intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phân tích các yếu tố tác động đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân Tp Hồ Chí Minh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:93

30
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm phân tích xu hướng tác động của các yếu tố đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ. Giải thích nguyên nhân tại sao người dân thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phân tích các yếu tố tác động đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân Tp Hồ Chí Minh

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH TRẦN TỊNH MINH TRÍ PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ CỦA NGƯỜI DÂN TP HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ Tp Hồ Chí Minh – Năm 2015
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH TRẦN TỊNH MINH TRÍ PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ CỦA NGƯỜI DÂN TP HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Kinh Tế Phát Triển Mã Số: 60310105 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HAY SINH Tp Hồ Chí Minh – Năm 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn. Trần Tịnh Minh Trí.
  4. MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC KÝ HIỆU, VIẾT TẮT DANH MỤC PHỤ LỤC CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ......................................................................................1 1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ. ..............................................................................................1 1.2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ..............................................4 1.3 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ..........................................................................4 1.3.1 Mục tiêu tổng quát: .................................................................................4 1.3.2 Mục tiêu cụ thể: ......................................................................................4 1.3.3 Câu hỏi nghiên cứu: ...................................................................................4 1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................................4 1.5 BỐ CỤC ĐỀ TÀI ..........................................................................................5 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ........7 2.1 ĐỊNH NGHĨA VỀ KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ ..................................7 2.2 LÝ THUYẾT VỀ KINH TẾ HỌC SỨC KHỎE ( Peter Zweifel( 2009) ) ........8 2.2.1 Nguyên lý xác định giá trị kinh tế của sức khỏe..........................................8 2.2.2 Công bằng và sức khỏe. ............................................................................14 2.2.3 Cung và cầu sức khỏe cá nhân. ................................................................18 2.3 LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG. ............................................21 2.4 CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN. ...............................................................22 2.4.1 Mô hình nghiên cứu. ..................................................................................22 2.4.2 Công bằng trong tiếp cận dịch vụ. ............................................................24 2.4.3 Hành vi người tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ...................................25
  5. 2.5 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................26 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................................................28 3.1 KHUNG PHÂN TÍCH. ....................................................................................28 3.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH..............................................29 3.2.1 Sự cần thiết của việc phỏng vấn tay đôi. ...................................................29 3.2.2 Phỏng vấn tay đôi. .....................................................................................29 3.3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG .........................................32 3.3.1 Mô hình hồi quy. ........................................................................................32 3.3.2Thiết kế khảo sát. ........................................................................................35 3.4 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................37 CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU............................................................39 4.1 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH ........................................................39 4.1.1 Bảng tổng hợp phỏng vấn tay đôi với giới chuyên gia, bác sỹ. ................39 4.1.2 Bảng tổng hợp phỏng vấn tay đôi với người có khả năng quyết định việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. ..................................................................................42 4.1.3 Bảng tổng hợp chung của hai đối tượng phỏng vấn là giới chuyên gia, bác sỹ với người có khả năng thực hiện quyết định việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. ............................................................................................................................45 4.2 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƯỢNG....................................................46 4.2.1 Thống kê mô tả. .........................................................................................46 4.2.2 Kết quả mô hình hồi quy Logistic. .............................................................56 4.3 KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 ................................................................................61 CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.........................................................62 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  6. DANH MỤC KÝ HIỆU, VIẾT TẮT KTSKĐK: Kiểm tra sức khỏe định kỳ. BYT: Bộ y tế. CEA: Phân tích chi phí hiệu quả. ACER: Chỉ số hiệu quả trung bình. QUALY: Chất lượng sống. GSO: Tổng cục thống kê. GDP: Tổng sản phẩm quốc nội. BV: Bệnh viên. FFS: Dịch vụ chăm sóc sức khỏe có trả phí. HMO: Dịch vụ chăm sóc sức khỏe được bảo trợ.
  7. DANH MỤC PHỤ LỤC Phụ lục 1 : Bảng câu hỏi dùng cho chuyên gia, bác sỹ. Phụ lục 2: Bảng câu hỏi dùng cho người tham gia. Phụ lục 3: Danh sách các chuyên gia. Phụ lục 4: Bảng câu hỏi khảo sát định lượng. Phụ lục 5: Bệnh bẩm sinh, bệnh mạn tính. Phụ lục 6: Bảng dữ liệu khảo sát.
