intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tín dụng thương mại và vay nợ ngân hàng nghiên cứu thực nghiệm từ các công ty tại Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:80

15
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài nghiên cứu này xem xét mối quan hệ giữa giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng theo các cách phân nhóm doanh nghiệp khác nhau: Yếu tố quy mô, theo nhóm công ty thuộc sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân, theo nhóm các công ty ngành sản xuất và ngành phi sản xuất trong một mẫu quan sát dữ liệu theo quý của 103 công ty niêm yết tại Sở giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh (HoSE) từ quý 1 năm 2007 đến quý 4 năm 2014.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tín dụng thương mại và vay nợ ngân hàng nghiên cứu thực nghiệm từ các công ty tại Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ---------- TRẦN HỮU TUẤN TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI VÀ VAY NỢ NGÂN HÀNG NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TỪ CÁC CÔNG TY TẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ TP. Hồ Chí Minh – Năm 2015
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH ---------- TRẦN HỮU TUẤN TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI VÀ VAY NỢ NGÂN HÀNG NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM TỪ CÁC CÔNG TY TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng Mã số : 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ Người Hướng dẫn Khoa học: TS. VŨ VIỆT QUẢNG TP. Hồ Chí Minh – Năm 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Vũ Việt Quảng. Các số liệu và kết quả được nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn
  4. MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG TÓM LƯỢC .................................................................................................................... 1 Chương I: GIỚI THIỆU ................................................................................................ 2 1.1 Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 2 1.2 Mục tiêu của đề tài ........................................................................................ 4 1.3 Câu hỏi nghiên cứu ......................................................................................... 4 1.4 Kết cấu của bài nghiên cứu............................................................................ 5 Chương II: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY ............................... 8 2.1 Giới thiệu về tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng ....................... 6 2.2 Các lý thuyết liên quan đến Tín dụng thương mại ..................................... 7 Chương III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................... 24 3.1 Phát triển giả thuyết nghiên cứu ................................................................ 19 3.1.1 Tác động thay thế hoặc tác động bổ sung giữa các tín dụng thương mại và khoản vay ngân hàng .................................................................................... 19 3.1.2 Tác động quy mô công ty lên cung và cầu của tín dụng thương mại . 22 3.1.3 Các công ty thuộc sở hữu nhà nước và tư nhân tác động lên phía cung và cầu của tín dụng thương mại. ...................................................................... 23 2.2.4 Các công ty nhóm ngành sản xuất và phi sản xuất tác động lên phía cung và cầu của tín dụng thương mại. ............................................................ 23
