intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam - Nguyễn Thượng Thắng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:91

22
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm lý luận cơ bản về rủi ro thanh khoản và quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng thương mại; phân tích, đánh giá thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam, trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế và các nguyên nhân của những hạn chế; đề xuất giải pháp Tăng cường quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam - Nguyễn Thượng Thắng

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRƯỞNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THƯỢNG THẮNG QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỐ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TÉ Chuyên ngành: Tài chính - ngân hàng Mã số: 60.34.02.01 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. LÝ HOÀNG ÁNH TP HỒ CHÍ MINH – 2017
  2. MỞ ĐẦU B 0 1. Tính cấp thiết của đề tài B 3 Thanh khoản và quản trị RRTK là một trong những yếu tố quyết định sự an toàn trong hoạt động của bất kỳ NHTM nào. Một khi RRTK xảy ra, tùy vào mức độ và sức lan truyền, có thể làm ngưng trệ hoạt động của một hay nhiều ngân hàng, kéo theo cả cỗ máy tài chính tại một hay nhiều nước. Chính vì ảnh hưởng lớn, vừa mang tính cục bộ vừa mang tính toàn cầu của loại rủi ro này, quản trị RRTK trở thành một vấn đề thường trực mang tính sống còn cho hệ thống ngân hàng cũng như cả nền kinh tế. Trong hơn một thập kỉ qua, sự phát triển của thị trường tài chính cũng như sự bùng nổ của thị trường xuyên quốc gia đã dần làm chuyển hóa bản chất của RRTK trong ngành ngân hàng với xu hướng ngày càng phức tạp và nguy hiểm. Khủng hoảng thanh khoản trong hệ thống các TCTD tại nhiều nước trên thế giới bắt nguồn từ sự gia tăng nợ xấu trong các khoản cho vay thế chấp dưới chuẩn tại Mỹ 2007- 2008 đã dóng lên hồi chuông báo động cho cơ chế quản lý rủi ro thanh khoản còn bị xem nhẹ. Từ đó đến nay, một loạt các chính sách, các quy chuẩn mới được ban hành nhằm đổi mới và thắt chặt an toàn công tác quản trị RRTK ở các ngân hàng trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, căng thẳng thanh khoản năm 2008, cùng với diễn biến trên thị trường nửa cuối 2010 cho đến nay đã cho thấy tầm quan trọng của quản trị RRTK trong các NHTM. Việc Tăng cường nhận thức, đổi mới và phát triển hệ thống quản trị rủi ro nói chung và RRTK nói riêng, đã trở nên vô cùng cấp bách. Trong thời gian vừa qua, tình hình kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh còn nhiều bất ổn, tuy vậy, toàn hệ thống Eximbank đã từng bước vượt qua khó khăn hoàn thành các chỉ tiêu đề ra. Eximbank đã trải qua chặng đưởng phát triển từ một ngân hàng trung bình đến ngân hàng vững mạnh và nay đã trở thành một ngân hàng lớn. Trở thành một trong những NHTM cổ phần lớn, cơ hội & thách thức đối với Eximbank là không nhỏ. vấn đề đảm bảo an toàn hoạt động đã và đang dần được ban lãnh đão Eximbank quan tâm nhằm hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, ổn định. Trong xu thế chung của thế giới và của Việt Nam, với định hướng của mình, đánh giá và củng
  3. cố lại công tác quản trị RRTK là một việc nên làm và cần làm đối với Eximbank hiện nay Xác định tầm quan trọng của vấn đề, học viên lựa chọn đề tài nghiên cứu luận văn cao học “Quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt nam” Qua nghiên cứu học viên muốn tổng hợp những lý luận về RRTK và quản trị RRTK, tìm hiểu thực trạng quản trị RRTK của Eximbank để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm Tăng cường công tác quản trị RRTK của Ngân hàng này. 2. Mục đích nghiên cứu đề tài B 4 Hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm lý luận cơ bản về rủi ro thanh khoản và quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng thương mại; Phân tích, đánh giá thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam, trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế và các nguyên nhân của những hạn chế; Đề xuất giải pháp Tăng cường quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu B 5 Đối tượng nghiên cứu: Rủi ro thanh khoản và quản trị Rủi ro thanh khoản về không gian thời gian: Phân tích thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam từ năm 2012 đến năm 2016. 4. Phương pháp nghiên cứu B 6 Các phương pháp chủ yếu sử dụng trong nghiên cứu là: Sử dụng phương pháp nghiên cứu như: Thống kê, so sánh, tổng hợp, diễn giải và phương pháp chuyên gia để thực hiện quá trình nghiên cứu. 5. Kết cấu của luận văn B 7 Ngoài phần mở đầu, kết luận, Luận văn được trình bày gồm 3 chương. Chương 1. Tổng quan về rủi ro thanh khoản và quản trị rủi ro thanh khoản trong Ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu Việt Nam
  4. Chương 3: Giải pháp Tăng cường quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng TMCP Xuất nhập khẩu việt Nam
  5. 1 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VÊ QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TRONG NGÂN B 0 1 HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. RỦI RO THANH KHOẢN TRONG KINH DOANH NGÂN HÀNG B 3 1 THƯƠNG MẠI 1.1.1. Khái niệm thanh khoản và rủi ro thanh khoản trong kinh doanh Ngân B 3 2 hàng thương mại 1.1.1.1. Khái niệm thanh khoản B 2 5 Trong tài chính, thuật ngữ “thanh khoản" được sử dụng trong nhiều phạm vi khác nhau. Dưới góc độ tài sản, thanh khoản là khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền mặt một cách dễ dàng và nhanh chóng với chi phí hợp lí. Dưới góc độ doanh nghiệp nói chung, thanh khoản là lượng tiền và tương đương tiền mà doanh nghiệp sở hữu. Nhưng thuật ngữ này khi được sử dụng dưới góc độ quản trị ngân hàng lại được hiểu là “khả năng của ngân hàng tìm kiếm, sử dụng các nguồn tiền để đáp ứng các nhu cầu thanh toán, chi trả hoặc cấp tỉn dụng cho khách hàng trong thời kì cụ thể. ” [2] 1.1.1.2. Khái niệm rủi ro thanh khoản B 3 5 Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, một ngân hàng được xem là có khả năng thanh khoản tốt nếu như nó có thể có được những khoản vốn khả dụng với chi phí thấp đúng tại thời điểm ngân hàng có nhu cầu. Điều này gợi ý rằng, ngân hàng có khả năng thanh khoản tốt khi ngân hàng có trong tay một lượng vốn khả dụng với quy mô hợp lý hoặc ngân hàng có thể nhanh chóng huy động vốn thông qua con đường vay nợ hay bán tài sản. Nếu một NHTM mất khả năng đáp ứng các nhu cầu tiền mặt thì có thể nói NHTM đã rơi vào tình trạng khó khăn thanh toán. Khả năng thanh toán không hợp lý là dấu hiệu đầu tiền cho thấy ngân hàng dang trong tình trạng có vấn đề về tài chính. Ngân hàng không dự trữ đủ tiền để đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi của khách hàng là một loại rủi ro đặc trưng và phổ biến của các ngân hàng thương mại - loại rủi ro này được gọi là rủi ro thanh khoản (RRTK).