  8. 1 CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ. Vấn đề sức khỏe trở nên rất quan trọng , vì nó được xem như là một trong những yếu tố chính trong việc hạn chế đói nghèo, phát triển bền vững của nền kinh tế ( World Bank (1993); Smith (1999) ). Không lâu trước đây, sức khỏe tốt được xem như là món quà của tự nhiên và sức khỏe tồi được coi như những điều không may mắn. Tuy vậy, những thành quả y tế hiện đại đã tạo ra niềm tin về việc con người có thể đạt tới một sức khỏe tốt khi sử dụng chúng đúng cách. ( Peter Zweifel (2009) ). Y tế dự phòng là một phương pháp giúp tiết kiệm chi phí cho cá nhân và toàn xã hội hơn là phương pháp cứu chữa hiện nay. Phòng bệnh có nghĩa là phải kiểm tra sức khỏe định kỳ, trước khi các mầm bệnh phát triển. ( Ariely, (2008) ). Vì vậy để có được một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn, chúng ta phải luôn chắc chắn sức khỏe của chúng ta được kiểm soát chặt chẽ. Để thực hiện được điều này, chúng ta phải thường xuyên kiểm tra sức khỏe định kỳ tại các cơ sở chăm sóc sức khỏe. Qua việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, chúng ta có thể phòng ngừa được bệnh tim mạch, tăng mỡ máu ở người lớn tuổi , đây là nguyên nhân quan trọng gây tăng huyết áp, dẫn đến biến chứng tai biến mạch máu não, một vài căn bệnh ung thư có thể được chữa khỏi nếu phát hiện sớm,…Tuy nhiên , ở Việt Nam chúng ta hiện nay đa số người dân chỉ đến cơ sở y tế khi cơ thể đã phát bệnh, khi cảm thấy khó chịu với các triệu chứng và đang suy yếu. Chính thói quen này làm cho cơ hội chữa khỏi bệnh không cao, không hiệu quả về chi phí đầu tư cho sức khỏe. Việt Nam hiện nay là quốc gia đang có sự phát triển về nhiều mặt, ý thức của người dân về một cuộc sống khỏe mạnh cũng được thể hiện khá rõ, qua việc họ ngày càng quan tâm đến chất lượng hàng hóa, thực phẩm, các công viên, câu lạc bộ thể dục ngày càng đông người luyện tập. Thế nhưng việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, một việc làm quan trọng để giảm thiểu rủi ro về sức khỏe thì chưa được quan tâm.
  9. 2 Lâu nay chính sách của chúng ta chỉ tập trung vào việc kiểm tra sức khỏe định kỳ cho những đối tượng đặc thù như: người lao động trong môi trường độc hại, các cơ quan, công ty, thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ cho cán bộ công nhân viên của mình. Chưa có cơ chế khuyến khích toàn dân. Hãy tưởng tượng, nếu tất cả chúng ta đều kiểm tra sức khỏe định kỳ, sẽ có bao nhiêu bệnh nghiêm trọng có thể được phát hiện, bao nhiêu chi phí có thể được cắt giảm và bao nhiêu người sẽ giảm nổi khốn khổ nhờ phát hiện bệnh sớm? Với nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi của Việt Nam hiện nay, rất nhiều yếu tố có thể gây hại cho sức khỏe như: thực phẩm kém chất lượng, bụi bẩn và ô nhiểm môi trường từ quá trình công nghệp hóa, áp lực tài chính và công việc gia tăng…, nhất là tại các thành phố lớn. Qua đó chúng ta thấy rằng việc kiểm tra sức khỏe định kỳ để góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống là rất cần thiết. Làm sao chúng ta có thể nâng cao ý thức của người dân về việc kiểm tra sức khỏe định kỳ? Để có được những định hướng đúng, những chính sách phù hợp, hiệu quả trong việc khuyến khích người dân tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ, chúng ta cần phải biết được các yếu tố nào trong xã hội Việt nam hiện nay tác động đến quyết định thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ. Các yếu tố cơ bản trong xã hội Việt nam hiên nay như là: Trình độ dân trí Việt Nam những năm gần đây đội ngũ trí thức tăng nhanh, chỉ tính riêng số sinh viên cũng đã cho thấy sự tăng nhanh vượt bậc. Năm 2003-2004 tổng số sinh viên đại học và cao đẳng là 1.131.030 sinh viên đến năm 2007- 2008 tăng lên 1.603.484 sinh viên. Năm 2008 tổng số sinh viên ra trường là 233.966 trong đó sinh viên tốt nghiệp đại học là 152.272; sinh viên tốt nghiệp cao đẳng là 81.694. Số trí thức có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cũng tăng nhanh( nguồn: Nguồn nhân lực Việt nam – Bộ Giáo duc. 22/6/ 2010 ). Thu nhập bình quân đầu người hiện nay của Việt nam dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê (GSO), tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam năm 2014 tính theo giá hiện hành đạt 3.937.856 tỷ đồng, tương đương 184 tỷ USD, tính theo