  5. 3. 2 Dữ liệu .......................................................................................................... 24 3.3 Mô hình nghiên cứu ..................................................................................... 28 Chương IV: CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM ............................ 30 4.1 Thống kê mô tả và ma trận tự tương quan của các biến theo Tổng mẫu và cách phân nhóm khác nhau. ............................................................................. 30 4.2 Hồi quy theo Pooled OLS (tổng mẫu) ........................................................ 37 4.3 Hồi quy theo Fixed – Effects (tổng mẫu) ................................................... 38 4.4 Hồi quy theo từng nhóm các công ty.......................................................... 40 4.4.1 Các công ty lớn và các công ty nhỏ ......................................................... 40 4.4.2 Các công ty nhóm sản xuất và nhóm phi sản xuất ................................ 45 4.4.3 Hồi quy theo nhóm công ty theo sở hữu nhà nước và nhóm tư nhân .. 51 Chương V: KẾT LUẬN ............................................................................................... 57 5.1 Tóm lược các kết quả nghiên cứu chính ................................................... 57 5.2 Hạn chế nghiên cứu ..................................................................................... 59 5.3 Hướng nghiên cứu trong tương lai............................................................. 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤC LỤC
  6. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT Ký hiệu/ Chữ viết tắt Diễn giải HoSE : Sở giao dịch Chứng khoán TP. HCM HNX : Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội CTCP : Công ty Cổ phần TMCP : Thương mại Cổ phần SMEs : Các công ty vừa và nhỏ NHTM : Ngân hàng Thương mại DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 1a,1b : Tóm tắt các nghiên cứu trước đây Bảng 2a : Tóm tắt các thống kê mô tả các biến của toàn mẫu dữ liệu Bảng 2b : Ma trận tự tương quan của các biến toàn mẫu dữ liệu Bảng 3a : Tóm tắt các thống kê mô tả dữ liệu của nhóm 52 công ty lớn và 52 công ty nhỏ. Bảng 3b : Ma trận tự tương quan của các biến nhóm công ty lớn Bảng 3c : Ma trận tự tương quan của các biến nhóm lớn và công ty nhỏ Bảng 4a : Tóm tắt các thống kê mô tả dữ liệu của nhóm các công ty ngành sản xuất và phi sản xuất. Bảng 4b : Ma trận tự tương quan của các biến nhóm công ty sản xuất Bảng 4c : Ma trận tự tương quan của các biến nhóm lớn và công ty phi sản xuất Bảng 5a : Tóm tắt các thống kê mô tả dữ liệu của nhóm các công ty thuộc sở hữu nhà nước và thuộc sở hữu tư nhân Bảng 5b : Ma trận tự tương quan của các biến nhóm công ty thuộc sở hữu nhà nước Bảng 5c : Ma trận tự tương quan của các biến nhóm lớn và công ty thuộc sở hữu tư nhân Bảng 6a : Kết quả hồi quy dữ liệu bảng theo Pooled OLS (Tổng mẫu) Bảng 6b : Kết quả hồi quy dữ liệu bảng theo Fixed Effects (Tổng mẫu) Bảng 7a : Kết quả hồi quy dữ liệu bảng theo Pooled OLS nhóm 52 công ty lớn
  8. Bảng 7b : Kết quả hồi quy dữ liệu bảng theo Pooled OLS nhóm 52 công ty nhỏ Bảng 7c : Kết quả hồi quy dữ liệu bảng theo Fixed Effects nhóm 52 công ty lớn Bảng 7d : Kết quả hồi quy dữ liệu bảng theo Fixed Effects nhóm 52 công ty nhỏ Bảng 8a : Kết quả hồi quy dữ liệu bảng theo Pooled OLS nhóm ngành sản xuất Bảng 8b : Kết quả hồi quy dữ liệu bảng theo Pooled OLS nhóm ngành phi sản xuất Bảng 8c : Kết quả hồi quy dữ liệu bảng theo Fixed Effects nhóm ngành sản xuất Bảng 8d : Kết quả hồi quy dữ liệu bảng theo Fixed Effects nhóm ngành phi sản xuất Bảng 9a : Kết quả hồi quy dữ liệu bảng theo Pooled OLS nhóm công ty thuộc sở hữu nhà nước Bảng 9b : Kết quả hồi quy dữ liệu bảng theo Pooled OLS nhóm công ty thuộc sở hữu tư nhân Bảng 9c : Kết quả hồi quy dữ liệu bảng theo Fixed Effects nhóm công ty thuộc sở hữu nhà nước Bảng 9d : Kết quả hồi quy dữ liệu bảng theo Fixed Effects nhóm công ty thuộc sở hữu tư nhân
  9. TÓM LƯỢC Bài nghiên cứu này xem xét mối quan hệ giữa giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng theo các cách phân nhóm doanh nghiệp khác nhau: yếu tố quy mô, theo nhóm công ty thuộc sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân, theo nhóm các công ty ngành sản xuất và ngành phi sản xuất trong một mẫu quan sát dữ liệu theo quý của 103 công ty niêm yết tại Sở giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh (HoSE) từ quý 1 năm 2007 đến quý 4 năm 2014. Đặc biệt, trong bài nghiên cứu này, chúng tôi cố gắng ước lượng mối quan hệ bị tác động như thế nào trong suốt thời kỳ khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009. Từ khóa: Khủng hoảng tài chính, Tín dụng thương mại, Tín dụng ngân hàng