  6. 2 Đến nay khi nghiên cứu về thanh khoản, đã có nhiều quan điểm khác nhau về RRTK. Theo tác giả cuốn sách Commercial banking - the management of risk, Benton thì: Rủi ro thanh khoản ỉà rủi ro về tổn thất phát sinh từ trạng thái thiếu hụt tiền mặt hoặc tài sàn tương đương tiền, hay đặc biệt hơn là rủi ro về ton thất phát sinh từ trạng thải thiếu khả năng thu xếp được nguồn tài trợ với mức độ hợp lý về chi phí, bản hay thu xếp một tài sản với mức giá hợp lý, nhằm trang trải một nghĩa vụ đã được dự định hoặc bất định. [3] Theo tác giả cuốn sách “Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng”, Nguyễn Văn Tiến thì: “Rủi ro thanh khoản là khả năng ngân hàng không đáp ứng được các nghĩa vụ tài chỉnh một cách tức thời hoặc phải huy động vốn bổ sung với chi phỉ cao hoặc phải bán tài sàn với giả trị thấp ”.[6] Như vậy rủi ro thanh khoản có các nội dung sau: Thiếu ngân quỹ để đáp ứng nhu cầu chi trả cho người gửi tiền, thanh toán các khoản nợ đến hạn mà ngân hàng đã vay, như các trái phiếu và các khoản vay của các định chế tài chính khác mà đến hạn thanh toán. Ngoài ra, thiếu ngân quỹ để giải ngân cho các hợp đồng tín dụng đã thỏa thuận cũng là nội dung của rủi ro thanh khoản. Thiếu ngân quỹ ở đây có thể là thiếu dự trữ tại ngân hàng, hoặc không thể huy động nguồn ngân quỹ từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu thanh khoản ngay lập tức. Sự thiếu hụt ngân quỹ để đáp ứng nhu cầu của các bên đối tác sẽ dẫn đến tổn thất cho ngân hàng, như giảm thu nhập, giảm giá thị trường của vốn. Khi thiếu khả năng chi trả sẽ làm cho ngân hàng mất uy tín trên thị trường, huy động vốn và cho vay của ngân hàng sẽ khó khăn và tất yếu sẽ dẫn đến giảm khả năng sinh lời. Có nhiều cách thể hiện khác nhau về rủi ro thanh khoản, nhưng có thể tựu trung lại và nhìn từ góc độ NHTM, có thể hiểu: Rủi ro thanh khoản là rủi ro phát sình từ trạng thải mà NHTM không có được đủ vốn khả dụng - cung thanh khoản vào thời điếm mà NHTM cần để đáp ứng cầu thanh khoản, trạng thái này tác động xấu tới uy tín, thu nhập và khả năng thanh toán cuối cùng của NHTM. RRTK không phải là rủi ro đơn lẻ như rủi ro thị trường hay rủi ro tín dụng mà là loại rủi ro mang tính hệ quả bởi lẽ ngoài các nguyên nhân mang tính đặc thù, RRTK
  7. 3 còn có thể bắt nguồn và chuyển biến xấu dưới tác động của các rủi ro phi tài chính và rủi ro tài chính khác trong hoạt động của ngân hàng. 1.1.2. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản B 4 2 Tình trạng khó khăn về thanh khoản của ngân hàng thương mại xuất phát từ những lý do chính sau đây: Ngân hàng vay mượn quá nhiều các khoản tiền gửi, quỹ dự trữ từ các cá nhân và các tổ chức tài chính khác, sau đó chuyển hoá thành những tài sản đầu tư có kỳ hạn. Vì vậy, tình trạng mất cân đối về thời hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn xảy ra đối với ngân hàng. Trường hợp hiếm thấy là luồng tiền thu hồi được từ các khoản đầu tư cân bằng chính xác với luồng tiền đang chỉ ra để trang trải cho các nguồn vốn huy động trước đây. Do sự nhạy cảm đối với sự thay đổi về lãi suất đầu tư, nhất là các khoản tiền gửi. Khi lãi suất đầu tư tăng, một số người gửi tiền rút vốn của họ ra khỏi ngân hàng để đầu tư vào nơi có tỷ suất sinh lợi cao hơn, còn các khách hàng vay tiền có thể trì hoãn yêu câu vay vốn và tích cực tiếp cận các khoản tín dụng có lãi suất thấp hơn. Như vậy, sự thay đổi lãi suất ảnh hưởng cả khách hàng gửi tiền và khách hàng vay tiền và cả hai đều tác động đến trạng thái thanh khoản của ngân hàng. Hơn nữa, những xu hướng về sự thay đổi lãi suất còn ảnh hưỏng đến giá trị thị trường các tài sản mà ngân hàng có thể đem bán để tăng thêm nguồn cung cấp thanh khoản và trực tiếp ảnh hưởng đến chi phí vay mượn trên thị trường tiền tệ. Ngoại trừ hai nhân tố nêu trên, điều cơ bản là các ngân hàng phải đặt một sự ưu tiên cao đối với việc đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Mất cảnh giác trong khu vực này có thể làm tổn hại nghiêm trọng niềm tin của công chúng vào ngân hàng. Một trong những nhiệm vụ của các nhà quản trị thanh khoản là duy trì mối liên hệ gần gủi với những khách hàng gửi tiền lớn và những khách hàng vay đang nắm giữ hạn mức lớn để xác định có hay không và khi nào rút vốn. Tóm lại, có thể rút ra một số nguyên nhân sâu xa gây ra rủi ro thanh khoản cho ngân hàng như sau: Sự không cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản và nguồn vốn: Khi tiến hành huy động vốn, không phải lúc nào NHTM cũng huy động được nguồn vốn có kỳ hạn dài.
