intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển làng nghề truyền thống ở Hà Tây trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:96

29
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ vai trò, thực trạng, tiềm năng, xu hướng phát triển làng nghề truyền thống để đề xuất giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy sự phát triển làng nghề truyền thống ở Hà Tây trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển làng nghề truyền thống ở Hà Tây trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ BẠCH THỊ LAN ANH PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở HÀ TÂY TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Đình Khang HÀ NỘI - 2004
  2. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đảng ta nhấn mạnh, CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là vấn đề quan trọng hàng đầu, bởi vì nông thôn Việt Nam chiếm hơn 70% lao động và gần 80% dân số. Một trong những nội dung quan trọng của CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là phát triển các làng nghề nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập ở nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo, góp phần thực hiện chiến lược kinh tế hướng ngoại với sản phẩm mũi nhọn của chúng ta là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, chế biến nông sản và cũng là thực hiện mục tiêu ly nông bất ly hương ở nông thôn. Dân tộc Việt Nam có truyền thống lịch sử hơn 4000 năm, Người Việt cổ đã lấy nghề nông làm cơ sở cho sự tồn tại của mình. Nhưng với điều kiện tự nhiên phong phú đa dạng đã sản sinh biết bao làng nghề thủ công bên cạnh xóm làng nông nghiệp. Các làng nghề truyền thống (như làng gốm Bát Tràng, làng lụa Vạn Phúc) không chỉ mang ý nghĩa về kinh tế mà còn là di sản văn hoá dân tộc. Vì vậy, phát triển làng nghề truyền thống cũng là giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong qua trình hội nhập kinh tế quốc tế. Như vậy phát triển làng nghề truyền thống là vấn đề mang tầm quan trọng cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trong sự nghiệp phát triển đất nước theo đinh hướng XHCN. Hà Tây là một tỉnh nằm ở cửa ngõ Thủ đô Hà Nội có mật độ dân số lao động nông nghiệp cao; bình quân ruộng đất đầu người thấp, có truyền thống văn hoá lâu đời, nhân dân cần cù sáng tạo. Là nơi hội tụ nhiều tiềm năng đáng kể về tự nhiên, xã hội, là “đất trăm nghề”. Hiện nay, Hà Tây có 160 làng nghề 2
  3. với hàng vạn lao động lành nghề và các nghệ nhân, sản xuất nhiều mặt hàng thủ công cho tiêu dùng - xuất khẩu. Với đặc thù một tỉnh cửa ngõ Thủ đô thuận tiện giao thông, làng nghề thủ công truyền thống sẽ là điểm du lịch hấp dẫn du khách muốn tìm hiểu đất nước Việt Nam. Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở Hà Tây phải phát triển làng nghề truyền thống là một trong những nội dung quan trọng nhất cả về lý luận và thực tiễn trong những năm tới. Vì vậy, vấn đề phát triển làng nghề truyền thống ở Hà Tây trong quá trình CNH, HĐH nông thôn được tôi chọn là đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Do có vai trò quan trọng cả về kinh tế, văn hoá, xã hội nên phát triển làng nghề truyền thống được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu trên nhiều phương diện và đã đạt được nhiều kết quả nhất định. Đó là: - Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình CNH của Tiến sỹ Dương Bá Phượng. - Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH, HĐH ở vùng ven Thủ đô Hà Nội của tiến sỹ Mai Thế Hởn. - Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống ở Việt Nam của Thạc sỹ Vũ Thị Thu. - Về các giải pháp phát triển thủ công nghiệp theo hướng CNH, HĐH ở vùng đồng bằng Sông Hồng (Đề tài cấp Bộ của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; chủ nhiệm đề tài PGS. TS. Đặng Lễ Nghi). Các công trình nghiên cứu về làng nghề trên đă ra chủ trương phát triển làng nghề nói chung mà chưa có giải pháp cụ thể ở từng địa phương. 3
