intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn thạc sĩ Kinh tế: Tác động của chất lượng thể chế công đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia khu vực ASEAN

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:81

15
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu tác động của thể chế công đến tăng trưởng kinh tế thông qua các chỉ số đánh giá như: Chỉ số tiếng nói và tính giải trình, chỉ số tính ổn định chính trị, chỉ số hiệu quả của chính phủ, chỉ số chất lượng điều tiết, chỉ số quy định của pháp luật và chỉ số kiểm soát tham nhũng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn thạc sĩ Kinh tế: Tác động của chất lượng thể chế công đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia khu vực ASEAN

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THU SƯƠNG TÁC ĐỘNG CỦA THỂ CHẾ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI CÁC QUỐC GIA KHU VỰC ASEAN LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2014
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THU SƯƠNG TÁC ĐỘNG CỦA THỂ CHẾ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI CÁC QUỐC GIA KHU VỰC ASEAN Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. SỬ ĐÌNH THÀNH TP. Hồ Chí Minh – Năm 2014
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các thông tin, số liệu trong luận văn là trung thực, rõ ràng và cụ thể. Kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Học viên Nguyễn Thu Sương
  4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục chữ viết tắt Danh mục các bảng PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1 2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................ 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 3 3.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................ 3 3.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 3 4. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu........................................................................ 3 4.1. Dữ liệu ............................................................................................................... 3 4.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 3 5. Những phát hiện mới của luận văn .......................................................................... 4 6. Kết cấu của luận văn ................................................................................................ 4 Chương 1 - TỔNG QUAN .............................................................................................. 5 1.1. Dẫn nhập ............................................................................................................... 5 1.2. Định nghĩa thể chế công ....................................................................................... 5 1.3. Sự khác biệt về chính trị và thể chế của một số nước .......................................... 8 1.4. Mô hình tăng trưởng nội sinh và vai trò của Chính phủ ..................................... 11 1.5. Lý thuyết về thể chế và hoạt động kinh tế .......................................................... 14 1.6. Đánh giá các nghiên cứu thực nghiệm................................................................ 15 Chương 2 - MÔ HÌNH, DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 28 2.1. Mô hình nghiên cứu ............................................................................................ 28
  5. 2.2. Dữ liệu nghiên cứu ............................................................................................. 38 2.2.1. Dữ liệu về thể chế công ................................................................................ 41 2.2.2. Dữ liệu về các biến giải thích khác .............................................................. 44 2.3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 46 Chương 3 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................................ 49 3.1. Kết quả kiểm định bằng phương pháp random effect (REM) ............................ 49 3.2. Kết quả kiểm định bằng phương pháp fixed effect (FEM) ................................ 51 3.3. Kiểm định để lựa chọn mô hình thích hợp ......................................................... 53 3.3.1. Kiểm định Hausman ..................................................................................... 53 3.3.2. Kiểm định phương sai sai số thay đổi .......................................................... 53 Chương 4 - KẾT LUẬN................................................................................................ 59 Tài liệu tham khảo