  10. 3 tỷ giá của Sở Giao dịch Ngân hàng Nhà nước vào ngày 31/12/2014 là 21.400 đồng/USD.Dựa trên quy mô dân số 90,73 triệu người của năm 2014 (cũng theo số liệu do GSO công bố), GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2014 đạt 2.028 USD, tương đương 169 USD/tháng.Trước đó, năm 2013, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam đạt 3.584.262 tỷ đồng tính theo giá hiện hành, theo đó GDP bình quân đầu người đạt 1.900 USD, tăng so với mức 1.749 USD của năm 2012.Với mức thu nhập 169 USD/ tháng tương đương với 3,380,000VND/ tháng đây là mức thu nhập trung bình thấp so với các nước trong khu vực. ( Nguồn: Tổng cục thống kê – 2014 ) Trong 10 năm qua, số người trong độ tuổi 15-64 đã tăng lên 12,6 triệu người, từ 46,7 triệu người năm 1999 lên 59,3 triệu người năm 2009. Tỷ trọng dân số từ 65 tuổi trở lên tuy cũng tăng lên nhưng không đáng kể. Sau 30 năm, tỷ trọng này chỉ tăng được 1,6 điểm phần trăm (từ 4,8% năm 1979 lên 6,4% năm 2009). ( nguồn: Tổng cục dân số kế hoạch hóa gia đình 2014 ). Tình hình cung cấp dịch vụ y tế cho người dân ở Việt nam hiện nay: Bệnh viện Ung bứơu TP Hồ Chí Minh là tuyến cuối của người bệnh mắc bệnh ung thư khu vực phía nam. Số giường thực kê của BV chỉ có 631 giường. Trung bình mỗi ngày BV điều trị nội trú gần hai nghìn người bệnh, bệnh nhân ngoại trú gần 10 nghìn người. Trong khi cơ sở vật chất BV đang xuống cấp, chật hẹp, trang thiết bị thiếu... Hằng ngày, số lượng người bệnh đến khám, điều trị luôn trong tình trạng "vượt ngưỡng" quá tải. Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) có tới 25/26 chuyên khoa (trừ khoa Da liễu) luôn trong tình trạng quá tải. Có những chuyên khoa thường quá tải khoảng 200% như: Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, Viện Tim mạch Quốc gia, Khoa Thận - tiết niệu, Khoa Hô hấp, Khoa Thần kinh... Số lượng bệnh nhân nội trú điều trị tại BV Bạch Mai liên tục tăng theo các năm. Bệnh nhân ngoại trú đến khám tại bệnh viện cũng liên tục tăng với gần 800 nghìn bệnh nhân năm 2010, làm cho tình trạng quá tải ngày càng căng thẳng. ( nguồn: Báo Nhân Dân, 6/1/2012 ) . Với tất cả những yếu tố cơ bản trên, và còn thêm những yếu tố nào khác trong xã hội Việt nam hiện nay, có tác động đến việc tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ
  11. 4 của người dân. Nghiên cứu này sẽ tìm hiểu, phân tích các yếu tố thực sự tác động đến quyết định thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. 1.2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Nghiên cứu này sẽ tìm hiểu, phân tích các yếu tố tác động đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn TP Hồ Chí Minh. Đây là địa bàn có dân số đông nhất cả nước, đặc điểm dân số đa dạng, mức sống bình quân tương đối cao so với cả nước, nhu cầu về sức khỏe cá nhân được thể hiện khá rõ nét. Hệ thống chăm sóc sức khỏe nơi đây đa dạng, phong phú và hiện đại nhất cả nước. Đồng thời đây cũng là nơi có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Với nguồn lực và thời gian có hạn, nghiên cứu khó có thể thực hiện trên phạm vi toàn quốc. Nghiên cứu sẽ thực hiện khảo sát ba quận cụ thể của TP Hồ Chí Minh là quận 1, quận 10, quận Tân Bình, đây là ba quận có khả năng đại diện cho cấu trúc đa dạng của dân cư đang sinh sống tại Tp Hồ Chí Minh. Nghiên cứu sẽ khảo sát việc thực hiện kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân trong khoản thời gian từ năm 2010 đến 2015. 1.3 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1.3.1 Mục tiêu tổng quát: Phân tích các yếu tố tác động đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. 1.3.2 Mục tiêu cụ thể: - Phân tích xu hướng tác động của các yếu tố đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ. - Giải thích nguyên nhân tại sao người dân thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. 1.3.3 Câu hỏi nghiên cứu: - Các yếu tố nào tác động đến việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân? - Chúng tác động theo xu hướng như thế nào? 1.4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