  8. 4 Thực tế cho thấy, các nguồn vốn huy động được thưởng có kỳ hạn ngắn, nhưng phần lớn những khoản cho vay và đầu tư lại có kỳ hạn dài hơn. Điều này làm mất cân xứng giữa ngày đáo hạn của các TSC và TSN nên dòng tiền ra bên TSC thưởng không trùng khớp để trang trải dòng tiền vào bên TSN. Vậy nên, NHTM luôn phải đối mặt với tình trạng thâm hụt hoặc thặng dư thanh khoản. Biến động lãi suất: Khi lãi suất trên thị trường tài chính thay đổi, khách hàng gửi Tiền có xu hướng rút tiền gửi của họ ở NHTM có lãi suất thấp và tìm kiếm NHTM khác có lãi suất huy động cao hơn. Trong khi đó, những khách hàng có nhu cầu tín dụng sẽ tìm cách trì hoãn việc hoàn trả các khoản nợ đã đáo hạn hoặc rút hết số dư hạn mức tín dụng với mức lãi suất đã thỏa thuận với NHTM có lãi suất thấp, tìm cách trả trước hạn hoặc trì hoãn việc rút vốn vay với mức lãi suất đã thỏa thuận với NHTM có lãi suất cao. Như vậy, biến động lãi suất đồng thời ảnh hưởng đến cả tiền gửi và tiền vay tức dòng tiền vào, dòng tiền ra và sau đó là đến thanh khoản của NHTM. Tính chất đặc biệt của ngành kinh doanh tiền tệ đòi hỏi NHTM phải luôn sẵn sàng đáp ứng cầu thanh khoản: Đối với lĩnh vực kinh doanh khác (không phải kinh doanh tiền tệ, các doanh nghiệp có thể dây dưa nợ với khách hàng, chậm thanh toán với đối tác, thậm chí chủ động chiếm dụng vốn của đối tác kinh doanh...Nhưng với NHTM kinh doanh trong lĩnh vực Tiền tệ hết sức nhạy cảm, NHTM không thể làm như vậy. Bất kỳ một sự trục trặc nào về thanh khoản đều có thể gây tâm lý lo lắng trong công chúng, và nếu NHTM không giải quyết ngay khó khăn này, khách hàng gửi Tiền có thể đồng loạt kéo đến ngân hàng để rút tiền, trạng thái thanh khoản sẽ trở nên trầm trọng và NHTM có thể bị phá sản. Mặt khác, trên bảng cân đối kế toán của NHTM, bên TSN luôn có một tỷ lệ nhất đinh các khoản tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn nhưng có có thể rút trước hạn. Đây là những TSN mà NHTM có thể nghĩa vụ phải trả ngay lập tức nếu khách hàng có nhu cầu rút, vì thế NHTM luôn luôn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thanh khoản. 1.1.3. Hậu quả của rủi ro thanh khoản B 5 2 Rủi ro thanh khoản là rủi ro nguy hiểm nhất của ngân hàng, có liên quan đến sự sống còn của ngân hàng. Một ngân hàng hoạt động bình thưởng phải đảm bảo được
  9. 5 khả năng thanh toán trong hiện tại, tương lai, và những nhu cầu thanh toán đột xuất. Một khi rủi ro thanh khoản xuất hiện thì không chỉ ảnh hưởng đến bản thân NHTM mà còn ảnh hưởng đến cả một nền kinh tế xã hội. Thứ nhất, nếu RRTK xảy ra, tùy theo mức độ nghiêm trọng mà ngân hàng có thể phải chịu: chuyển hóa các tài sản có tính thanh khoản cao thành tiền với chi phí cao, tiếp cận thị trường tiền tệ để tăng vốn với những điều kiện khắt khe hơn, ví dụ, phải có tài sản thế chấp, lãi suất cao, không được tuần hoàn nợ cũ, hạn mức tín dụng bị xem xét lại thưởng xuyên hoặc bị tò chối cho vay, đình trệ hoạt động, dẫn tới giảm thu nhập, mất uy tín dẫn tới mất khách hàng. Thứ hai, trong Trường hợp đặc biệt, RRTK có thể đẩy ngân hàng tới tình trạng mât khả năng thanh toán, là trạng thái bên bờ vực phá sản của ngân hàng. Khi một ngân hàng mất khả năng thanh toán sẽ gây nên tâm lý lo ngại đối với không chỉ bản thân ngân hàng mà còn đối với khách hàng của ngân hàng khác. Niềm tin của công chúng bị lung lay có thể dẫn đến hàng loạt ngân hàng mất khả năng thanh toán chỉ trong một thời gian ngắn và khiến cả hệ thống ngân hảng rơi vào tình trạng hồn loạn, sự hỗn loạn của hệ thống ngân hàng có thể dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội - chính trị của một quốc gia. 1.2. QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI B 4 1 1.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro thanh khoản B 6 2 Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các ngân hàng luôn ưa thích có được một trạng thái thanh khoản ròng thích hợp sao cho vừa đảm bảo an toàn và vừa có lợi nhuận là tối đa. Tuy nhiên công việc này không hề đơn giản, RRTK luôn tiềm ẩn trong hoạt động thưởng ngày của ngân hàng. Chính vì vậy, quản trị thanh khoản vào cuộc. QTRRTK là quy trình tác động liên tục, có chủ đích của các nhà quản trị ngân hàng lên các nguồn cung và nguồn cầu thanh khoản nhằm đảm bảo các yêu cầu thanh toán, chi trả và yêu cầu cấp tín dụng của ngân hàng với những hao tổn nhỏ nhất. Thanh khoản của ngân hàng liên quan trục tiếp đến an toàn và sinh lời. Duy trì an toàn thanh khoản - tức là khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản là mục tiêu quan trọng, xuyên suốt trong hoạt động ngân hàng. Để duy trì nó, ngân hàng phải
