòng mang tính tích cực. Họ và nhà cung cấp sẽ có mối quan hệ tốt đẹp, tín nhiệm lẫn nhau và cảm thấy hài lòng khi giao dịch. Yếu tố tích cực thể hiện khách hàng sẽ trung thành với bệnh viện với những yêu cầu không ngừng tăng lên sẽ giúp cho bệnh viện càng nỗ lực cải tiến chất lượng dịch vụ ngày càng hoàn thiện tốt hơn. - Hài lòng thụ động (Resigned customer satisfaction): khách hàng thuộc nhóm này sẽ ít tin tưởng vào bệnh viện và cho rằng bệnh viện khó có thể cải thiện được chất lượng dịch vụ tốt hơn nữa theo yêu cầu mà họ mong muốn. Vì vậy sẽ không có thái độ tích cực trong việc đóng góp ý kiến hay thờ ơ với nỗ lực của bệnh viện trong việc cải tiến. - Hài lòng ổn định (Stable customer satisfaction): đối với nhóm khách hàng có sự hài lòng ổn định, họ cảm thấy thoải mái và hài lòng với chất lượng dịch vụ hiện có của bệnh viện và không mong muốn có sự thay đổi trong cung cách cung cấp dịch vụ của bệnh viện. Ngoài ra, sự hài lòng của khách hàng có thể phân loại dựa theo phản ứng tinh thần như: thỏa mãn, vui vẻ, giải thoát, mới lạ, ngạc nhiên mừng rỡ. 2.2 Mối quan hệ giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng 2.2.1 Tác động chất lượng dịch vụ tới sự hài lòng của khách hàng Mục tiêu hàng đầu của các công ty là phải thỏa mãn nhu cầu của khách
  17. 17 hàng nếu muốn có được lợi nhuận. Họ sẽ tiếp tục sử dụng dịch vụ và sử dụng nhiều hơn nếu được thỏa mãn nhu cầu. Có nhiều quan điểm khác nhau về mức độ thỏa mãn của khách hàng. Theo (Zeithaml và Bitner 2000) chất lượng dịch vụ và sự thỏa mãn khách hàng là hai khái niệm phân biệt .Sự thỏa mãn khách hàng là một khái niệm tổng quát, nói lên sự hài lòng của họ khi tiêu dùng một dịch vụ. Trong khi đó, chất lượng dịch vụ chỉ tập trung vào các thành phần cụ thể của dịch vụ. Hiện vẫn chưa có được sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu về các khái niệm, nhưng đa số các nhà nghiên cứu cho rằng giữa chất lượng dịch vụ và hài lòng khách hàng có mối liện hệ với nhau (Cronin and Taylor, 1992; Spreng, 1996). Theo (Nguyễn & Nguyễn, 2003) chất lượng dịch vụ là yếu tố tác động trực tiếp và cùng đến sự hài lòng của khách hàng. Khi chất lượng dịch vụ được đánh giá là tốt thì khách hàng sẽ hài lòng và ngược lại. Do đó, muốn nâng cao sự hài lòng khách hàng, nhà cung cấp dịch vụ phải nâng cao chất lượng dịch vụ. Nói cách khác, chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của khách hàng có quan hệ tương quan và hỗ trợ chặt chẽ với nhau (positive relationship), trong đó chất lượng là cái được tạo ra trước và sau đó quyết định đến sự hài lòng của khách hàng. Mối quan hệ nhân quả giữa hai yếu tố này là vấn đề then chốt trong hầu hết các nghiên cứu về sự hài lòng của khách hàng. Trong nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai yếu tố này, (Spreng và Mackoy 1996) cũng chỉ ra rằng chất lượng dịch vụ là tiền đề của sự hài lòng khách hàng. Chất lượng Chất lượng mong đợi Nhu cầu dịch vụ được đáp ứng Chất lượng cảm nhận Nhu cầu Sự hài không lòng được đáp ứng Chất lượng mong đợi
  18. 18 Hình 2.1: Quan hệ giữa chất lượng dịch vụ và sự hài lòng khách hàng (Spreng và Mackoy, 1996) Tuy nhiên có rất ít nghiên cứu tập trung vào việc kiểm tra mức độ giải thích của các thành phần của chất lượng dịch vụ đối với sự hài lòng khách hàng, đặc biệt trong từng ngành dịch vụ cụ thể. Vì thế, một vấn đề đặt ra phải nghiên cứu thêm về mối quan hệ các nhân tố của chất lượng dịch vụ với mức độ hài lòng khách hàng ứng với một lĩnh vực cụ thể. 2.2.2 Ảnh hưởng của giá cả đến sự hài lòng của khách hàng Giá cả được xem như nhận thức của người tiêu dùng về việc từ bỏ hoặc hy sinh một cái gì đó để được sở hữu một sản phẩm hoặc một dịch vụ. Khi khách hàng cảm nhận chất lượng dịch vụ (perceived service quality) có được nhiều hơn so với chi phí sử dụng (perceived price) thì giá cả được xem là cạnh tranh và khách hàng sẽ hài lòng. Ngược lại khách hàng sẽ tỏ ra không hài lòng vì cảm thấy mình phải trả nhiều hơn so với những gì nhận được và giá cả trong trường hợp này sẽ tác động tiêu cực đến sự hài lòng của khách hàng. Khi khách hàng xem xét giá cả của một thương hiệu nào đó, dù cho sản phẩm hay dịch vụ, họ luôn có xu hướng so sánh giá cả so với các thương hiệu cạnh tranh để có cảm nhận về chất lượng dịch vụ của nó giá cả được khách hàng cảm nhận cao hoặc thấp thì mức độ hài lòng của khách hàng sẽ giảm hoặc tương ứng. 2.3 Giới thiệu các mô hình nghiên cứu trước 2.3.1 Các mô hình nghiên cứu ở nước ngoài Nghiên cứu của Brahmbhatt và cộng sự 2013: Theo (Brahmbhatt và cộng sự 2013), sự hài lòng của bệnh nhân khi khám cữa bệnh tại bệnh viện phụ thuộc vào 5 yếu tố sau: - Vật chất là bệnh viện đặt ở vị trí thuận lợi; các phòng chờ, phòng lâm sàng và chẩn đoán kiểm tra, trước khi phẫu thuật và hậu phẫu (hoặc phường bệnh nhân / người dân), các đơn vị chăm sóc đặc biệt, phòng tắm và nhà vệ sinh đầy đủ, thoải mái và sạch sẽ; các giường, gối và nệm là thoải mái và sạch sẽ; đội ngũ nhân ăn mặc gọn gàng, lịch sự; dịch vụ xe cứu thương đủ để đáp ứng nhu cầu với chí phí tối thiểu, máy móc y tế hiện đại, có độ chính xác cao,...