  6. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT AFDB: Ngân hàng phát triển Châu Phi CCI: Chỉ số kiểm soát tham nhũng DPR: Tỷ lệ người phụ thuộc EIU: Economist Intelligence Unit Riskwire & Democracy Index FDI: Đầu tư trực tiếp mước ngoài FEM: Mô hình tác động cố định FRH: Freedom House GCS: World Economic Forum Global Competitiveness Report GDP: GDP thực bình quân đầu người GEI: Chỉ số hiệu quả Chính phủ GFC: Tổng nguồn vốn cố định GLS: Phương pháp bình phương tổng quát HER: Heritage Foundation Index of Economic Freedom HHC: Chi tiêu thực bình quân đầu người của hộ gia đình HUM: Cingranelli Richards Human Rights Database and Political Terror Scale PRS: Political Risk Services International Country Risk Guide PSI: Chỉ số bất ổn chính trị và không có bạo lực REM: Mô hình tác động ngẫu nhiên RLI: Chỉ số quy định của pháp luật RQI: Chỉ số chất lượng điều tiết SCH: Tỷ lệ số học sinh đến trường TEL: Số điện thoại cố định/100 dân TRD: Thương mại VAI: Chỉ số tiếng nói và trách nhiệm giải trình WGI: The Worldwide Governance Indicators
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Kỳ vọng dấu các biến giải thích ........................................................................... 38 Bảng 2.2. Mô tả các biến giải thích và thống kê ................................................................... 44 Bảng 2.3. Ma trận tương quan giữa các biến ........................................................................ 46 Bảng 3.1. Kết quả ước lượng mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) .................................... 50 Bảng 3.2. Kết quả ước lượng mô hình tác động cố định (FEM) .......................................... 52 Bảng 3.3. Kết quả kiểm định Hausman ................................................................................ 53 Bảng 3.4. Kết quả kiểm định Breusch – Pagan Lagrangian Multiplier ................................ 54 Bảng 3.5. Kết quả ước lượng mô hình FGLS ....................................................................... 58
  8. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đến nay, trên thế giới cũng như tại Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm về tăng trưởng. Các nghiên cứu này xem xét tác động của nhiều nguồn khác nhau đến tăng trưởng như: phân cấp tài khóa, lạm phát, yếu tố lao động, thương mại, viện trợ, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), yếu tố địa lý và hàng loạt các yếu tố khác tác động đến tăng trưởng kinh tế trong khuôn khổ của mô hình tân cổ điển. Cho đến đầu những năm 90, vấn đề chất lượng thể chế đã trở thành một khái niệm quan trọng trong các cuộc tranh luận quốc tế về phát triển và chính sách. Việc nhấn mạnh yếu tố chất lượng thể chế được đặt nền tảng dựa trên các lý thuyết về mối liên hệ giữa thể chế và tăng trưởng, khủng hoảng kinh tế do Acemoglu et al. (2002), Rodrik et al. (2002), Fukuyama (1995), Sen (1999), Johnson et al. (2000) trình bày cũng như lý thuyết thông tin bất cân xứng (asymmetric information) trong thị trường tài chính của Mishkin (1996, 2001). Đây chỉ là những tác giả tiêu biểu trong số rất nhiều tác giả. Fukuyama (1995) cũng cho rằng sự tin tưởng lẫn nhau trong xã hội (trust) sẽ làm giảm chi phí quản lý, tăng cường tầm cỡ và hiệu quả của chính phủ, qua đó ngăn ngừa được khủng hoảng và đóng góp tốt cho tăng trưởng kinh tế. Lòng tin là yếu tố quan trọng trong thị trường tài chính, nếu thực sự có lòng tin thì thị trường sẽ hoạt động ổn định và ít đổ vỡ diện rộng. Acemoglu et al. (2002) gợi ý rằng các nước có các chính sách kinh tế vĩ mô kém hoặc không nhất quán thường có thể chế yếu, không có các ràng buộc quyền lực đối với các chính trị gia, bảo vệ quyền sở hữu kém và tham nhũng ở mức độ cao. Các chính sách kinh tế không nhất quán là triệu chứng của thể chế yếu kém chứ không phải là nguyên nhân của khủng hoảng. Trong khi Mishkin (1996, 2001) dùng lý thuyết thông tin bất cân xứng tìm hiểu nguyên nhân khủng hoảng (ví dụ như hiện tượng tâm