  4. Đề tài của tôi tập trung nghiên cứu vấn đề phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn và đề xuất giải pháp phát triển cụ thể trong điều kiện hiện nay ở một số làng nghề truyền thống ở Hà Tây. 3. Mục đích và nhiệm vụ 3.1. Mục đích Mục đích làm rõ vai trò, thực trạng, tiềm năng, xu hướng phát triển làng nghề truyền thống để đề xuất giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy sự phát triển làng nghề truyền thống ở Hà Tây trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. 3.2. Nhiệm vụ - Hệ thống hoá lý luận cơ bản về làng nghề truyền thống. - Tham khảo kinh nghiệm một số nước trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm. - Từ thực trạng làng nghề truyền thống ở Hà Tây đề xuất giải pháp cụ thể nhằm phát triển làng nghề truyền thống ở Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận - Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. - Nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam. - Phương hướng phát triển Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Tỉnh Hà Tây. 4.2. Phương pháp Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logic lịch sử, thống kê; 4
  5. đồng thời điều tra thực tế và tập hợp nghiên cứu, kế thừa các kết quả của các công trình đã nghiên cứu. 5. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu làng nghề truyền thống ở Hà Tây hiện nay để đưa ra giải pháp phát triển cụ thể. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Lý luận: hệ thống hoá về mặt lý luận sự ra đời, tồn tại, phát triển làng nghề truyền thống, xác định vai trò làng truyền thống trong quá trình CNH, HĐH. - Thực tiễn: các giải pháp đề xuất sẽ làm cơ sở để tỉnh Hà Tây và các làng nghề đưa ra chính sách phát triển kinh tế xã hội. 7. Kết cấu của luận văn Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài có 3 chương, 6 tiết. 5
  6. Chƣơng 1 LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG VÀ VAI TRÒ CỦA LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN 1.1. Vai trò của làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn 1.1.1. Các khái niệm 1.1.1.1. Khái niệm về nghề truyền thống Làng nghề truyền thống là một hiện tượng kinh tế văn hoá đặc sắc ở Việt Nam. Để tìm hiểu về nó trước tiên ta tìm hiểu “Truyền thống”. Truyền thống là thuặt ngữ dùng để chỉ các giá trị, yếu tố, quan niệm của một cộng đồng người hay của xã hội lưu giữ trong một thời gian dài từ thế hệ này qua thệ hệ khác. Truyền thống biểu hiện tính kế thừa là chủ yếu tuy nhiên cũng có sự phát triển theo lịch sử. Truyền thống được biểu hiện ở hình thức : truyền thống học tập, lễ hội truyền thống, truyền thống dòng họ, nghề truyền thống. Nghề truyền thống là nghề được lưu truyền từ đời này qua đời khác (truyền nghề), lưu giữ kỹ thuật sản xuất (bí quyết nghề nghiệp), đúc kết kinh nghiệm. Nghề trong chữ nghề truyền thống được hiểu là các nghề phi nông nghiệp. Nghề truyền thống thường được lưu giữ trong một gia đình, một dòng họ, một làng, một vùng cho nên mới nói đất có nghệ. Theo tiến sĩ Dương Bá Phượng, nghề thủ công truyền thống là những nghề phi nông nghiệp ra đời trước thời Pháp thuộc và còn tồn tại đến nay. Các ngành nghề thủ công truyền thống ở nước ta được phân chia thành năm nhóm sau (cách chia này chỉ là tương đối). 6