  10. Chương I GIỚI THIỆU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi thường thiếu các định chế kinh tế hỗ trợ thị trường như bảo vệ đầy đủ quyền sở hữu và thực thi tính hiệu lực của hợp đồng. Kết quả là, các kênh tài trợ chính thức như các khoản vay ngân hàng không thể phát triển đầy đủ để đáp ứng nhu cầu của các công ty cho các vấn đề bên ngoài. Một quan điểm cho rằng, trong những trường hợp, tài trợ phi chính thức vẫn có thể phát triển vì nó chủ yếu dựa trên các mạng lưới phi chính thức mà chúng lại dựa trên các mối quan hệ lâu dài và uy tín . Do đó, các kênh tài trợ phi chính thức vẫn có khả năng cung cấp các nguồn tài trợ khác nhau cho các doanh nghiệp không có điều kiện tiếp cận thị trường tài chính chính thức để hỗ trợ tăng trưởng và mở rộng công ty. Như vậy, tài trợ phi chính thức cũng nên đóng một vai trò then chốt trong việc duy trì hoạt động và tăng trưởng của công ty khi các định chế kinh tế yếu kém. Ngược lại, có quan điểm khác lại cho rằng kênh tài trợ phi chính thức như tín dụng thương mại không thể lắp đầy (bổ sung) cho các hình thức tài trợ chính thức, bởi vì các cơ chế giám sát và thực thi cần thiết cho các chức năng của tài trợ phi chính thức bị ảnh hưởng bất lợi nhiều hơn bởi các định chế kinh tế chính thức, và bởi vì tài trợ phi chính thức thông thường có quy mô giới hạn do đó nó không thể tiếp tục hỗ trợ việc mở rộng công ty. Vì thế, tiếp cận tài trợ chính thức vẫn là hình thức quan trọng hơn cho sự phát triển của công ty. Rõ ràng hai quan điểm cạnh tranh có ý nghĩa nổi bật khác nhau cho sự cần thiết và tính cấp thiết của việc thúc đẩy phát triển hệ thống tài chính chính thức ở các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi. Mặc dù tầm quan trọng của câu hỏi này, rất ít các nghiên cứu có tính hệ thống đã được tiến hành. Việt Nam cung cấp một môi trường lý tưởng để điều tra về tầm quan trọng của tài trợ chính thức và phi chính thức. Ngay cả sau gần ba mươi năm cải cách kinh tế, các định chế kinh tế chính thống của Việt Nam vẫn ở mức trung bình. Kết quả là, các định chế ngân hàng Việt Nam đang xa dần là nguồn tài trợ chính thức cho các doanh nghiệp. Tương tự như các tình huống của hầu hết các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi khác, các ngân hàng ở Việt Nam chủ yếu phục vụ nhu cầu tài chính của một nhóm nhỏ các công ty cao cấp như các
  11. doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn, trong khi hầu hết các công ty khác, đặc biệt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, có rất ít điều kiện tiếp cận các khoản vốn vay ngân hàng. Theo Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) (2003), những khó khăn trong việc tiếp cận nguồn tài trợ từ bên ngoài như các khoản vay ngân hàng là một trở ngại nghiêm trọng chính gặp phải ở các doanh nghiệp tư nhân ở các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi ở châu Á. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp không được ưa chuộng này được cho là sử dụng rộng rãi các kênh tài trợ phi chính thức như tín dụng thương mại để đáp ứng nhu cầu tài trợ của họ (Allen, Qian (2005); Ayyagari, Demirguc-Kunt và Maksimovic (2008)). Các công ty ở nhiều nền kinh tế đang phát triển chưa đạt được mục tiêu của họ trong nhiều thập kỷ qua, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân hay các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường bị phân biệt đối xử trong các khoản vay ngân hàng. Các công ty ở Việt Nam cung cấp một trường hợp thú vị để nghiên cứu. Khi Việt Nam hiện là quốc gia có nền tài chính vẫn còn chưa phát triển đồng đều giữa các vùng miền. Các công ty khác nhau về mẫu hình tài trợ của họ giữa vốn cổ phần hay phát hành nợ vay. Các vấn đề tài chính liên quan đến các doanh nghiệp Việt Nam là thú vị và đáng được quan tâm, bởi vì các công ty là ví dụ điển hình về rất nhiều đặc điểm hấp dẫn của một thị trường tài chính mới nổi mà nó khác với các thị trường tài chính phương Tây phát triển (Chan, Fung và Thapa (2007)). Mặt khác, trong trường hợp rơi vào kiệt quệ tài chính, các doanh nghiệp được sở hữu bởi nhà nước ở Việt Nam có