  9. 2 lý ỷ lại - moral hazard) và từ đó đề nghị các chính sách ngăn ngừa bằng luật lệ và quy định chặt chẽ cho thị trường tài chính, đặc biệt là sự cam kết trách nhiệm của chính phủ và tính minh bạch thông tin trong các thị trường và chính sách. Trong lịch sử, đa phần các quốc gia trong khu vực ASEAN đều trải qua thời kỳ bị thống trị bởi những cường quốc, do đó về mặt văn hóa, chính trị, thể chế công cũng bị ảnh hưởng và có sự pha trộn từ nhiều nguồn khác nhau. Các nước này đã phải trải qua một quá trình khôi phục, chỉnh đốn và hiện nay đã dần đi vào ổn định. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, vấn đề thể chế công đã trở thành vấn đề quan tâm cấp bách của nhiều quốc gia. Khi nền kinh tế thị trường càng phát triển, các hoạt động kinh tế, xã hội càng tinh vi, nếu năng lực thể chế không theo kịp sẽ dẫn đến sự suy thoái của nền kinh tế. Tuy nhiên, nhận định trên chỉ mang tính lý thuyết, trực giác. Nhưng nếu xét về mặt thực tiễn thì chất lượng thể chế công có ảnh hưởng không và nếu có sẽ ảnh hưởng như thế nào đến tăng trưởng. Để giải quyết câu hỏi đặt ra đó, tác giả đã chọn đề tài “Tác động của chất lượng thể chế công đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia khu vực ASEAN” để nghiên cứu và thực hiện luận văn của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu này là để phân tích cả về mặt lý thuyết và thực nghiệm tác động của chất lượng thể chế công đến tăng trưởng bằng cách xem xét các khía cạnh khác nhau của khái niệm về thể chế công. Luận văn nghiên cứu tác động của thể chế công đến tăng trưởng kinh tế thông qua các chỉ số đánh giá như: chỉ số tiếng nói và tính giải trình, chỉ số tính ổn định chính trị, chỉ số hiệu quả của chính phủ, chỉ số chất lượng điều tiết, chỉ số quy định của pháp luật và chỉ số kiểm soát tham nhũng. Thông qua nghiên cứu, tác giả muốn làm rõ những câu hỏi nghiên cứu như: chất lượng thể chế công có tác động đến tăng trưởng kinh tế hay không? Và nếu có, tác
  10. 3 động sẽ như thế nào? Từ đó, tác giả có hướng đề xuất những giải pháp, chính sách thúc đẩy tăng trưởng bền vững, ổn định. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài chủ yếu nghiên cứu tác động của chất lượng thể chế công đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia khu vực ASEAN giai đoạn 1996 – 2012. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu tác động chất lượng thể chế đến tăng trưởng kinh tế 8 quốc gia khu vực ASEAN giai đoạn 1996 – 2012 thông qua 6 biến chính VAI - chỉ số tiếng nói và trách nhiệm giải trình, PSI - chỉ số tính ổn định chính trị, GEI - chỉ số hiệu quả của chính phủ, RQI - chỉ số chất lượng điều tiết, RLI - chỉ số quy định của pháp luật và CCI - chỉ số kiểm soát tham nhũng. Ngoài 6 biến trên, tác giả còn sử dụng thêm một biến như mô hình (1) đã nêu. 4. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Dữ liệu Dữ liệu về thể chế và nền kinh tế của các quốc gia khu vực ASEAN được thu thập giai đoạn 1996 – 2012 từ WDI (World Bank Development Indicators). 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng trên cơ sở xây dựng các dữ liệu để tiến hành kiểm định tác động của thể chế công đến tăng trưởng kinh tế thông qua phương pháp bình phương bé nhất (OLS), mô hình tác động cố định (fixed effect model), mô hình tác động ngẫu nhiên (random effect model) và một số kiểm định cần thiết khác để lựa chọn mô hình thích hợp nhất. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn sử dụng phương pháp ước lượng FGLS để khắc phục những khuyết điểm của OLS. Mô hình nghiên cứu được thực hiện cụ thể như sau:
  11. 4 GDPit = α + β1GFCit + β2SCHit + β3TRDit + β4AIDit + β5FDIit + β6HHCit + β7DPRit + β8TELit + β9GGit+ εit(1) Các biến của mô hình sẽ được mô tả chi tiết ở chương 3. 5. Những phát hiện mới của luận văn Thông qua kết quả nghiên cứu thực nghiệm, luận văn chỉ ra rằng chất lượng thể chế công có tác động đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia khu vực ASEAN, những quốc gia có chất lượng thể chế công tốt sẽ thúc đẩy tăng trưởng ổn định, và ngược lại, ở những nước có thể chế công kém sẽ kéo theo tăng trưởng chậm. Ngoài ra, luận văn còn đóng góp một phần quan trọng vào nghiên cứu về thể chế công. Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt trong thể chế công ở những quốc gia sẽ khác nhau, và mỗi dẫn xuất khác nhau của thể chế công sẽ có tác động khác nhau đến tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, nghiên cứu của tác giả xem như một nghiên cứu mới để nhìn nhận một cách khách quan về thực trạng và chất lượng thể chế công của các quốc gia khu vực ASEAN. Qua đó, tác giả cung cấp một số đề xuất cần thiết cho hoạch định chính sách. 6. Kết cấu của luận văn Phần còn lại của luận văn được tổ chức như sau: Chương 1 cung cấp một định nghĩa thể chế công dựa trên các định nghĩa được sử dụng trong các nghiên cứu trước đó và xem xét ngắn gọn các tài liệu về thể chế công và hiệu quả kinh tế. Trong Chương 2 sẽ phát triển một mô hình lý thuyết đơn giản liên kết thể chế công và tăng trưởng kinh tế, mô tả các phương pháp ước lượng thực nghiệm và dữ liệu nghiên cứu. Chương 3 trình bày và thảo luận về kết quả thực nghiệm. Chương 4 kết luận của luận văn và đề xuất hoạch định chính sách.