  7. 1) Mặt hàng thủ công mỹ nghệ như: sơn mài, khảm trai… 2) Mặt hàng công cụ sản xuất như: sản xuất liềm, hái. 3) Mặt hàng phục vụ tiêu dùng thông thường như: dao, kéo. 4) Mặt hàng phục vụ cho sản xuất và đời sống như: nề, mộc, sản xuất vật liệu xây dựng. 5) Mặt hàng được chế biến từ lương thực phẩm như: bánh cuốn, rượu. Khi nói tới nghề truyền thống phải nói tới phường nghề, hội nghề. Đó là những thợ thủ công cùng nghề nhóm họp lạI thành một tổ chức có luật lệ riêng. Ví dụ: Thăng Long trước kia có 36 phố phường, trong đó có nhiều phường nghề (Hàng Bạc, Hàng Khay…). Còn tổ nghề là những người có đức, có công dạy nghề, hay phát minh ra nghề. Tổ nghề thì không nhất thiết phải là người ở điạ phương đó. Một số làng tổ nghề được suy tôn là thành hoàng làng hoặc được lập miếu thờ. Như vậy, nghề truyền thống là những nghề phi nông nghiệp tồn tại trong một thời gian dài (trước Cách mạng Tháng tám) và thường gắn với một địa phương nhất định. Ví dụ như rượu làng Vân. 1.1.1.2. Khái niệm làng nghề truyền thống Thôn, làng là một thuật ngữ dùng để chỉ một đơn vị hành chính ở nông thôn bao hàm là một tập hợp cộng đồng dân cư trên một lănh thổ xác định, có khả năng độc lập về kinh tế. Trong điều kiện chống ngoại xâm thiên tai thì họ là một cộng đồng thống nhất. Họ còn là một cộng đồng văn hoá gắn liền biểu tượng cây đa, giếng nước, mái đình, nhà thờ. Xét về kết cấu kinh tế - xã hội thì nông thôn Việt Nam đă hình thành các loại làng: - Làng thuần nông, lâm, ngư nghiệp. - Làng nông nghiệp có nghề phụ. 7
  8. - Làng dịch vụ (làng Triều Khúc). - Làng nông - công thương kết hợp (phổ biến nhất). Nếu coi nông nghiệp là chính còn nghề để chỉ tất cả các nghề phụ ở nông thôn để phục vụ sinh hoạt tận dụng thời gian thì tất cả nông thôn Việt Nam đều là làng nghề. Hiện nay, người ta quan niệm làng nghề dùng để chỉ những làng mà trong đó có một nghề phát triển mạnh có ảnh hưởng quan trọng đến đời sống kinh tế - xã hội của làng, tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho một số lượng lao động nhất định và kỹ thuật nghề đó đạt đến trình độ tương đối. Khi nói tới làng nghề người ta còn nói tới xã nghề, phố nghề. Phố nghề là kết quả của quá trình đô thị hoá và mở rộng thị trường mới những người thợ thủ công từ LNTT tụ họp lại. Còn xă nghề để chỉ sự lan toả của nghề vượt khỏi phạm vi từ làng này sang làng khác. Bảng 1. Tình hình phát triển làng nghề ở đồng bằng Sông Hồng từ 1997 - 2000 Năm 1997 1998 1999 2000 Số làng nghề hiện có 526 565 576 581 Số LNTT hiện có 316 334 336 337 Số LNTT được 52 54 53 54 HĐH Nguồn: điều tra đề tài 02.08/KHXH của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. Đến năm 2002, ở đồng bằng Sông Hồng có hơn 700 làng nghề được công nhận. Ở các địa phương khi xét công nhận danh hiệu làng nghề thì đều dựa trên các tiêu chí sau: - Tỷ lệ hộ, lao động làm nghề từ 40% trở lên. 8
  9. - Giá trị sản xuất từ nghề đó chiếm khoảng 50% tổng giá trị sản xuất của địa phương. - Thu nhập từ nghề đó chiếm khoảng 50% tổng thu nhập của các hộ. - Đó có thể là nghề tiểu thủ công nghiệp hoặc dịch vụ. Làng nghề có thể là làng nghề mới (đặc biệt phát triển mạnh trong thờ i kỳ đổi mới) ví dụ như làng may Cổ Nhuế - Hà Nội. Làng nghề có thể là LNTT. Có những làng tồn tại hàng trăm năm. Từ tất cả các quan niệm trên có thể rút ra LNTT là những làng mà trong đó có những nghề đặc trưng cho địa phương được lưu giữ trong một thời gian dài và tỷ lệ số hộ, lao động sống bằng nghề đó từ 40% trở lên và tạo ra 50% giá trị sản xuất của địa phương và thu nhập của các hộ sản xuất. Miền bắc là nơi tập trung nhiều LNTT nhất chiếm 79% cả nước, trong đó tập trung nhiều nhất tại Hà Tây, Thanh Hóa, Bắc Ninh [54]. Hiện nay, cả nước có hơn 1450 làng nghề trong đó có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế: doanh nghiệp nhà nước chiếm 14,1%, hợp tác xã chiếm khoảng 5,8%, doanh nghiệp tư nhân 80,1% [66]. 1.1.1.3. Một số đặc điểm cơ bản của sản xuất kinh doanh ở LNTT * Điều kiện sản xuất kinh doanh Nghề thủ công truyền thống từ nông nghiệp mà ra. Gắn liền sự phân công lao động ở nông thôn. Nên có thể nói NTCTT gắn bó chặt chẽ với nông thôn. Đặc điểm này phản ánh xuyên suốt quá trình phát triển LNTT. Đầu tiên thợ thủ công là những người nông dân tranh thủ lúc nông nhàn. Nên địa điểm sản xuất của NTCTT là tại gia đình họ. Gia đình vừa là nơi ở vừa là nơi sản xuất. Họ tự quản lý công việc, thời gian lao động mọi lúc có thể, không phải đầu tư kho xưởng. Sản xuất tại gia đình nên phù hợp hình thức tổ chức là hộ 9