  12. 5 Nghiên cứu được thực hiện đồng thời hai phương pháp, phương pháp định tính và phương pháp định lượng. Nghiên cứu dùng phương pháp định tính. Thảo luận cùng các chuyên gia, bác sỹ, các người dân có khả năng quyết định việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, để xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân, đưa ra được bảng câu hỏi dùng cho khảo sát nghiên cứu định lượng. - Nghiên cứu định tính để xác định rõ hơn các yếu tố nào tác động đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân và tại sao người dân lại thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ. Người nghiên cứu sẽ sử dụng phương pháp phỏng vấn tay đôi với đối tượng nghiên cứu đó là giới chuyên gia sức khỏe, bác sỹ và người có khả năng tự quyết định tham gia kiểm tra sức khỏe định kỳ. Chi tiết về phương pháp định tính, cách thức thu nhập và phân tích dữ liệu sẽ được đề cập chi tiết trong chương ba. Nghiên cứu dùng phương pháp định lượng, gồm thống kê mô tả và mô hình hồi quy logistic. - Từ kết quả nghiên cứu định tính có được, kết hợp với các cơ sở lý thuyết, các nghiên cứu thực nghiệm mà người nghiên cứu có được phương trình hồi quy với các biến cần thiết, khả thi, phù hợp, có thể khảo sát, đo lường được với môi trường Việt nam hiện nay, tác động đến việc thực hiện hay không thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Từ phương trình hồi quy này, người nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy Logistic để biết được xu hướng ảnh hưởng của các yếu tố đến quyết định việc kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân, phân tích mối tương quan của các yếu tố đến quyết định kiểm tra sức khỏe định kỳ của người dân. Chi tiết về phương pháp và mô hình sử dụng trong nghiên cứu sẽ được đề cập đến trong chương ba. 1.5 BỐ CỤC ĐỀ TÀI Đề tài gồm có năm chương: - Chương 1: Giới thiệu về sự cần thiết trong xã hội hiện nay của đề tài nghiên cứu. Phân tích nguyên nhân tại sao chúng ta cần phải kiểm tra sức khỏe định kỳ, ở
  13. 6 độ tuổi nào chúng ta nên thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ, dựa trên các khuyến cáo của các tổ chức y tế có uy tín và lời khuyên của các chuyên gia. Nêu rõ đối tượng của đề tài nghiên cứu, tại sao đề tài lại tập trung vào độ tuổi của đối tượng nghiên cứu từ bốn mươi tuổi trở lên. Mục tiêu nghiên cứu chính của đề tài, để trả lời những câu hỏi nghiên cứu nào. Giới thiệu về phương pháp mà người nghiên cứu sử dụng để làm sáng tỏ vấn đề và phạm vi mà nghiên cứu này khảo sát để nghiên cứu. - Chương 2: Giới thiệu về cơ sở lý thuyết mà người nghiên cứu vận dụng trong lý luận của đề tài, các nghiên cứu thực nghiệm đã được thực hiện bởi những người đi trước, người nghiên cứu đã vận dụng cho nghiên cứu của mình. - Chương 3: Giới thiệu về phương pháp nghiên cứu mà người nghiên cứu sử dụng, đó là nghiên cứu định tính và định lượng trong nghiên cứu của mình. Phương pháp phỏng vấn tay đôi, phương pháp thu nhập dữ liệu, giới thiệu về mô hình Logistic. - Chương 4: Giới thiệu về kết quả nghiên cứu được từ phương pháp nghiên cứu định tính, đưa ra khung phân tích sử dụng cho việc nghiên cứu định lượng, định hình các biến tác động, kết quả nghiên cứu từ nghiên cứu định lượng. - Chương 5: Kết luận và kiến nghị chính sách của người nghiên cứu, dựa trên kết quả nghiên cứu đạt được. - Tài liệu tham khảo - Phụ lục.