  12. 5 Chương 1 - TỔNG QUAN 1.1. Dẫn nhập Hơn 15 năm qua, các lý thuyết về thể chế công và tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế từng bước được thực hiện. Lý thuyết này được thúc đẩy bởi mối tương quan rõ ràng giữa chất lượng thể chế công và sự khác biệt về mức sống giữa các quốc gia. Vì vậy, chương này sẽ cung cấp một cuộc khảo sát một vài phát hiện chính bắt nguồn từ một số nghiên cứu trước đó. Chương này cũng sẽ thảo luận về các biện pháp thể chế công được sử dụng trong các nghiên cứu và làm nổi bật một số khó khăn trong việc đánh giá tác động kinh tế của thể chế công cả về mặt lý thuyết và thực nghiệm. Ngoài ra, luận văn sẽ xem xét một số các nghiên cứu tập trung vào nguyên nhân của sự khác biệt về thể chế giữa các nước. Cơ cấu chương 1 như sau: phần đầu tiên tóm tắt, xem xét các định nghĩa khác nhau về thể chế công đã được đưa ra từ các nhà nghiên cứu trước trong lĩnh vực này. Trong phần thứ hai sẽ thảo luận về những nguyên nhân của sự khác biệt về chất lượng của thể chế. Trong phần thứ ba sẽ xem xét các liên kết giữa lý thuyết chất lượng thể chế công và hiệu quả kinh tế như đã được thiết lập trong các nghiên cứu. Cuối cùng, trong phần thứ tư sẽ làm nổi bật những nghiên cứu thực nghiệm về thể chế công, các phương pháp khác nhau của thể chế công được sử dụng trong các nghiên cứu khác nhau và các vấn đề gặp phải trong nghiên cứu thực nghiệm tác động của thể chế công đến các biện pháp quản lý hoạt động kinh tế. 1.2. Định nghĩa thể chế công Việc định nghĩa những yếu tố cấu thành thể chế công đã phát triển trong những năm qua. Schneider (1999) định nghĩa chất lượng thể chế công như là việc thi hành thẩm quyền hoặc kiểm soát để quản lý hoạt động và tài nguyên của một quốc gia. Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID, 2002) theo khía cạnh khác đã định nghĩa thể chế công là một hệ thống phức tạp của sự tương tác giữa các cấu trúc, truyền thống,
  13. 6 chức năng và quy trình đặc trưng bởi giá trị của trách nhiệm giải trình, tính minh bạch và sự tham gia. UNDP (2002) định nghĩa thể chế công là phấn đấu vì quy định của pháp luật, tính minh bạch, công bằng, hiệu quả, trách nhiệm và tầm nhìn chiến lược trong việc thực thi quyền lực chính trị, kinh tế và hành chính. Trong khi các tài liệu không cung cấp bất kỳ định nghĩa chính xác duy nhất nào về thuật ngữ thể chế công, nhưng dường như có một sự thống nhất về các khía cạnh của nó. “Thể chế công liên quan đến cách chính phủ được cấu trúc, quy trình quản lý và kết quả là thực hiện những điều liên quan đến nhu cầu của những công dân mà họ phục vụ” Jreisat (2002). Các khía cạnh này bao gồm các tổ chức của hệ thống xã hội, kinh tế và chính trị, phân bổ các nguồn lực công cho các thành viên của xã hội, việc thu hồi và thực thi quyền lực chính trị, tất cả đều quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của một xã hội bất kỳ. Như đã thảo luận bởi Keefer (2004), thuật ngữ thể chế công “rất đàn hồi và đa chiều”. Tuy nhiên, Keefer (2004) cũng chỉ ra rằng hầu hết các định nghĩa đều liên quan đến “mức độ mà các chính phủ đáp ứng cho người dân và cung cấp cho họ các dịch vụ cốt lõi nhất định, chẳng hạn như bảo vệ quyền sở hữu, các quy định chung của pháp luật và mức độ mà thể chế cung cấp cho các nhà hoạch định chính phủ một động lực để đáp ứng tốt cho công dân”. Vì bản chất đa chiều của thể chế công, một số định nghĩa đã xuất hiện trong các tài liệu. Ngân hàng Thế giới định nghĩa thể chế công là “thực thi quyền lực chính trị để điều hành hoạt động của một quốc gia”. Ngân hàng Phát triển châu Phi (1999) mở rộng định nghĩa của Ngân hàng Thế giới để thích ứng với nền kinh tế toàn cầu thay đổi trong bối cảnh toàn cầu hóa. AfDB định nghĩa thể chế công là “một quá trình đề cập đến cách thức mà quyền lực được thực thi trong việc quản lý vấn đề công của một quốc gia và mối quan hệ với các quốc gia khác”. Điều quan trọng cần lưu ý là các định nghĩa của Ngân hàng Thế giới và AfDB dường như chú trọng nhiều hơn về hiệu quả của chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ
  14. 7 cho các thành viên trong xã hội của họ. Tuy nhiên, như được thảo luận bởi Keefer (2004), khái niệm rộng hơn về thể chế công nên bao gồm các cơ chế khuyến khích chi phối các hành động của các tác nhân chính trị. Đây là vấn đề của hệ thống chính trị và kinh tế. Những nghiên cứu trước đây về phát triển kinh tế ngầm giả định rằng các chính trị gia sẽ đưa ra quyết định tối đa hóa phúc lợi xã hội. Dethier (1999) đã đưa ra quan điểm rằng “chính phủ không phải là nhà độc tài nhân từ mà là những người tìm kiếm cách để tối đa hóa phúc lợi xã hội, nhưng cấu trúc thể chế phức tạp đặc trưng bởi các mối quan hệ đại diện”.Sử dụng hiệu quả các nguồn lực công không chỉ phụ thuộc vào thể chế (hạn hẹp như là cấu trúc tổ chức), mà còn phụ thuộc vào các chương trình ưu đãi trong các tổ chức công Dethier (1999). Một định nghĩa rộng hơn về thể chế được cung cấp bởi North (1990) là “những quy tắc của những trò chơi trong xã hội hoặc chính thức hơn là “những trở ngại mà con người đặt ra để hình thành sự giao tiếp giữa con người với nhau trong xã hội”. Định nghĩa rộng hơn này quy định cơ chế khuyến khích trong cơ chế ra quyết định. Một định nghĩa khác ám chỉ tới cái nhìn toàn diện hơn về thể chế này được cung cấp bởi Kaufman và Kraay (2002). Kaufmann và Kraay (2002) định nghĩa thể chế công là “truyền thống và các tổ chức mà chính quyền được thực thi trong một quốc gia”. Theo các tác giả, điều này bao gồm quá trình mà các chính phủ được tuyển chọn, kiểm soát và thay thế; khả năng của chính phủ để thiết lập và thực thi chính sách; sự tôn trọng của người dân và nhà nước đối với các tổ chức để quyết định các tương tác giữa kinh tế và xã hội. Đặc biệt, quá trình mà các chính phủ được tuyển chọn và giám sát tác động rất lớn đến cơ chế khuyến khích trong các tổ chức chính phủ. Tóm lại, hiệu quả của các chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ cho người dân của họ rõ ràng không phải là ngoại sinh - nó phụ thuộc vào cơ chế khuyến khích, do đó phụ thuộc vào việc lựa chọn và giám sát chính trị và những nhà hoạch định chính sách
  15. 8 khác. Phần sau của chương này sẽ thảo luận về các khía cạnh của thể chế đặt ra những thách thức nghiêm trọng cả về mặt lý thuyết và thực nghiệm trong nghiên cứu tác động của thể chế đến tăng trưởng kinh tế. 1.3. Sự khác biệt về chính trị và thể chế của một số nước Cuộc điều tra trong nỗ lực tìm hiểu tác động kinh tế của thể chế công đã đưa ra phát hiện quan trọng là nên tập trung vào những nguyên nhân của sự khác biệt về thể chế giữa các nước. Nói cách khác, tại sao một số quốc gia có thể chế tương đối kém hiệu quả thì việc cung cấp các dịch vụ cho công dân của họ lại kém hơn so với các nước khác? Tại sao tham nhũng tràn lan ở một số nước mà không có ở những nước khác? Tại sao chúng ta quan sát sự khác biệt trong quan liêu, bảo vệ quyền sở hữu…giữa các quốc gia? Những nghiên cứu gần đây trong lĩnh vực phát triển kinh tế đã nỗ lực để trả lời một số trong các câu hỏi trên. Phần này cung cấp một đánh giá ngắn gọn của một vài nghiên cứu. La Porta et al. (1999) đã đề cập đến vai trò của nguồn gốc thuộc địa trong việc giải thích sự khác biệt về thể chế hiện hành. Các tác giả nhận thấy rằng những nước mà trước đây là thuộc địa của Anh có thể chế tốt hơn trong việc bảo vệ quyền sở hữu so với các nước trước đây là thuộc địa của Pháp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha. Phát hiện của họ được hỗ trợ bởi các tác giả khác, những người đã nhận thấy rằng thuộc địa của Anh đã áp dụng hệ thống pháp lý luật phổ biến (trái ngược với luật dân sự được mã hóa của Pháp) thì có thể chế kinh tế tốt hơn (Landes, 1998). Acemoglu et al. (2001) sử dụng một biến thể của mối liên hệ giữa thực dân và các thể chế hiện hành hoặc chất lượng thể chế. Họ nhìn vào “điều kiện ở các thuộc địa” chứ không phải ở các nước thực dân. Tranh luận rằng các thể chế hiện tại là kết quả của loại hình thực dân định cư so với thực dân khai thác. Thực dân định cư là những người thực dân Châu Âu thành lập các khu định cư như Úc, Canada, Hoa Kỳ và New Zealand. Mặt khác, các thuộc địa khai thác là những nước mà các cường quốc thực dân khai thác nguyên vật liệu mà không cần thiết lập các khu định cư vĩnh viễn.