  10. 6 chấp nhận một khoản chi phí nhất định. Ngân hàng luôn cân nhắc mức độ an toàn của thanh khoản và khả năng sinh lời. 1.2.2. Quy trình quản trị rủi ro thanh khoản của ngân hàng thương mại B 7 2 Theo quan điểm của trưởng phái mới, được nhiều người đồng thuận, cho rằng cần quản trị tất cả các loại rủi ro trong kinh doanh ngân hàng một cách toàn diện. Theo đó, quản trị rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro. Quản trị rủi ro thanh khoản NHTM là sự kết hợp khéo léo và bền chặt của 4 nội dung chính bao gồm: Tổ chức QTRRTK, Nhận biết RRTK quơ các tín hiệu thị trường, Đo lường RRTK và các biện pháp hạn chế và xử lý RRTK. 1.2.2.1. Tố chức quản trị rủi ro thanh khoản B 4 5 Quản trị rủi ro thanh khoản nằm trong thể thống nhất của hệ thống quản trị rủi ro và là một trong những hoạt động trọng tâm của quản trị tài sản nợ (ALM) tại NHTM. Do đó QTRRTK cần được thực hiện bởi các bộ phận sau: Hội đồng quản lý rủi ro (RMC) trực thuộc hội đồng quản trị thực hiên giám sát và đưa ra các chính sách tổng thể, các hạn mức về toàn bộ rủi ro của ngân hàng, trong đó phải bao gồm RRTK. Hội đồng này còn chịu trách nhiệm hồ trợ HĐQT trong việc xác định khẩu vị rủi ro cho toàn ngân hàng. Hệ thống quản trị tài sản - nợ có trách nhiệm quản lý cấu trúc bảng cân đối để đạt được lợi nhuận lớn nhất mà vẫn dảm bảo tuân thủ định hướng chung về rủi ro của ngân hàng, từ đó có vai trò chính trong việc QTRRTK của ngân hàng. Các bộ phận liên quan trong hệ thống này bao gồm: Hội đồng quản lý tài sản-nợ (ALCO) là cơ quan có trách nhiệm chính trong việc điều hành bộ máy ALM, có thể bao gồm ALCO ở cấp lãnh đạo (Board ALCO) và ALCO ở cấp quản lý (Management ALCO). Các ngân hàng vừa và nhỏ hoặc chỉ hoạt động tại một quốc gia có thể chỉ xây dựng một ALCO ở cấp quản lý. Bộ phận ALM (ALM uniưdesk) là nơi ứng dụng và phát triển chương trình quản trị rủi ro; nhận biết, đo lường và theo dõi trạng thái bảng cân đối cũng như nguy
  11. 7 cơ rủi ro thanh khoản (và rủi ro lãi suất) từ hoạt động kinh doanh của phòng nguồn vốn; kiểm định tính thích hợp của các chính sách và quy trình quản trị rủi ro thanh khoản hàng năm cũng như đưa ra các đề xuất về hạn mức rủi ro thanh khoản. ALM cũng là bộ phận thực hiện các cuộc thử nghiệm khả năng chi trả và phân tích tình huống. ALM có thể năm trong khôi tài chính, khối quản trị rủi ro hoặc khối nguồn vốn của ngân hàng, tuy nhiên lí tưởng nhất vẫn là thuộc khối tài chính hoặc khối nguồn vốn. Khối nguồn vốn dưới sự chỉ đạo của Ban điều hành, có thể bao gồm các phòng kinh doanh và bộ phận ALM. Các phòng kinh doanh là nơi chịu trách nhiệm thực hiện kinh doanh vốn, tiền tệ của ngân hàng, qua đó cung cấp số liệu thưởng xuyên cho bộ phận ALM. Bộ phận kiểm soát nội bộ hoạt động độc lập so với hệ thống QLRR, thực hiện kiêm tra và đánh giá tính hiệu quả của các chính sách, khung QLRR; đảm bảo tính tuân thủ của quy trình QLRR và chất lượng, nội dung các phương pháp đo lường. 1.2.2.2. Nhận diện rủi ro thanh khoản B 5 Điều tiên quyết để quản trị rủi ro là phải nhận diện được rủi ro. Nhận dạng rủi ro là quá trình liên tục và có hệ thống các hoạt động kinh doanh của ngân hàng bao gồm: việc theo dõi, xem xét, nghiên cún môi trường hoạt động Không một ngân hàng nào có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng dự trữ thanh khoản của họ là họp lý và đủ để không bị rơi vào tình trạng RRTK nếu chưa vượt qua những thử thách của thị trường. Ngân hàng có thể nhận dạng được rủi ro thanh khoản thông qua việc tính toán các tỷ ]ệ đảm bảo an toàn của mình, các chỉ số phản ánh tính thanh khoản so sánh với thông lệ quổc tế, quy định của Ngân hàng trung ương và các NHTM khác có cùng quy mô, địa bàn hoạt động. Ngân hàng cũng có thể nhận dạng RRTK qua các tín hiệu của thị trường sau: Thứ nhất là uy tín trong dân cư. Một khi uy tín sụt giảm, khả năng khách hàng rút tiền với số lượng lớn là rất cao, dễ đẩy NH vào tình trạng RRTK cao do đó NH cần năm được các thông tin về mức độ tin cậy của các cá nhân và tổ chức, đặc biệt là khách gửi tiền, đánh giá mức độ này có giảm sút do họ mất lòng tin vào khả năng