  10. kinh tế gia đình. Chủ yếu vốn của các gia đình là vốn tự có, hoặc vay mượn người thân. Chính vì vậy, ở LNTT chủ yếu qui mô sản xuất nhỏ. Kỹ thuật sản xuất trong LNTT chủ yếu bằng phương pháp thủ công, công nghệ cổ truyền,có một số công đoạn sử dụng cơ khí. Kỹ thuật đặc biệt nhất của LNTT là đôi bàn tay vàng của người thợ được tích luỹ qua nhiều thế hệ, giữ được tính chất bí truyền của nghề. * Sản phẩm Sản phẩm của LNTT nhằm để phục vụ đời sống sinh hoạt. Nó là các vật dụng hàng ngày, có thể là những sản phẩm vừa có giá trị sử dụng vừa có giá trị thẩm mỹ hoặc có thể dùng để trang trí ở nhà, công sở, nơi tôn nghiêm như đình chùa. Sản phẩm công nghiệp nếu như không ghi mác nhãn thì nó sẽ xoá nhoà gốc tích. Ngược lại, với sản phẩm NTCTT nhìn vào nét hoa văn độ tinh xảo của sản phẩm là có thể biết xuất xứ sản phẩm. Thậm chí trong LNTT thì người ta có thể đánh giá gia đình nào có thể làm ra sản phẩm này. Như vậy sản phẩm của NTCTT mang tính chủ quan sáng tạo hoàn toàn phụ thuộc bàn tay người thợ. Từ ốc trai, vỏ trứng có thể biến hoá thành những bức tranh tuyệt vời. Dưới những bàn tay tài hoa các sản phẩm NTCTT bộc lộ những nét tinh xảo điêu luyện, đạt tới đỉnh cao nghệ thuật trang trí. Và cũng vì thế ở các LNTT sản phẩm chia loại chất lượng phụ thuộc trình độ người thợ, phụ thuộc thị hiếu, mức tiền người tiêu dùng. * Thị trường Cũng như hàng hoá khác, sản phẩm của LNTT sẽ không tồn tại nếu không có thị trường. Về các yếu tố đầu vào thì chủ yếu là nguyên vật liệu trong nước, đây chính là lợi thế của LNTT, nguồn nguyên liệu do địa phương hoặc các tỉnh lân 10
  11. cận cung cấp. Nguồn nguyên liệu phụ thuộc thời vụ do tư thương cung cấp nên giá cả lên xuống theo mùa. Một điều rất đặc biệt một số NTCTT sử dụng nguyên liệu tận dụng như xơ dừa nhưng mang lại hiệu quả rất lớn. Về các yếu tố đầu ra - tiêu thụ sản phẩm. Thị trường đầu tiên của LNTT chính là chợ làng nhằm phục vụ địa phương và các vùng lân cận. Một số sản phẩm nổi tiếng của Việt Nam như đồ gốm, lụa tơ tằm thì đã được bán ra nước ngoài cách đây vài trăm năm. Phương thức thanh toán trên thị trường chủ yếu là trao tay trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng. * Lao động Như trên đã nói, hình thức sản xuất của LNTT chủ yếu là hộ gia đình nên nguồn lao động đầu tiên chính là các thành viên gia đình. Tuỳ theo công đoạn mà có sự tham gia của mọi độ tuổi, nhưng bao giờ cũng có một người là trụ cột chính về kỹ thuật. Vì là thành viên gia đình nên dạy nghề duới hình thức kèm cặp trực tiếp. Để trở thành người thợ thủ công bình thường không khó nhưng để trở thành thợ giỏi phải có thợ cả (nghệ nhân truyền nghề) và phụ thuộc năng khiếu người học việc. Trong điều kiện hiện nay người thợ cả - thợ giỏi của nghề đó, là những người tích luỹ được nhiều kinh nghiệm đươc coi là chất xám trong các làng nghề, là bộ phận quan trọng trong việc truyền nghề cho thế hệ trẻ. Một nhược điểm của các LNTT là lực lượng lao động không có lý thuyết về nghề nghiệp mà chỉ có kinh nghiệm nên khó chủ động, linh hoạt trên thương trường. 1.1.2. Vai trò của làng nghề truyền thống trong đời sống kinh tế - xã hội 1.1.2.1. Phát triển làng nghề truyền thống là góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc 11