  16. 9 Acemoglu et al. (2001) cho rằng sự lựa chọn loại hình chủ nghĩa thực dân với các điều kiện ở các thuộc địa có thể được quan sát thấy từ tỷ lệ người châu Âu định cư tử vong. Ở những nơi mà tỷ lệ người định cư tử vong cao thì loại hình thuộc địa khai thác được thành lập. Vì vậy, các thể chế về bảo vệ quyền sở hữu không được đưa ra. Mặt khác, các thuộc địa định cư được đặc trưng bởi thể chế nhằm bảo vệ quyền sở hữu. Các tác giả còn cho rằng điều này giải thích sự khác biệt trong thể chế hiện hành vì chất lượng thể chế có xu hướng tồn tại. Ndulu và O’Connell (1999) cũng chỉ ra những nguyên nhân lịch sử như một lời giải thích chính đáng cho các thể chế chính trị kém của khu vực châu Phi hạ Sahara. Ngoài chế độ thực dân, họ thảo luận về thời đại hậu thuộc địa được đặc trưng bởi chế độ độc tài dân sự trong những năm 60 và 70. Tiếp theo đó là chế độ độc tài quân sự trong những năm 80. Họ cũng cho rằng tác động tiêu cực của những sự kiện chính trị liên tiếp được khuếch đại bởi tác động của chiến tranh lạnh mà kết quả rơi vào “một cuộc chiến để kiểm soát tư tưởng của các cường quốc lớn trong chiến tranh” - Hoa Kỳ và Liên Xô. Điều này có thể hoặc ít nhất một phần giải thích hiện trạng phát triển thể chế ở các nước này, do đó giải thích mức độ hoạt động kinh tế. Ý nghĩa của các sự kiện chính trị hậu thuộc địa tại khu vực châu Phi hạ Sahara và châu Mỹ La tinh đặc trưng bởi quy luật chủ nghĩa thuộc về nhà thờ, có thể liên quan đến việc “điểm xung đột xã hội” được đưa ra bởi Acemoglu et al. (2004). Theo quan điểm này, các thể chế được lựa chọn bởi những người kiểm soát quyền lực chính trị. Do đó, các thể chế được lựa chọn sẽ là tối đa hóa lợi ích của các nhóm quyền lực chính trị chứ không phải là lợi ích xã hội. Tuy nhiên, chúng ta nên lưu ý rằng, trong bối cảnh các cuộc thảo luận về quy luật hậu thuộc địa tại khu vực Châu phi hạ Sahara và châu Mỹ La tinh, sự xuất hiện của quy luật thuộc về chủ nghĩa nhà thờ được cho là kết quả trực tiếp của thể chế thuộc địa thiết lập để tối đa hóa lợi ích của chủ nghĩa thực dân - một hình thức của “điểm xung đột xã hội”. Acemoglu et al. (2004) cũng đề cập một số lý do chính đáng khác cho sự khác
  17. 10 biệt về thể chế giữa các nước. Một trong những lý do mà họ gọi là “điểm hệ tư tưởng”, ở đó tác nhân chính trị thiện chí không đồng ý về những thể chế tốt cho xã hội của họ. Do sự không chắc chắn này, “những xã hội lần lượt được chỉnh đốn sau đó là những xã hội phát triển thịnh vượng”. Một số tác giả khác đã liên kết chất lượng thể chế với một biến khác như ngôn ngữ dân tộc La Porta et al. (1999), Mauro (1995). Theo nghiên cứu thực nghiệm, phân mảnh ngôn ngữ dân tộc thường được đo bằng khả năng mà bất kỳ hai công dân chọn ngẫu nhiên thuộc các nhóm dân tộc khác nhau. Giả thuyết ở đây là xã hội bị chia cắt nhiều sẽ có thể chế yếu kém. Lý do cho giả thuyết này là gì? Một câu trả lời xác đáng cho câu hỏi này là xã hội như thế rất ít khả năng để thống nhất về bất kỳ một tập hợp các thể chế nào so với các xã hội đồng nhất hơn. Một cách giải thích thứ hai cho quan sát này là mâu thuẫn xã hội gia tăng rất lớn trong các xã hội dân tộc bị chia cắt và các nhóm mạnh về chính trị sẽ thiết lập thể chế để tối đa hóa phúc lợi của nhóm mình. Hơn nữa, La Porta et al. (1999) tìm thấy rằng các nước nghèo hoặc có một tỷ lệ cao người Công giáo hoặc Hồi giáo thì chính phủ sẽ hoạt động kém hiệu quả hơn những nước khác. Họ đo lường hiệu quả của chính phủ trong việc sử dụng các biện pháp can thiệp của chính phủ (bảo vệ quyền sở hữu, điều lệ thương nghiệp và thuế), hiệu quả của chính phủ (trì hoãn quan liêu, tham nhũng…) sản lượng hàng hóa công và quy mô của khu vực công. Họ lập luận rằng các tác động tiêu cực của Công giáo và Hồi giáo có thể là kết quả của “việc sử dụng tôn giáo cho mục đích chính trị tại các quốc gia Hồi giáo và Công giáo và sự cạnh tranh phá hoại giữa giáo hội và nhà nước ở các quốc gia Công giáo nói riêng”. Cạnh tranh như vậy có thể dẫn đến những chính sách không có lợi cho thị trường hoạt động hiệu quả. Vấn đề Địa lý (độ cao và khí hậu) cũng liên quan đến chất lượng của thể chế. Một lần nữa, La Porta et al. (1999) cho thấy rằng các quốc gia gần đường xích đạo thì chính phủ hoạt động kém hiệu quả hơn. Một lập luận cho mối quan hệ này được trình bày bởi Hall (1999), liên quan đến vĩ độ “Ảnh hưởng phương Tây”, dẫn đến thể chế tốt hơn.