  12. 8 thanh toán các khoản tiền gửi đến hạn của NH hoặc nghi ngở NH đang thiếu tiền mặt hay không. Thứ hai là giá trị cổ phiếu của NH trên thị trường. Vì tâm lý nhà đầu tư trước mỗi biến động của thị trường đều được phản ánh qua thị giá cổ phiếu nên khi thị giá cổ phiếu của ngân hàng giảm thưởng ám chỉ niềm tin của các nhà đầu tư giảm sút. Từ đó cần phải tìm hiểu xem liệu có phải họ lo ngại về tình hình hoạt động không khả quan của NH và nguy cơ khủng hoảng thanh khoản trong tương lai hay không. Thứ ba là các mức lãi suất ngân hàng đang sử dụng. Nếu mức lãi suất huy động ngân hàng áp dụng hoặc mức lãi suất đi vay ngân hàng chấp nhận cao hơn mức lãi suất chung của thị trường một cách bất thưởng thì đó rất có thể là dấu hiệu cho thấy ngân hàng đang thiếu vốn và phải huy động với chi phí cao. Tình trạng này báo hiệu việc thiếu cung thanh khoản dẫn đến nguy cơ khủng hoảng thanh khoản trước mắt. Thứ tư là giá tài sản ngân hàng bán ra. Việc ngân hàng phải chấp nhận bán tài sản vội vàng và với giá thấp mặc dù phải chịu lỗ lớn để có thể bù đắp vào cung thanh khoản là dấu hiệu cho thấy ngân hàng đang gặp rủi ro thanh khoản. Dựa vào tần suất bán tài sản theo phương thức này suy đoán tính trầm trọng của tình hình thanh khoản. Thứ năm là khả năng đáp ứng nhu cầu vốn tò phía khách hàng. NH cần nắm rõ tình hình cấp tín dụng để kịp thời phát hiện những trường hợp không thể giải quyết cấp tín dụng hoặc giải ngân cho khách hàng mặc dù đáp ứng đủ các điều kiện và có hệ số tín nhiệm cao. Điều này xảy ra có thể là do NH đang phải chịu áp lực về thanh khoản. Thứ sáu là tần suất và khối lượng vay từ NHTW. NH phải thưởng xuyên vay NHNN với khối lượng lớn để đáp ứng hoạt động kinh doanh sẽ tạo sự nghi ngở từ phía NHTW cũng như từ chính ban quản trị của NH về khả năng thanh khoản của NH đó. 1.2.2.3. Đo lường rủi ro thanh khoản B 6 5 Công việc lượng hóa RRTK một cách chính xác là một thử thách lớn với các nhà quản trị. Tuy vậy, dựa vào một số các giả thuyết, các nhà quản trị có thể ước lượng gần đúng mức độ rủi ro tại thời điểm nhất định bằng nhiều công cụ khác nhau. Trong số đó, NH có thê lựa chọn một hoặc một nhóm các phương pháp sau :
  13. 9 Phương pháp tiếp cận nguồn vốn và sử dụng vốn: Thực chất của phương pháp này là đo lường cung cầu thanh khoản, trong đó phần chủ yếu của cung cầu thanh khoản là tiền gửi và cho vay nên phương pháp này tập trung vào đo lường những thay đổi dự tính trong tiền gửi và cho vay của ngân hàng. Các bước chính trong phương pháp này gồm: Bước 1: Ước lượng nhu cầu vay vốn và gửi tiền trong kì kể hoạch thông qua phương pháp xây dựng các mô hình dự báo hoặc xây dựng đưởng xu hướng. Việc xây dựng các mô hình dự báo được thực hiện qua việc áp dụng các mô hình kinh tế lượng. Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn và gửi tiền của khách hàng được xác định, từ đó lập ra hàm tống cho vay và hàm tổng tiền gửi. F(cho vay) = f(tăng trưởng, thu nhập DN, cung tiền, lãi suất cho vay, lạm phát...) F(tiền gừi)= f(thu nhập dân cư, mức bán lẻ, cung tiền, lãi suất tiền gửi, lạm phát...) Việc xây dựng đưởng xu hướng được thực hiện qua việc đánh giá sự tăng trưởng của tiền gửi và cho vay thành 3 bộ phận chính là: + Phần xu hướng', mức tăng theo tốc độ tăng trưởng trong dài hạn, được tính bằng việc thu thập số liệu thực tế trong nhiều năm và chạy mô hình kinh tế lượng để có được hàm tăng trưởng bình quân hàng năm. + Phần mùa vụ: mức tăng trưởng khác so với xu hướng do tác động của các yếu tố mùa vụ tại những thời điềm nhất định, được tính bằng việc thu thập số liệu trong quá khứ và giả định tốc độ tăng kì kế hoạch bằng tốc độ tăng kì trước đó. + Phần chu kì: mức chênh lệch giữa thực tế và dự báo, được tính bằng chênh lệch giữa dự tính bằng xu hướng và mùa vụ của kì trước với thực tế Tiền gửi, cho vay của kì đó. Tổng TG, CV dự tính trong tháng (hoặc kì kế hoạch)= TG, CV thực tế tháng trước (kì trước)+ phần xu hướng + phần mùa vụ + phần chu kì. Bước 2: Tính toán các thay đổi dự tính trong kì kế hoạch: Theo phương pháp sử dụng mô hình dự báo: A(cho vay) = f(% GDP, thu nhập DN, MS, i, 71...) A(Tiền gửi) = f(% GDP per capita,mức bán lẻ, MS, i, 71...)