  12. Do lao động tại gia đình và thời gian mọi lúc nên các gia đình thợ thủ công quản lý con em chặt chẽ. Mọi độ tuổi đều có cơ hội kiếm việc làm, cho nên có thể nói ở các LNTT tệ nạn xã hội ít hơn so các làng khác, thu nhập ổn định hơn. Ở các LNTT phát triển, hệ thống các trường học cấp cơ sở được quan tâm, đường làng phong quang sạch sẽ, hình thành lên mô hình mới ở nông thôn với đời sống văn hoá phong phú, ổn định trật tự xã hội. Làng Đồng Kỵ - Bắc Ninh có hơn 70% hộ có nhà tầng, trên 60% hộ có xe máy, gần 40% hộ có điện thoại, 100% đường làng được bê tông hoá [72]. Đường nét trên sản phẩm của NTCTT là những tác phẩm nghệ thuật kết hợp phong cách hiện đại. Với các hoa văn tinh vi sống động. Phản ánh cuộc sống hàng ngày, thể hiện cảnh quan các công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao như Chùa Một Cột, các lễ hội đặc sắc của văn hoá dân gian in đậm dấu ấn của nơi sản xuất ra nó. Vì vậy, nó chính là sự phản ánh văn hoá vùng,văn hoá dân tộc. Chính vì thế, người ta chọn hình tượng người phụ nữ với nụ cười rạng rỡ dưới vành nón nghiêng là điểm đến của du lịch Việt Nam. Ở một số LNTT ngày hội làng chính là ngày giỗ tổ nghề, trong đó lòng tôn kính nghề nghiệp đã trở thành sinh hoạt vãn hoá cộng đồng. Như vậy, bản sắc dân tộc được thể hiện qua các sản phẩm, nó thể hiện giá trị thẩm mỹ trước sau đó mới đến giá trị kinh tế, kỹ thuật. Có thể nói LNTT là kho báu văn hoá dân tộc, lưu giữ truyền thống một cách cụ thể bền vững nhất hấp dẫn du khách nước ngoài. Làng gốm Bát Tràng hàng năm có trên nghìn lượt khách vào tham quan, tìm hiểu lịch sử nghề gốm Việt Nam, mua hàng lưu niệm và ký hợp đồng thương mại. 1.1.2.2. Vai trò của làng nghề truyền thống trong nền kinh tế * Tận dụng nhân lực tăng thu nhập 12
  13. Tạo việc làm là vấn đề cấp thiết hiện nay. LNTT được phát triển đóng vai trò quan trọng thu hút việc làm, tận dụng lao động tránh tình trạng phát triển chợ lao động tự phát lúc trái vụ, di dân tự do. Hiện nay, các LNTT ở Việt Nam thu hút khoảng 30% lao động nông thôn, khoảng 11 triệu người và hơn 1,3 triệu hộ sản xuất. NTCTT phát triển kéo theo các ngành dịch vụ, càng thu hút lao động không chỉ ở địa phương mà còn ở nơi khác. Làng gốm Bát Tràng hàng ngày thu nhận khoảng 4.000 người đến làm thuê [79]. Thu nhập của lao động trong các LNTT theo điều tra cao gấp khoảng 1,8-4,5 lần hộ thuần nông. Thu nhập từ nghề thủ công chiếm 70% tổng thu nhập. Đặc biệt với thợ kỹ thuật cao (thợ mỹ nghệ) thì tiền công khoảng trên 50.000đồng/ngày [20]. Nhờ có việc làm, thu nhập ổn định và cao nên mức sinh hoạt của người dân được nâng cao, đẩy nhanh quá trình đô thị hoá nông thôn. Ở làng Bát Tràng 100% hộ gia đình là mái ngói, mái bằng, trong đó có hơn 50% hộ nhà hai tầng. Hộ sản xuát thủ công năng động trở thành biểu tượng sự giàu có ở nông thôn hiện nay. Ở các LNTT không có hộ đói, hộ nghèo chiếm tỉ lệ rất nhỏ, tỉ lệ hộ giàu khoảng 30 - 40%. NTCTT có vai trò quan trọng trong việc xoá đói giảm nghèo [62]. Thu nhập nâng cao, tất yếu ở các LNTT có sự gia tăng giá trị sản phẩm, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình ở khu vực làng nghề luôn đạt hơn 9% năm. Năm 1998, giá trị sản xuất làng nghề đạt 210 tỷ đồng, chiếm 75% tổng giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh ở tỉnh Bắc Ninh. Hợp tác xã Hồng Mai (làng Đồng Kỵ) mới thành lập năm 1994 mà đạt doanh thu trên một tỷ đồng/năm. Năm 2002, tại xã Bát Tràng doanh thu đạt 95 tỷ đồng, thu thuế ngoài quốc doanh đạt 1 tỷ 841 tỷ đồng [39]. * Gia tăng giá trị hàng xuất khẩu 13