  14. 7 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN 2.1 ĐỊNH NGHĨA VỀ KIỂM TRA SỨC KHỎE ĐỊNH KỲ Kiểm tra sức khỏe định kỳ tức là người dân ít nhất một lần trong năm đến trung tâm chăm sóc sức khỏe, để được các bác sỹ thực hiện việc kiểm tra sức khỏe cho mình. Các việc cụ thể được thực hiện như sau ( Theo quy định của thông tư số 13/2007/ TT – BYT ngày 21 tháng 11 năm 2007 của Bộ Y Tế. ): - Tiếp nhận hồ sơ và hoàn thành các thủ tục hành chính: Đối tượng khám sức khỏe có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác, trung thực các thông tin cá nhân, tình trạng sức khỏe hiện tại, tiền sử bệnh tật của bản thân và gia đình trong phần tiền sử của đối tượng khám sức khỏe. - Khám thể lực: Đo chiều cao, cân nặng, vòng ngực trung bình, chỉ số BMI, mạch, nhiệt, huyết áp và nhịp thở. - Khám lâm sàng toàn diện theo các chuyên khoa. - Khám cận lâm sàng. o Cận lâm sàng bắt buộc:  Công thức máu, đường máu.  Xét nghiệm nước tiểu: Tổng phân tích nước tiểu ( đường, protein, tế bào.)  Chụp X quang tim phổi thẳng, nghiêng. Thực hiện theo chỉ định của bác sỹ lâm sàng. o Cận lâm sàng khác: Đối tượng khám sức khỏe phải được làm thêm các xét nghiệm cận lâm sàng khác khi có chỉ định của bác sỹ lâm sàng, hoặc yêu cầu của đối tượng khám sức khỏe. - Các bác sỹ khám lâm sàng phải phân loại sức khỏe, ký và ghi rõ họ tên vào giấy chứng nhận sức khỏe, sổ khám sức khỏe định kỳ và phải chịu trách nhiệm về kết luận của mình. Người ghi các kết quả cận lâm sàng phải ký và ghi rõ họ tên vào giấy chứng nhận sức khỏe, sổ khám sức khỏe định kỳ.
  15. 8 2.2 LÝ THUYẾT VỀ KINH TẾ HỌC SỨC KHỎE ( Peter Zweifel( 2009) ) Để trả lời cho những câu hỏi thường gặp khi chúng ta buộc phải bỏ tiền ra để thực hiện một việc nào đó trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, ví dụ: chúng ta có nên thực hiện việc kiểm tra sức khỏe định kỳ hay không? Chúng ta có nên tiến hành tầm soát ung thư hay không? Chúng ta có nên tiến hành một chương trình khuyến khích người dân ăn sáng hay không? Chúng ta có nên tiến hành chương trình giám sát thị lực ở trường học không?...Để có cơ sở trả lời cho các câu hỏi trên, lý thuyết về kinh tế học sức khỏe sẽ cung cấp cho ta các công cụ trả lời dưới góc độ kinh tế, công bằng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. 2.2.1 Nguyên lý xác định giá trị kinh tế của sức khỏe. 2.2.1.1 Tầm quan trọng của việc xác định giá trị kinh tế trong lĩnh vực sức khỏe. “ Sự sống là vô giá” là một luận điểm phổ biến mà nhiều người sẽ đồng ý. Nhưng những quyết định trong vấn đề cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe không chỉ là của những cá nhân mà còn đến từ phía các nhà hoạch định chính sách. Ta có hai vấn đề cần giải quyết: Bảo vệ hay kéo dài mạng sống của một con người – Tiêu tốn những nguồn lực có hạn của xã hội. Ta có một quyết định mang tính đánh đổivà đó là một quyết định quan trọng. Cho một quyết định như vậy, ta cần những phân tích mang tính hệ thống, cân nhắc kỹ lưỡng những yếu tố liên quan. Những phân tích kinh tế theo hướng định giá, ở một mức độ nào đó, thỏa mãn những đòi hỏi trên vì ít nhất có ba lý do sau đây: - Tất cả những phương án khả thi đều phải được đề cập, thế nên phân tích đánh giá cần có tính hệ thống. Đôi khi trong lúc cân nhắc quyết định về việc đưa ra một phương án chăm sóc sức khỏe mới, người ta không nhắc đến các phương án có sẵn như một chọn lựa. Hoặc trong trường hợp các phương án phòng ngừa cũng có thể được coi như phương án tốt bên cạnh các phương án điều trị, và nên được thêm vào danh sách lựa chọn. Nên để ý rằng khi một phương án mới được đem ra so sánh với một phương án có sẵn thì bản thân phương án có sẵn nên đạt hiệu quả về mặt chi phí. Một phương án sẽ không hiệu quả nếu có một phương án khác cho kết quả tương tự nhưng với chi phí thấp hơn.