  14. 10 Theo phương pháp đưởng xu hướng: A(TG, CV) = Tổng TG, CV dự tính trong tháng (hoặc kì kế hoạch)- Tổng TG,CV trong tháng trước (hoặc kì trước) Bước 3: Xác định trạng thái thanh khoản ròng của ngân hàng trong kì kế hoạch : Khe hở thanh khoản = Nguồn cung TK - Nhu cầu TK = A(tiền gửi) - A (cho vay) => Khe hở thanh khoản > 0 => ngân hàng thăng dư thanh khoản => Khe hở thanh khoản < 0 => ngân hàng thâm hụt thanh khoản. Khe hở thanh khoản = 0 => ngân hàng có trạng thái thanh khoản lí tưởng, tuy nhiên đây là Trường hợp hiếm khi xảy ra trên thực tế. • Phương pháp tiếp cận cấu trúc nguồn vốn Đối với phương pháp này, các nhà quản lý không quan tâm đến các nguồn cung thanh khoản mà chỉ quan tâm đến nhu cầu thanh khoản, tức là thực thiện ước lượng dự trữ thanh khoản kì kế hoạch cho hai nhu cầu chính là hoàn trả các khoản tiền gửi, Tiền vay và giải ngân cho các khoản tín dụng. Trong đó, nguồn vốn được chia thành các nhóm dựa trên khả năng bị rút ra khỏi ngân hàng với mức dự trữ thanh khoản được tính cho tòng nhóm theo tỉ lệ dự trữ khác nhau. Các bước cụ thể bao gồm: Tính yêu Chia Tính yêu Xác định cầu dự trữ nguồn vốn cầu dự trữ yêu cầu Xác định BƯỚC 1 BƯỚC 2 BƯỚC 4 BƯỚC 5 BƯỚC 3 thanh thành vốn thanh vốn cho tổng nhu khoản của theo sác khoản các khoản cầu thanh tổng vốn xuất bị rút theo từng vay chất khoản Tiền gửi, khỏi NH nhóm lượng cao vay Bước 1: Dựa vào xác suất bị rút khỏi ngân hàng mà nguồn vốn tiền gửi, phi tiền gửi thưởng được chia thành ba nhóm gồm: Nhóm nguồn vốn nóng gồm các khoản tiền gửi, tiền vay rất nhạy cảm với lãi suất hoặc được dự tính chắc chắn sẽ bị rút khỏi NH trong kỳ kế hoạch. Nhóm nguồn vốn kém ổn định gồm các khoản tiền gửi, tiền vay của NH mà một phần đáng kể (25%-30%) được dự tính sẽ bị rút trong kì kế hoạch. Nhóm nguồn vốn ổn định gồm các khoản tiền gửi, tiền vay của NH được tin tưởng chắc chắn, ngoài một bộ phận không đáng kể, sẽ ít có khả năng bị rút ra trong kì.
  15. 11 Bước 2: Xác định dự trữ thanh khoản với mồi nhóm nguồn vốn. Yêu cầu dự trữ thanh khoản đối với mỗi nhóm vốn được tính dựa vào tỉ lệ dự trữ thanh khoản của từng nhóm. Tỉ lệ dữ trữ này được xác định tỉ lệ nghịch với mức độ ổn định của nguồn vốn, thưởng ở mức 90%-95% nguồn vốn nóng còn lại sau khi trích DTBB, 30% nguồn vốn kém ổn định sau khi trích DTBB và 15% nguồn vốn ổn định sau khi trích DTBB. Bước 3: cầu thanh khoản cho tiền gửi của khách hàng và tiền vay của ngân hàng được tính bằng tống yêu cầu thanh khoản của các nhóm nguồn vốn trên. Dự trữ thanh khoản cho tiền gửi, tiền vay = 95% (vốn nóng- DTBB) + 30% (vốn kém ổn định - DTBB) + 15% (vốn ổn định - TDBB) Bước 4: Ngân hàng, ngoài đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi và thanh toán tiền vay, còn phải đảm bảo luôn có đủ thanh khoản để có thể mở rộng hoạt động tín dụng một cách tối đa đối với các khoản vay có đủ chất lượng. Dự trữ thanh khoản cho các khoản tín dụng chất lượng = 100% (quy mô cho vay tối đa - tổng dư nợ hiện tại) Bước 5:Tổng dự trữ thanh khoản của ngân hàng là tổng của dự trữ thanh khoản cần cho Tiền gửi, Tiền vay và dự trữ thanh khoản cho các khoản tín dụng chất lượng cao. Tổng dữ trữ thanh khoản = Dự trữ thanh khoản cho tiền gửi, tiền vay + Dự trữ thanh khoản cho các khoản tín dụng chất lượng Từ đó, ngân hàng lập kế hoạch tìm kiếm và phân bổ họp lý các nguồn cung thanh khoản để đáp ứng nhu cầu dự trữ thanh khoản được dự tính trong kì kế hoạch. • Phương pháp xác định xác suất mỗi tình huống: Phương pháp này được thực hiện theo trình tự hai bước: Bước 1: Ngân hàng dự đoán khả năng xảy ra của mỗi trạng thái thanh khoản theo ba cấp độ: + Khả năng xấu nhất khi: Tiền gửi xuống thấp dưới mức dự kiến hoặc Tiền vay lên cao trên mức dự kiến. + Khả năng tốt nhất khi: Tiền gửi lên cao trên mức dự kiến hoặc tiền vay xuống thấp dưới mức dự kiến. + Khả năng thực tế: nằm ở cấp độ nào đó giữa hai cấp độ trên.