  18. 11 Tuy nhiên, nhược điểm trong lập luận này đó là vị trí địa lý (được đo lường khoảng cách gần với đường xích đạo) có thể có một tác động trực tiếp lên thu nhập bình quân đầu người, do đó tác động đến chất lượng thể chế (Acemoglu, Johnson và Robinson (2001), Bloom et al. (1998)). Khí hậu ấm áp có thể có liên quan đến năng suất thấp hơn và do đó làm cho thu nhập thấp. Bởi vì xã hội thịnh vượng có liên quan đến thể chế tốt hơn, ảnh hưởng của địa lý về chất lượng thể chế có thể thực sự được truyền đi thông qua thu nhập thay vì khoảng cách so với “Ảnh hưởng phương Tây” như lập luận của Hall và Jones (1999). Cuối cùng, Knack (2000) nghiên cứu tác động của sự phụ thuộc vào viện trợ của chất lượng thể chế. Ông thấy rằng “sự lệ thuộc viện trợ sẽ làm suy yếu chất lượng thể chế vì nó làm yếu đi trách nhiệm, khuyến khích tìm kiếm đặc lợi và tham nhũng, kích động xung đột quyền kiểm soát các quỹ viện trợ, bòn rút tài năng khan hiếm từ bộ máy quan liêu và giảm áp lực cải cách chính sách và thể chế hiệu quả”. Mặc dù những phát hiện này là đáng tin cậy, những điều này có thể có vấn đề lựa chọn mẫu theo ý nghĩa là nước phụ thuộc viện trợ thường người nghèo và có thể chế kém hơn. Knack (2000) đã khắc phục những vấn đề này bằng cách sử dụng biến tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh vào năm 1980 và GDP bình quân đầu người ban đầu. 1.4. Mô hình tăng trưởng nội sinh và vai trò của Chính phủ Mô hình tăng trưởng tân cổ điển được coi là mô hình chuẩn đầu tiên, hội tụ được khá nhiều các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế dài hạn. Thế nhưng, mô hình tăng trưởng tân cổ điển vừa là một thành công lớn, lại vừa là một thất bại lớn. Một hạn chế lớn nhất của mô hình tăng trưởng tân cổ điển là trong dài hạn, nguồn tác động đến tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người duy nhất trong mô hình này là tốc độ tăng hiệu quả lao động lại được xác định một cách ngoại sinh. Những hạn chế của mô hình tăng trưởng tân cổ điển đã thúc đẩy nhiều hướng nghiên cứu mở rộng mô hình để phù hợp hơn với thực tế của các nước đang phát triển và đã đưa đến sự ra đời của các mô hình tăng trưởng nội sinh. Gọi là mô hình tăng
  19. 12 trưởng nội sinh là bởi các mô hình tăng trưởng mới này cố gắng nội hoá sự tăng trưởng, nghĩa là giải thích tăng trưởng bên trong một mô hình của nền kinh tế. Trong mô hình tăng trưởng nội sinh, tăng năng suất có được từ tích luỹ vốn con người hay các hoạt động phát minh sáng chế là yếu tố tạo nên tăng trưởng dài hạn của thu nhập bình quân đầu người. Do đó, tăng năng suất - “làm việc thông minh hơn” chứ không phải là “làm việc chăm chỉ hơn” - là yếu tố thiết yếu của tăng trưởng kinh tế nói chung. Nếu như lực lượng chính của tăng trưởng kinh tế không phải là sự tích luỹ vốn hữu hình (như quan điểm truyền thống) mà là tiến bộ công nghệ (được hiểu theo nghĩa rộng là tổng năng suất), thì cho dù các nước nghèo có khả năng tiết kiệm thấp vẫn có thể đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nếu có thể nhập khẩu công nghệ từ các nền kinh tế tiên tiến. Khi đó, việc đầu tư vào giáo dục, nghiên cứu và phát triển (hỗ trợ hoạt động cải tiến ở các doanh