  16. 9 - Những phân tích xác định giá trị kinh tế thường dựa trên quan điểm của một nhóm người nào đó, điều này rất quan trọng. Một phương án có thể không hấp dẫn cho một bên nào đó, nhưng lại hiệu quả trong quan điểm của những bên khác. Trong thực tiễn quan điểm có thể khác nhau từ các phía: cá nhân bệnh nhân; các cơ quan, định chế; nhóm mà các dịch vụ y tế nhắm đến, ngân sách của bộ y tế, ngân sách của chính phủ và các quan điểm mang tính cộng đồng hay xã hội. - Nếu không có những sự đo lường nghiêm túc, sự không chắc chắn trong xếp hạng thứ tự quan trọng là rất lớn. Nếu không có nỗ lực trong việc đo lường và so sánh những giá trị đầu ra và đầu vào, chúng ta có rất ít cơ sở để đưa ra kết luận. 2.2.1.2 Xác định giá trị kinh tế trong lĩnh vực sức khỏe là gì? Với mọi hoạt động mà một phân tích kinh tế nhắm đến, nó có hai tính chất: - Thứ nhất nó tính đến đầu vào và đầu ra của quá trình ( hay còn gọi là chi phí và kết quả ). - Thứ hai về bản chất, những phân tích kinh tế liên quan tới lựa chọn. Nguồn lực là khan hiếm và sự thật hiển nhiên là không thể sản xuất ra một sản lượng thỏa mãn mọi mong muốn. Vì vậy, người ta phải lựa chọn và đánh đổi. Những lựa chọn được đưa ra trên nhiều tiêu chuẩn cơ sở, đôi khi rõ ràng, đôi khi không. Những phân tích kinh tế sẽ xác định và làm rõ một nhóm những tiêu chuẩn có thể giúp cho việc lựa chọn giữa các phương án. Hai tính chất trên dẫn đến việc các phân tích xác định giá trị kinh tế được định nghĩa như một phân tích so sánh những phương án khác nhau về mặt chi phí và kết quả. Vì thế nhiệm vụ cơ bản của bất cứ một phân tích xác định giá trị kinh tế nào, đều là xác định, đo lường, tính toán thành giá trị và so sánh chi phí và kết quả của các phương án được đề ra. Phân tích kinh tế trong vấn đề sức khỏe không phải là một ngoại lệ. 2.2.1.3 Tổng quan về những kỹ thuật xác định giá trị kinh tế. - Phân tích hiệu quả chi phí ( CEA ): Phân tích hiệu quả chi phí là phương pháp dùng cho việc đánh giá kết quả và chi phí của những dự án cải thiện sức khỏe. Các nghiên cứu dạng này đã được dùng để so sánh chi phí và số năm sống thêm cho
  17. 10 những phương án y tế khác nhau. Kết quả của nghiên cứu thường được tổng kết dưới dạng một chuỗi những tỉ số hiệu quả chi phí cho những nhóm bệnh nhân khác nhau hoặc các phương án khác nhau. Những phân tích dạng này đo lường sức khỏe theo thước đo “ tự nhiên” , thước đo này có thể là một thước đo y học, hoặc tuổi thọ. Thước đo này chỉ có ý nghĩa trong trường hợp những phương án khác biệt trong một tác động nào đó và không có tác dụng phụ. Đối với những phương án độc lập với nhau, chỉ số dùng để so sánh là chỉ số hiệu quả trung bình ( ACER ). Nếu hiệu quả được đo bằng số năm tuổi thọ, chỉ số so sánh này có dạng: ACER = Chi phí bằng tiền/ Kết quả tính bằng số năm tăng lên trong tuổi thọ. Nếu những phương án có tính loại trừ, ta cần xem xét tỷ lệ mức tăng lên trong chi phí đối với mức tăng lên trong lợi ích. Trong trường hợp này chúng ta dùng “ tỷ số tăng hiệu quả chi phí “ ( ICER ). “ Tỷ số tăng hiệu quả chi phí” của một phương án được định nghĩa bằng tỷ số của mức tăng trong chi phí và mức tăng trong hiệu quả khi so sánh với phương án hiệu quả tiếp theo. ICER = Chi phí tăng lên/ Kết quả tăng lên. - Phân tích chi phí thỏa dụng Đo lường mức thỏa dụng: Một vài khái niệm về mức thỏa dụng đã được phát triển để gộp những tác động đa chiều của một phương án