  19. 19 - Độ tin cậy là bệnh viện thực hiện đúng các dịch vụ ngay từ lần đầu tiên; bệnh nhân cảm thấy an toàn trong việc điều trị bởi các bác sĩ của bệnh viện này; bệnh viện này cung cấp tất cả các thông tin cần thiết và hướng dẫn liên quan đến nhập viện, điều trị và xuất viện rõ ràng cho bệnh nhân và nhân viên; Các dị ứng hoặc phản ứng với thuốc được đưa về chăm sóc tại bệnh viện này; - Về sự tiếp xúc, gặp gỡ người bệnh tác giả chia ra làm 2 nhân tố đó là tinh thần trách nhiệm nhân viên bệnh viện chưa bao giờ cảm thấy quá bận rộn khi đáp ứng yêu cầu khách hàng, khi bệnh nhân gặp vấn đề, bệnh viện thể hiện sự quan tâm chân thành trong việc giải quyết chúng và sự đồng cảm nhân viên luôn muốn tìm hiểu những vấn đề khó khăn mà người bệnh đang gặp phải để có hướng giải quyết kịp thời; nhân viên ân cần hướng dẫn người bệnh về những quy tắt của bệnh viện; nhân viên tại bệnh viện hiểu rõ nhu cầu người bệnh và chỉ dẫn tận tình, các nhân viên có kiến thức để trả lời các câu hỏi của bệnh nhân; - Về quy trình bệnh viện đặt quầy giải quyết khiếu nại tại một vị trí nổi bật để lắng nghe phản hồi của bệnh nhân, mức độ chờ đợi các dịch vụ hợp lý; đúng hẹn; - Về chính sách của bệnh viện bệnh viện có phần thưởng dành cho những khách hàng trung thành thông qua thẻ hội viên, bệnh viện có giờ tư vấn thuận tiền cho tất cả các bệnh nhân của họ. Khía cạnh vật chất Độ tin cậy Sự tiếp xúc Sự hài lòng Quy trình Chính sách Hình 2.2: Mô hình nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của Brahmbhatt và
  20. 20 cộng sự (Nguồn: Brahmbohatt và cộng sự, 2013) 2.3.2 Các mô hình nghiên cứu trong nước Nghiên cứu của tác giả Tăng Thị Lưu năm 2012: Trong nghiên cứu của tác giả (Tăng Thị Lưu, 2012), tác giả đưa ra mô hình nghiên cứu gồm 8 nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của bệnh nhân đối với bệnh viện đa khoa Đà Nẵng bao gồm: (1) Ấn tượng ban đầu là ấn tượng đầu tiên khi gặp nhân viên sẽ như thế nào (2) Hiệu quả và liên tục là lời dặn dò của nhân viên bệnh viện khi bệnh nhân xuất viện, về nhà, đưa ra lời khuyên cho bệnh nhân về tình trạng sức khỏe của họ, sự chuyên nghiệp của đội ngũ nhân viên bệnh viện…; (3) Sự thích hợp là sự sạch sẽ, thoải mái, đầy đủ của cơ sở hạ tầng, sự tôn trọng và giữ bí mật cho bệnh nhân; (4) Thông tin là nhận được những thông tin cần thiết một cách nhanh chóng từ bác sĩ, sự sẵn sàng của bác sĩ mỗi khi bệnh nhân cần; (5) Tính hiệu dụng là những điều liên quan đến việc thanh toán; (6) Quan tâm và chăm sóc là thái độ phục vụ bệnh nhân của nhân viên bệnh viện, giải quyết các phàn nàn của bệnh nhân ra sao, sự hiểu biết về nhu cầu của bệnh nhân; (7) Danh tiếng của bệnh viện là uy tín, hình ảnh của bệnh viện, đội ngũ nhân viên y tế, trình độ chuyên môn của các bác sĩ điều dưỡng có làm cho bệnh nhân tin tưởng khi đến khám chữa bệnh hay không. (8) Viện phí là chi phí khám chữa bệnh có phù hợp không, chế độ viện phí được thực hiện đúng với bệnh nhân bảo hiểm hay chưa, thủ tục nhanh gọn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2