nghiệp tư nhân, bao gồm cả nhập khẩu công nghệ nước ngoài) sẽ mang lại hiệu quả tăng trưởng kinh tế cao hơn là việc chỉ cố gắng gia tăng lượng vốn hữu hình. Các mô hình tăng trưởng nội sinh, đặc biệt là các mô hình xét đến vốn con người đã góp phần giải thích đáng kể sự chênh lệch về thu nhập giữa các quốc gia. Các mô hình này cho thấy không có xu hướng các nước nghèo (ít vốn) có thể đuổi kịp các nước giàu về mức thu nhập bình quân, cho dù có cùng tỷ lệ tiết kiệm. Nguyên nhân bắt nguồn từ sự chênh lệch không chỉ ở lượng vốn vật chất (có thể bù đắp nhờ đầu tư và viện trợ nước ngoài) mà quan trọng hơn là ở vốn con người. Bởi thế, ý nghĩa to lớn của các mô hình tăng trưởng nội sinh là: tốc độ tăng trưởng dài hạn có thể phụ thuộc vào hành động chính sách của chính phủ (đánh thuế, cung ứng cơ sở hạ tầng, bảo hộ sở hữu trí tuệ, cung cấp các dịch vụ công liên quan đến giáo dục, y tế…), vì các chính sách này có thể tác động tới các hoạt động sáng chế, phát minh và tích lũy vốn con người.
  20. 13 Tuy nhiên, các mô hình tăng trưởng nội sinh còn bỏ qua những yếu tố như sự yếu kém về cấu trúc hạ tầng, cấu trúc thể chế ở các nước đang phát triển, mà đây cũng là những yếu tố kìm hãm tăng trưởng, giống như mức tiết kiệm và tích luỹ vốn con người thấp. Từ lâu người ta đã nhận ra rằng các nhân tố phi kinh tế có mối tương tác với quá trình tăng trưởng. Tuy nhiên, trong các mô hình tân cổ điển và tăng trưởng nội sinh, lịch sử và thể chế không có vai trò gì. Các kỹ thuật tính toán tăng trưởng đo tầm quan trọng tương đối của mức vốn, lao động và công nghệ trong quá trình tăng trưởng kinh tế chỉ thực hiện trong khuôn khổ một hàm sản xuất kinh tế vĩ mô. Thế nhưng các nhà kinh tế thể chế hiện đại lập luận rằng thể chế là cấu trúc mang tính thúc đẩy của một xã hội, do đó các luật lệ, quy tắc…tạo nên nền tảng thể chế của một xã hội sẽ chi phối sự phân bổ các nguồn lực của xã hội và nền kinh tế, và do vậy có ảnh hưởng lớn đến năng suất. Nếu như các mô hình kinh tế về tích tụ các yếu tố sản xuất thay đổi công nghệ nội sinh chỉ cung cấp những lời giải thích gần đúng cho tăng trưởng kinh tế tương đối, thì những mô hình nào đưa ra lời giải thích đáng tin cậy hơn cả? Nhiều nhà nghiên cứu gần đây cho rằng thể chế mới là yếu tố cơ bản quyết định cho tăng trưởng kinh tế. Khi nhấn mạnh tầm quan trọng của lý thuyết thể chế và các thể chế kinh tế, để có các đánh giá khách quan hơn, cần xem xét tới vai trò cũng như hoạt động của chính phủ.Mô hình nội sinh nêu lên những hạn chế về khả năng rượt đuổi của các nước đang phát triển bởi sự hạn chế về khả năng vốn con người. Giải pháp để những nước này thoát nghèo và đuổi kịp các nước phát triển chỉ có thể là đầu tư và phát triển nguồn nhân lực. Muốn việc đầu tư và phát triển nguồn nhân lực đạt hiệu quả cao thì Chính phủ có vai trò chính yếu nhất. Dường như, việc xem xét và mô hình hoá tác động của các nhân tố phi kinh tế nói chung, và yếu tố thể chế nói riêng, sẽ trở thành một hướng đi mới, một bước tiến mới trong con đường tìm tòi và khám phá “các nguồn tăng trưởng kinh tế” trong tương lai phù hợp với các quốc gia khu vực ASEAN.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2