  14. Nội địa là thị trường đầu tiên của LNTT, nhưng ra thị trường thế giới thì sản phẩm của NTCTT được xếp vào nhóm hàng có khả năng cạnh tranh cao bởi vì tính độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc, là sự kết hợp hoàn mỹ giữa kỹ thuật và thẩm mỹ, không thể sản xuất hàng loạt bằng máy móc được. Di sản quí báu mà cha ông ta để lại là các NTCTT mà đặc biệt là nghề thủ công mỹ nghệ. Từ thế kỷ XI, hàng thủ công mỹ nghệ đã được xuất khẩu ra nước ngoài. Năm 1979, hàng thủ công mỹ nghệ chiếm 53,4 % tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Sau năm 1991, hàng thủ công mỹ nghệ gần như mất hoàn toàn thị trường. Cùng với sự đổi mới của đất nước, nhờ vào tìm kiếm thị trường, hiện nay hàng thủ công mỹ nghệ được xếp vào 8/10 mặt hàng xuất khẩu tăng trưởng cao nhất. Năm 2000 có hơn 40,6% sản phẩm thủ công dành cho xuất khẩu với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 235 triệu USD, năm 2002 ước đạt 331 tỷ đồng (niên giám thống kê năm 2000 và năm 2002) có thị trường ở gần 100 nước, vùng lãnh thổ. Làng Đồng Sâm (Thái Bình) với trên 200 mặt hàng chạm bạc trong đó chủ yếu xuất khẩu sang các nước: Canađa, Hoa Kỳ, Hàn Quốc… [64]. Các số liệu sau đây nói rõ tiềm năng hàng thủ công mỹ nghệ. Bảng 2: Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu từ 1998 - 2001 (đơn vị tính: triệu USD) Mặt hàng Năm 1998 1999 2000 2001 Mây tre đan 36,8 53,8 78,6 93,9 Mỹ nghệ 31,1 51,1 36,2 34 Thêu ren 35,3 32,6 50,5 54,7 Gốm sứ 55,1 83,1 108,4 117,1 Nguồn: + Niên giám thống kê năm 2000, NXB Thống kê, Hà Nội 2001 14
  15. + Niên giám thống kê năm 2002, NXB thống kê, Hà Nội 2003 * Góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lao động xã hội. LNTT phát triển kèm theo nó là sự phát triển các dịch vụ đầu vào nguyên liệu và đặc biệt quan trọng là đầu ra tiêu thụ. Vì thế, tất yếu cơ cấu GDP ở nông thôn có sự biến đổi tích cực: tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ tăng, tỷ trọng nông nghiệp giảm. Năm 1990, tỷ trọng công nghiệp chỉ chiếm 9,8% ở nông thôn, năm 2001 tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ đạt 38%, nông nghiệp đạt 62%. Tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm 80% năm 1994, xuống còn 70% năm 2001, lao động phi nông nghiệp tăng từ 20% lên 30% năm 2001 [3]. LNTT phá thế thuần nông nghiệp, chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các ngành dịch vụ, công nghiệp nông thôn. Và tác động kép của nó là các hộ làm nông nghiệp ở nông thôn có điều kiện mở rộng qui mô sản xuất, hình thành kinh tế trang trại do ruộng đất được tích tụ vào một số hộ, ở các LNTT thực tế xuất hiện mô hình tổng hợp NTCTT - nghề nông - dịch vụ - chăn nuôi. Sự phân công lao động mới cùng với sự mở mang cơ sở hạ tầng đã hình thành sự đô thị hoá nông thôn,cụm công thương nghiệp, phát triển kinh tế hàng hoá, mở ra hướng du lịch làng nghề. Làng Bát Tràng đã hình thành cơ cấu kinh tế thủ công nghiệp - thương mại - dịch vụ - du lịch. Như vậy, phát triển LNTT đã góp phần hình thành cơ cấu kinh tế, phân công lao động theo hướng CNH, HĐH. 1.1.3. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn với phát triển làng nghề truyền thống 1.1.3.1. Mối quan hệ giữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa với làng nghề truyền thống Do sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn tới sự phân công lao động lần thứ hai, NTCTT tách ra khỏi nông nghiệp. NTCTT phát triển dẫn tới 15
  16. sự xuất hiện công trường thủ công. Các-Mác đã chỉ rõ “Thoạt đầu công trường thủ công đóng xe ngựa xuất hiện như là một sự kết hợp nhiều nghề thủ công độc lập… nhưng công trường thủ công cũng có thể phát sinh một cách hoàn toàn ngược lại. Nhiều người thợ thủ công cùng làm một việc như nhau hay một loạt công việc giống nhau được một nhà tư bản tập hợp lại cùng một lúc trong cùng một xưởng…” [40, tr.428]. Như vậy, NTCTT là sự mở đầu hình thành công nghiệp nông thôn. Còn “CNH, HĐH ở nước ta là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xă hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biên sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại toạ ra năng suất lao động xã hội cao” [21, tr.511]. Thực chất quá trình CNH, HĐH là tạo ra các yếu tố cơ bản của lực lượng sẩn xuất cho CNXH. Bộ phận quan trọng nhất của lực lượng sản xuất là con người. Về mối quan hệ giữa người nông dân và người thợ thủ công thì Lênin đã nói rất rõ “so với những người tiểu sản xuất hàng hoá, thì người làm nghề thủ công gắn bó với ruộng đất mạnh hơn” [35, tr.412]. Như vậy, LNTT chính là khởi đầu công nghiệp nông thôn, là một bộ phận công nghiệp và là một đối tượng của quá trình CNH, HĐH nói chung và CNH, HĐH nông thôn nói riêng. 1.1.3.2. Vai trò của làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Đại hội Đảng lần thứ tám đã đặc biệt coi trọng nhiệm vụ số một là CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, bởi vì xuất phát điểm đi lên CNXH ở nước ta từ một nước nông nghiệp. CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn phải bao gồm trong đó nhiệm vụ cơ bản: Phát triển các ngành nghề, LNTT và các ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp. 16
  17. Tiếp tục phát triển tinh thần trên, nghị quyết Đại hội Đảng IX đã chỉ rõ hơn để đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn phải: “...Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ, các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn...” [18, tr.39]. Nghị quyết Đại hội Đảng IX còn đặt ra vấn đề phát huy nội lực đất nước trong quá trình xây dựng đất nước. LNTT chính là nguồn lực còn bỏ ngỏ trong nước. Do có tính độc đáo, nên sản phẩm của NTCTT được xếp vào nhóm hàng có năng lực cạnh tranh, là lợi thế của một nước nông nghiệp. Số liệu sau đây đã chứng minh lợi thế hơn hẳn của NTCTT. Bảng 3: so sánh giá trị thực thu của một số mặt hàng xuất khẩu Mặt hàng Nguyên phụ liệu nhập khẩu Giá trị thực thu Giày dép, dệt may Gần 80% 20% Điện tử, máy móc Hơn 90% 10% Thủ công mỹ nghệ Khoảng 3-5% 95% Nguồn: Chương trình chúng tôi và các bạn trên intenet - VTV2 đài truyền hình Việt Nam. Phát sóng 19h ngày 22/02/2003. Phát lại 15h ngày 23/02/2003. Như vậy với 235 triệu USD xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm 2000 tương đương với 1140 triệu USD hàng dệt may, xấp xỉ 10% tổng kim ngạch xuất khẩu. Mặt khác vốn đầu tư cho hàng điện tử, dệt may lớn hơn rất nhiều lần so với đầu tư vào các ngành nghề truyền thống. 17
  18. Như vậy, phát triển LNTT chính là phát huy lợi thế so sánh, phát huy nội lực đất nước trong quá trình CNH, HĐH. Đảng ta xác định phát triển LNTT là một trong những nội dung của CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Phát triển LNTT là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn theo hướng bố trí lại lực lượng lao động phù hợp quá trình CNH, HĐH, hình thành cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ, tạo việc làm, tăng thu nhập, thực hiện phương châm “ly nông bất ly hương”. Tất cả các quốc gia ở châu Á khi tiến hành CNH nông nghiệp nông thôn đều đặt ra nhiệm vụ phát triển LNTT. 1.2. Kinh nghiệm về làng nghề truyền thống ở một số nƣớc châu Á và một số tỉnh ở nƣớc ta 1.2.1. Ở một số nước châu Á + Nhật Bản: Tại Nhật Bản có hơn 867 nghề truyền thống bao gồm nhiều nghành nghề khác nhau như chế tác kim hoàn, sơn mài, chế biến lương thực phẩm... trong quá trình CNH đã hiện đại hoá kỹ thuật công nghệ và tác động của đời sống văn minh công nghiệp đã làm thay đổi một số thói quen trong sinh hoạt của người dân, vì thế một số nghề thủ công truyền thống đã bị mất đi (nghề sơn mài), còn một số nghề được duy trì phát triển. Nhật Bản đã chú trọng phát triển loại hình xí nghiệp công nghiệp vừa nhỏ ở các gia đình làm nghề thủ công nghiệp. Nghề rèn có lịch sử phát triển hơn 700 - 800 năm, nhà nước chú trọng khâu hiên đại hoá kỹ thuật, các tập đoàn sắt thép giúp đỡ khâu sản xuất phôi thép, vì vậy sản lượng nông cụ xuất khẩu ngày càng tăng và có uy tín trong khu vực. Vào những năm 70 của thế kỷ XX, ở tỉnh OITA (miền Tây - Nam Nhật Bản) đã có phong trào “mỗi thôn làng một sản phẩm" do đích thân tỉnh trưởng 18