lại thành một tác động một chiều. Trong số chúng, những thước đo sau đây là phổ biến nhất. Tuổi thọ giảm đi điều chỉnh theo mức độ khuyết tật ( DALY ): Khái niệm này được phát triển từ năm 1993 trong báo cáo phát triển Thế giới của World Bank. DALY đo lường mức giảm xuống của tuổi thọ có tính đến mức giảm của sức khỏe so với một mức chuẩn về tuổi thọ kỳ vọng là 80 năm cho nam giới và 82,5 năm cho nữ giới. Trọng số bệnh tật được xác định bởi những chuyên gia và được dùng để đánh giá những tình trạng sức khỏe thấp hơn mức hoàn toàn khỏe mạnh. Bên cạnh đó, trọng số này áp dụng cho những tuổi đời khác nhau. Trọng số lớn nhất được gắn cho việc mất đi một năm tuổi thọ ở mức sức khỏe của độ tuổi 25. Mức thỏa dụng từ
  18. 11 một phương án y tế được đo bằng số DALY tổn thất tránh được. DALY được sử dụng bởi nhiều tổ chức ( như WHO ) để so sánh sức khỏe người dân ở nhiều nước trên thế giới. Tuổi thọ tăng thêm điều chỉnh theo chất lượng sống ( QALY ): Khái niện về QALY dựa trên nghiên cứu của Klarman và cộng sự ( 1968 ), những người đầu tiên đề cập cả số năm tăng lên trong tuổi thọ và sự thay đổi trong chất lượng sống đo bằng một chỉ số. Cũng như DALY, mỗi trạng thái sức khỏe được gắn với một trọng số bệnh tật. Tuy vậy, những người trong số này thường được xác định bằng cách điều tra những người liên quan tới phương án sức khỏe. Số QALY của mỗi người được tính bằng cách nhân mức tuổi thọ kỳ vọng của mỗi trạng thái sức khỏe với chỉ số đau bệnh ( hay khỏe mạnh ) của chúng rồi cộng lại . Mức thỏa dụng của một phương án được đo bằng số QALY tăng lên. Số năm khỏe mạnh tương đương ( HYE ): Khái niêm này bắt nguồn từ nghiên cứu của Mehrez và Gafni ( 1989 ), dựa vào hồ sơ diễn tiến sức khỏe. Những cá nhân được hỏi về mức mà họ đánh giá tình trạng sức khỏe có thể đạt được với một phương án. Cụ thể, họ được hỏi về số năm khỏe mạnh tương đương mà họ cho là ngang bằng với hồ sơ diễn tiến sức khỏe được hỏi. Trong khái niệm của DALY, chất lượng sống được đánh giá bởi các chuyên gia, trong khi đối với trường hợp hai thước đo còn lại, sự đánh giá được tiến hành bởi những bệnh nhân thực sự hay bệnh nhân tiềm năng. Hướng tiếp cận sau là đúng đắn hơn vì những người bị tác động ( hoặc có tiềm năng bị tác động ) có khả năng đánh giá tốt hơn về sức khỏe của chính họ, hơn nữa, họ chính là những người chi trả cho các chi tiêu sức khỏe công cộng. Ngược lại những chuyên gia chỉ có khả năng hơn ở mặt kỹ thuật y tế. Vậy nên khái niệm DALY dường như khó có thể thỏa mãn như một nền tảng cho việc ra quyết định. Vì thế nó được sử dụng cho những so sánh ở tầm đa quốc gia. Trong các khái niệm DALY và QALY, thứ tự mà các trạng thái khác nhau diễn ra không quan trọng. Ngược lại, Khái nệm HYE đánh giá hồ sơ của toàn bộ diễn tiến trạng thái sức khỏe tạo ra từ một phương án y tế. Vì thế HYE về bản chất
  19. 12 sẽ được ưa dùng hơn, nhưng trong mọi tình huống nó được coi là tốn kém hơn, vì toàn bộ hồ sơ diễn tiến sức khỏe cần một sự mô tả rất dài. Khái niệm QALY rất đơn giản để áp dụng. Một khi trọng số thỏa dụng được xác định, việc đánh giá một phương án là rất dễ dàng. Tuy nhiên, vì QALY được dùng để hổ trợ việc ra quyết định phân phối nguồn lực trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, các quyết định này cần có cơ sở lý thuyết đúng đắn. Chúng ta sẽ phân tích QALY trong lý thuyết “ mức thỏa dụng kỳ vọng”, lý thuyết phổ biến nhất cho việc ra quyết