  16. 12 Bước 2: Xác định nhu cầu thanh khoản theo công thức: 𝑛 Trạng thái thanh khoản dự kiến = � 𝑃𝑖 𝑥 𝑆𝐷𝑖 𝑖=1 Trong đó: Pi: Xác suất tương ứng với một trong ba khả năng. SDi: Thặng dư hay thâm hụt thanh khoản theo moi khả năng. • Phương pháp tiếp cận chỉ số thanh khoản Việc sử dụng các chỉ số tài chính cũng là một các để ước tính yêu cầu thanh khoản dựa trên kinh nghiệm và mức bình quân ngành. Mỗi chỉ số thể hiện một khía cạnh về năng lực thanh khoản của ngân hàng: Các chi số thanh khoản có thể được sử dụng bao gồm: Ngân quỹ Chỉ số về trạng thái Tiền mặt = Tổng tài sản Trong bảng cân đối của NH, ngân quỹ bao gồm tiền mặt, tiền gửi tại NHTW và tiền gửi tại các TCTD khác. Đây là phần tài sản có tính thanh khoản cao nhằm đáp ứng hoàn hảo nhu cầu thanh khoản của NH. tỉ lệ ngân quỹ trong TTS phản ánh mức độ sẵn sàng chi trả, tỷ số này càng cao, NH càng ít có nguy cơ gặp RRTK. Chứng khoán chính phủ Chỉ số về chứng khoán thanh khoản = Tổng tài sản Chứng khoản chính phủ có tính thanh khoản cao, đặc biệt là các trái phiếu chính phủ được coi là không nhạy cảm với lãi suất thị trường, dễ dàng bán hoặc đem đi chiết khấu để thu tiền về đảm bảo nhu cầu chi trả, giải ngân trong tình huống xấu. Do đó, tỉ lệ tài sản này trên TTS càng cao càng có lợi cho thanh khoản của ngân hàng. Tổng dư nợ cho vay và cho thuê tài chính Chỉ số năng lực cho vay = Tổng tài sản Các khoản cho vay và cho thuê khách hàng là phần tài sản kém tính thanh khoản nhất. Tỉ lệ phần tài sản này trong TTS càng lớn thì có nghĩa là NH nắm giữ càng nhiều tài sản kém thanh khoản do đo tính thanh khoản của NH cũng giảm tương ứng. Tổng các cam kết tín dụng Chỉ số cam kết tính dụng/Tổng tài sản = Tổng tài sản
  17. 13 Do cam kết tín dụng là các khoản tín dụng ngân hàng phải thực hiện trong tương lai nên chỉ số này càng cao có nghĩa là nhu cầu tiền mặt để giải ngân cho các khoản này sẽ tăng cao khiến rủi ro thanh khoản của ngân hàng càng lớn Tổng dư nợ CV và cho thuê tài chính Chỉ số tín dụng/tiền gửi = Tổng Tiền gửi huy động được Chỉ số này càng cao hàm ý ngân hàng dựa vào vốn ngắn hạn để cấp tín dụng nhiều hơn là vốn dài hạn do đó tính thanh khoản ngày càng kém. Tài sản trên thị trường tiền tệ Chỉ số tiền nóng = Vốn trên thị trường tiền tệ Tiền nóng là loại tài sản nhạy cảm với lãi suất, bên tài sản có bao gồm tiền mặt, chứng khoán chính phủ ngăn hạn,cho vay LNH và các họp đồng mua lại (Repos), còn bên tài sản nợ là các chứng chỉ tiền gửi lớn, vay LNH, các hợp đồng mua lại...Tỉ lệ này thế hiện trạng thái tương quan giữa tài sản và vốn của NH trên TTTT, Chỉ số cao chứng tỏ NH có đủ tài sản để bán được nhanh chóng đáp ứng nhu cầu rút vốn từ TTTT. Chỉ số đầu tư ngắn Đầu tư ngắn hạn hạn trên vốn nhạy = Vốn nhạy cảm cảm Đầu tư ngắn hạn bao gồm tiền gửi ngắn hạn tại các TCTD khác, các khoản cho vay LNH, chứng khoán ngan hạn. vốn nhạy cảm bao gồm những khoản mục vốn rất nhạy cảm với lãi suất và rất dễ bị chuyển sang ngân hàng khác. Chỉ số này càng cao gợi ý khả năng thanh khoản của ngân hàng được củng cố. Chỉ số về cấu trúc Tiền gửi không kỳ hạn = Tiền gửi Tiền gửi kỳ hạn Tiền gửi không kì hạn rất nhạy cảm với các biến động và có bản chất không ổn định, có thể bị rút ra khỏi NH với khối lượng và thời gian không thể kiểm soát được. Ngược lại, tiền gửi có kì hạn lại rất ổn định do kì hạn rút tiền đã được định trước, việc rút tiền trước hạn có thể xảy ra nhưng với xác suất nhỏ. Do đó, khi cấu trúc tiền gửi thiên về phía tiền gửi không kì hạn hay chỉ số cấu trúc tiền gửi lớn và có xu hướng
  18. 14 tăng thì NH kém chủ động về thanh khoản hon nên yêu cầu về thanh khoản của NH sẽ tăng. Tiền gửi thường xuyên Chỉ số tiền gửi cơ sở = Tông tiền gửi Tiền gửi cơ sở thưởng là loại tiền gửi trong các tài khoản có quy mô nhỏ của khách hàng và ít bị rút vốn bất thưởng, nhu cầu thanh khoản không cao do đó đây là loại tiền gửi chủ yếu mà ngân hàng dựa vào đó để thực hiện cấp tín dụng. Tỉ lệ loại tiền gửi này càng lớn trong tổng tiền gửi giúp ngân hàng có thanh khoản tốt. Chỉ số thanh khoản: Chỉ số này được nghiên cứu và phát triển bởi Jim Pierce để đo lường các tổn thất tiềm ẩn từ việc phải bán tài sản một cách đột ngột để có thể đảm bảo đáp ứng yêu cầu thanh khoản dựa vào việc so sánh giá bán tài sản ngay lập tức với giá trị thị trường hợp lý mà ngân hàng có thể bán tài sản trong điều kiện bình thưởng. Chỉ số này được diễn giải qua công thức tính: I = z Wj * (Pj/P*j) Trong đó: I: Chỉ số thanh khoản Wj: Tỷ trọng tài sản loại i; Pj: giá bán ngay, p*i: giá thị trường hợp lý của tài sản. Chỉ số thanh khoản giao động trong khoảng từ 0 đến 1. Tại I = 1, giá bán ngay bằng giá thị trường họp lý của tài sản ,đồng nghĩa với khả năng thanh khoản hoàn hảo của ngân hàng. Như vậy,chỉ số thanh khoản càng gần 1 thì tổn thất từ việc giảm giá tài sản để có thể bán ngay lập tức càng ít, RRTK do đó cũng càng thấp. • Phương pháp sử dụng thang đáo hạn Trong quá trình nghiên cứu về rủi ro thanh khoản, BIS đã xây dựng và giới thiệu phương pháp “thang đáo hạn” để đo lường và theo dõi thanh khoản NH. Thực chất, phương pháp này dựa vào việc so sánh các luồng tiền ra và vào trong mỗi ngày hoặc trong một thời kì nhất định để xác định được trạng thái thanh khoản ròng (nhu cầu tài trợ) mỗi ngày hoặc trạng thái thanh khoản ròng tích lũy cho một thời kì. Để thực hiện đo lường theo phương pháp này, ngân hàng cần sắp xếp các luồng tiền vào theo thứ tự vào thời gian đến hạn của các tài sản Có và các luồng tiền ra theo thứ tự đến hạn của các tài sản Nợ. Từ đó có thể tính toán được mức chênh lệch luồng tiền vào và luồng tiền ra của ngân hàng trong mồi thời kì, mức chênh lệch này phản ánh nhu