  19. phát động và tổ chức nhằm phát triển NTCTT. Kết quả tạo ra 270 loại sản phẩm, thu nhập 1,2 tỷ USD [19, tr.37], [28]. + Inđônêxia: Trong quá trình CNH, Chính phủ đã quan tâm chú trọng các ngành nghề truyền thống, hoạt động kinh tế ngoài nông nghiệp ở nông thôn. Đề ra các chương trình phát triển ngành nghề truyền thống thông qua việc thực hiện các kế hoạch 5 năm: Lần thứ nhất: nhằm xây dựng xưởng sản xuất và các trung tâm bán các sản phẩm thủ công nghiệp. Lần thứ hai: Thành lập các dự án phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Lần thứ ba: Hướng dẫn nghiệp vụ sản xuất kinh doanh cho các làng nghề, tăng cường mạng lưới dịch vụ cung cấp thiết bị vật tư. Cùng với chính sách chính phủ tổ chức ra hội đồng thủ công nghiệp quốc gia nhằm thúc đẩy các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển như tổ chức thi mẫu mă, hội chợ triển lãm sản phẩm. Thành lập trung tâm phát triển tiểu thủ công nghiệp (BIPIK) để quản lý hỗ trợ nghề thủ công, kế hoạch phát triển tiểu thủ công nghiệp được lồng vào các chương trình tạo việc làm ở nông thôn. Đối với các làng kinh tế kém phát triển mỗi làng luân phiên được vay 20 triệu Rupi tiền vốn cho các hộ nghèo vay vốn để phát triển nông nghiệp và sản xuất nghề thủ công truyền thống [19, tr.88]. + Ấn Độ: Chính phủ đặc biệt quan tâm và ra nhiều biện pháp, chính sách để bảo tồn và phát triển các ngành nghề thủ công mỹ nghệ tạo ra ưu thế vươn ra thị trường thế giới. Chính phủ đã tổ chức các trung tâm phát triển công nghệ và thiết kế mẫu mã cho các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, như tại Niu-đê-li, Bom- bay nhằm nghiên cứu bảo tồn những nét đặc sắc của hàng thủ công mỹ nghệ. 19
  20. Nhà nước quan tâm đến đội ngũ thợ cả lành nghề nhiều kinh nghiệm, họ được coi là vốn quí quốc gia và được ưu đãi về vật chất tinh thần, đặc biệt có những nghệ nhân được trợ cấp 500 Rupi/tháng. Viện thủ công mỹ nghệ quốc gia là cơ quan nghiên cứu kinh tế kỹ thuật phục vụ yêu cầu phát triển ngành nghề, nghiên cứu thị trường, hội trợ triển lãm, khoa học công nghệ, mẫu mã. Ngoài ra, cả nước có 13 trung tâm đào tạo có nhiệm vụ nâng cao tay nghề cho thợ cả. Kết quả của việc đầu tư quan tâm tới nghề truyền thống đã đưa Ấn Độ trở thành một trong những quốc gia chế tác kim cương lớn nhất thế giới với kim ngạch xuất khẩu 3 tỷ USD, chiếm 1/2 giá trị sản lượng kim cương trên thế giới [19, tr.122]. + Pakistan: Nằm ở vùng Nam Á, trong quá trình CNH đã chú trọng kết hợp CNH đô thị với CNH nông nghiệp nông thôn. Để phát triển các NTCTT và công nghiệp nhỏ ở nông thôn từ những năm 70, Chính phủ đã thực thi một số chính sách như cung cấp vốn tín dụng giúp đỡ kỹ thuật và tạo điều kiện tiếp thị, chú trọng đến các địa bàn các tỉnh có nền kinh tế chậm phát triển. Giảm thuế xuất nhập khẩu đối với một số nguyên liệu, vật tư phục vụ các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp nông thôn [19, tr.133]. + Thái Lan: Thái Lan đề ra chương trình: mỗi làng một sản phẩm, với mục tiêu nâng cao thu nhập, phát triển khả năng sáng tạo và nguồn nhân lực cộng đồng. Dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản: - Thúc đẩy sản phẩm nổi bật của địa phương. - Tăng cường sức sáng tạo và tính tự lập của cộng đồng. - Phát triển nguồn nhân lực. Đầu tiên chương trình tuyên truyền nhằm làm cho cộng đồng hiểu biết về mục tiêu chương trình để họ lựa chọn quyết định sản phẩm nổi bật của địa 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2