định trong điều kiện không chắc chắn. Dù thỏa dụng kỳ vọng không phải là một lý thuyết hoàn hảo về hành vi với điều kiện không chắc chắn, nó có thể đóng vai trò một hướng dẫn chuẩn cho việc ra quyết định một cách lý trí, nếu người ta đồng ý rằng lựa chọn được đưa ra thỏa mãn những tiền đề cơ sở của lý thuyết này. Chúng ta bắt đầu với một dạng đơn giản của các mô hình QALY, trong đó không có việc chiết khấu và không có tính “ e ngại rủi ro” theo tuổi thọ ( hay còn gọi là bàng quan với rủi ro theo tuổi thọ ). Để đơn giản, coi tất cả các tình trạng sức khỏe ( vector Hh với h = 1,2,….m ) là thường xuyên ( tình trạng sức khỏe là không đổi – giả định này chỉ được dùng để tiện cho việc biến đổi và không phải là một tính chất của một mô hình QALY ). Sự kết hợp ( Hh , Tt ) xảy ra với xác suất πh . Lúc đó một cá nhân phải đối diện với một sự may rủi về những tình trạng sức khỏe thường xuyên ( πh , Hh , Th ) với h = 1,…,m. Giả định rằng sự ưa thích thỏa mãn các tiền đề Neumann – Morgenstern. Nếu mức thỏa dụng của việc sống Th nằm trong tình trạng thường xuyên Hh ký hiệu là u ( Hh, Th ), sự ưa thích của cá nhân được thể hiện bằng mức thỏa dụng kỳ vọng: EU = Σmh=1πhu( Hh , Th ) (1) Để chuyển mức thỏa dụng kỳ vọng thành số QALY, hàm thỏa dụng phải có dạng: u ( Hh , Th ) = v(Hh)Th (2) Với hai phương trình trên ta có EU = QALY = Σmh=1πhThv( Hh ) (3)
  20. 13 Nghĩa là mức thỏa dụng kỳ vọng bằng tổng thỏa dụng của những trạng thái sức khỏe được đánh tỷ trọng bằng độ dài thời gian và xác suất xảy ra của chúng. Vì trong lý thuyết mức thỏa dụng kỳ vọng , hàm thỏa dụng v() là một hàm số lượng và được xác định theo dạng positive affine transformation ( ví dụ: một dạng hàm tăng bậc nhất đơn điệu: v(x) = ax + b với a>0 ), v() có thể được chọn mà không làm mất đi tính tổng quát theo cách để mức thỏa dụng của tình trạng sức khỏe hoàn hảo v(H*) là 1 và mức thỏa dụng của tình trạng chết là 0. Từ đó, mức thỏa dụng kỳ vọng của một cá nhân có thể được giải thích bằng số năm tuổi thọ điều chỉnh theo chất lượng sống. Theo quan điểm lý thuyết ra quyết định, tính đơn giản của việc tính toán QALY là dựa trên dạng của hàm thỏa dụng như trong phương trình (2). Dạng hàm này đòi hỏi sự ưa thích đối với các trạng thái sức khỏe là ổn định trong suốt tuổi thọ (v(Hh) không phụ thuộc vào tuổi của một cá nhân ). Hơn nữa, hàm thỏa dụng u(Hh, Th) cần thỏa mãn những giả định căn bản. Đầu tiên, phương trình trên ngầm định rằng các cá nhân bàng quan với rủi ro theo thời gian ( đối với một trang thái nhất định, họ bàng quan giữa một quãng đời với những sự chắc chắn và một quãng đời với những sự rủi ro ). Nhưng sự bàng quan với rủi ro về thời gian cũng không hoàn toàn tạo nên dạng của hàm thỏa dụng trong phương trình trên. Nói chung , nó chỉ ngụ ý rằng khi vắng đi sự chiết khấu, hàm thỏa dụng có dạng sau u ( H, T ) = g(H) + v(H)T với v(H) > 0 (4) và phương trình như đã nói trên cần thêm điều kiện g(H) = 0 cho mọi tình trạng sức khỏe H. Một giải pháp đặt ra là “ điều kiện không” , tất cả trạng thái sức khỏe với độ dài thời gian bằng không là bằng nhau ( theo nghiên cứu của Bleichrodt và cộng sự ( 1997 ), Miyamoto và Eaker ( 1988) ) Với mọi H , u ( H, 0 ) = const (5) Nghiên cứu của Miyamoto và cộng sự (1998 ) lập luận rằng “ điều kiện không” này hoàn toàn được chứng minh. Hệ quả từ “điều kiên không” là g(H) phải
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2