  19. 15 cầu thanh khoản của ngân hàng tại thời kì đó. Các kì hạn được sử dụng có thể là mốc 1 ngày, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng... Ngoài ra, phương pháp này còn có thể sử dụng để dự báo trạng thái thanh khoản cho các kịch bản kinh tế khác nhau như điều kiện bình thưởng, điều kiện ngân hàng gặp khó khăn và điều kiện cả nền kinh tế gặp khó khăn (các ngân hàng khác trong nền kinh tế đều gặp khó khăn trong huy động vốn và chất lượng tín dụng toàn hệ thống giảm sút). Kết hợp phương pháp này với phân tích, dự báo tình hình kinh tế tổng thể giúp NH xây dựng những biện pháp đối phó kịp thời cho tàng tình huống. 1.2.2.4. Kiểm soát — xử lý rủi ro thanh khoản B 7 5 Kiêm soát rủi ro là trọng tâm của quản trị rủi ro. Đó là việc sử dụng các biện pháp, kỳ thuật, công cụ, chiến lược, các chương trình hoạt động để ngăn ngừa, phòng tránh hoặc giảm thiêu những tổn thất, những ảnh hưởng không mong đợi có thể xảv ra đối với ngân hàng. Sau khi đã theo dõi nhận biết dấu hiệu rủi ro, thực hiện đo lường RRTK tại ngân hàng, các ngân hàng có trách nhiệm lựa chọn thực hiện các biện pháp đối đầu phù hợp với RRTK. 1.2.2.5. Quản trị thanh khoản tài sản có: B 8 5 Để có thể đáp ứng nhu cầu thanh khoản, ngân hàng có thể chuyển hóa một bộ phận tài sản Có thành tiền mặt, do đó biện pháp quản trị tài sản có chú trọng vào việc nắm giữ một lượng hợp lý các tài sản Có có tính thanh khoản cao để có thể thực hiện chuyển hóa ngay khi cần thiết với tổn thất tối thiểu về giá tài sản. Các tài sản có tính thanh khoản cao phải đáp ứng được các tính chất như: (1) Có thể nhanh chóng chuyển hóa thành tiền mặt; (2) Phí chuyển nhượng thấp; (3) Giá cả thị trường hợp lý và (4) Được giao dịch trên thị trường hoàn hảo. Dựa vào các tính chất trên, các tài sản thanh khoản thưởng được ngân hàng nắm giữ bao gồm Tiền mặt và các chứng khoán dễ bán như trái phiếu kho bạc. Những tài sản có tính thanh khoản phổ biến bao gồm: trái phiếu kho bạc, các khoản vay ngân hàng trung ương, trái phiếu đô thị, tiền gửi tại các ngân hàng khác, chứng khoán của các cơ quan chính phủ, chấp phiếu của ngân hàng khác. Như vậy,
  20. 16 trong chiến lược quản trị thanh khoản dựa trên tài sản “Có”, một ngân hàng được coi là quản trị thanh khoản tốt nếu ngân hàng này có thể tiếp cận nguồn cung thanh khoản với chi phí hợp lý, số lượng vừa đủ theo yêu cầu và kịp thời. Với phương pháp quản lý này, ngân hàng nhận được một số lợi thế như: + Giải quyết nhanh chóng kịp thời các yêu cầu thanh khoản; + Vì các tài sản thanh khoản luôn ở trạng thái sẵn sàng do đó ngân hàng có thể chủ động trong việc đối phó với vấn đề thanh khoản. + Thanh khoản được đảm bảo dưới dạng tài sản lỏng nên RRTK là tương đổi thấp. Tuy vậy, phương pháp này cũng ẩn chứa một số hạn chế nhất định: Một là, Phương pháp này đánh đổi khả năng sinh lời của tài sản để đạt được an toàn về thanh khoản, do đó gây sức ép lên các quyết định đầu tư vào tài sản sinh lời. Hai là, Khi cần bán gấp tài sản để đáp ứng nhu cầu thanh khoản, ngân hàng chắc chắn sẽ chịu tổn thất, nhiều hay ít tùy thuộc vào các yếu tố thị trường, mức độ rủi ro và trình độ quản lý của ngân hàng. Quản trị thanh khoản tài sản nợ: Ngoài việc dự trữ các tài sản thanh khoản để có thể chuyển đổi khi cần thiết thì các ngân hàng có thể sử dụng phương pháp quản trị tài sản nợ nói cách khác là đi vay trên thị trường. Ngân hàng có thể tiếp cận thị trường liên ngân hàng để vay nợ ngắn hạn, hoặc vay vốn trực tiếp hoặc dưới hình thức tái chiết khấu với NHTW hoặc sử dụng hợp đông mua lại. Ngoài ra, ngân hàng có thể phát hành các loại chứng khoán như kì phiếu ngắn hạn hoặc trái phiếu dài hạn để huy động vốn từ thị trường. Vói phương pháp quản trị tài sản nợ, các ngân hàng có được một số thuận lợi sau: + Việc giải quyết các vấn đề thanh khoản trở nên linh hoạt hơn vì thị trường Tiền tệ khá dôi dào và thời gian thực hiện cũng tương đôi nhanh chóng. + Các quyết định đầu tư tài sản trở nên linh hoạt hơn, các tài sản thanh khoản có thê được sử dụng để kinh doanh sinh lời, không còn phải nằm bất động ở quỳ. Tuy vậy, phương pháp này vẫn tồn tại một số hạn chế lớn như:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2