thể được giải cứu bởi chính phủ thay vì phá sản như những công ty tư nhân khác. Yếu tố nguồn tài trợ và lựa chọn nguồn tài trợ thật sự là một vấn đề đáng được quan tâm. Khi mà thị trường tài chính Việt Nam vẫn chưa thật sự phát triển và khả năng mà các doanh nghiệp đạt được mục tiêu của họ trong việc tối đa hoá giá trị doanh nghiệp hay tối thiểu hoá chi phí vẫn còn là một vấn đề làm đau đầu các nhà hoạch định tài chính cấp độ công ty hay chính phủ. Có chăng nên xem xét vấn đề tài trợ ở gốc độ chi tiết hơn mà ở đó tín dụng thương mại nội địa đã trở nên khá quen thuộc với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (đóng vai trò là cầu tín dụng thương mại) hay các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhà nước (đóng vai trò là nguồn cung tín dụng thương mại) với các hình thức tài trợ thông qua các định chế ngân hàng. Và liệu trong khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu thì các doanh nghiệp thực sự có bị tác động về cấu trúc tài trợ mà chi tiết là giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng? Và
  12. nếu khủng hoảng thật sự có tác động đến các công ty tại Việt Nam thì liệu các công ty có thật sự nổ lực để tìm kiếm những giải pháp thật sự hiệu quả cho nguồn tài trợ thay thế hay các doanh nghiệp sẽ phải thực hiện tái cấu trúc để thích nghi hơn? Chính những điều đó, cho chúng tôi một động lực để nghiên cứu các công ty tại Việt Nam, mà cụ thể là các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán HoSE có những khác biệt và những đặc trưng cụ thể gì trong bối cảnh trước, trong và sau khủng hoảng tài chính 2008-2009 và cũng thông qua đây là một nền tảng cơ bản để làm tiền đề cho các nghiên cứu chuyên sâu hơn về mối quan hệ tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng và tác động của chúng đối với hiệu quả hoạt động của các công ty tại Việt Nam. 1.2 Mục tiêu của đề tài Nghiên cứu này nhằm xem xét mối quan hệ giữa giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng theo các cách phân nhóm doanh nghiệp khác nhau: theo yếu tố quy mô, theo nhóm ngành công ty thuộc sở hữu nhà nước và công ty tư nhân và theo nhóm ngành sản xuất và nhóm ngành phi sản xuất của 103 công ty niêm yết tại Sở giao dịch Chứng khoán Hồ Chí Minh (HoSE) trong giai đoạn trước, trong và sau khủng hoảng. Đồng thời chúng tôi cố gắng tìm kiếm một sự khác biệt của các nhóm công ty khác nhau qua các mô hình hồi quy khác nhau để cố gắng giải thích tác động hay tương quan thống kê giữa phương pháp hồi quy dữ liệu bảng dùng Pooled OLS và Fixed – Effects. 1.3 Câu hỏi nghiên cứu Dựa trên những mục tiêu nghiên cứu của đề tài đặt ra, bài nghiên cứu này đưa ra ba câu hỏi nghiên cứu quan trọng. Ba câu hỏi được chúng tôi đưa ra như sau: - Tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng có tồn tại tác động bổ sung và thay thế hiệu quả trong các công ty ở Việt Nam? Hay nói một cách khác đi là mối quan hệ gì giữa tín dụng ngân hàng và các khoản phải trả? Và giữa tín dụng ngân hàng và các khoản phải thu? - Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 đã tác động như thế nào đến cung cầu của các khoản phải thu, phải trả của các doanh nghiệp lớn và nhỏ, các ngành sản
  13. xuất và các ngành phi sản xuất, các công ty thuộc sở hữu nhà nước và công ty tư nhân? 1.4 Kết cấu của bài nghiên cứu Phần còn lại của luận văn này được trình bày theo kết cấu sau đây: Chương II: Tổng quan các nghiên cứu trước đây; Chương III: Phương pháp nghiên cứu bao gồm việc trình bày việc xác định các biến nghiên cứu, cách thức xử lý dữ liệu, phương pháp phân chia mẫu dữ liệu theo quy mô của công ty, theo ngành hoạt động và theo hình thức sở hữu vốn và trình bày tóm tắt các thống kê mô tả, ma trận tự tương quan giữa các biến trong mô hình của bài nghiên cứu này; Chương IV: Trình bày các kết quả nghiên cứu theo hai phương pháp Pooled OLS và Fixed – Effects và đưa ra các thảo luận về các kết quả đạt được; Chương V: Trình bày tóm lược các kết quả nghiên cứu, nêu ra các hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo trong tương lai.
  14. Chương II TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY 2.1 Giới thiệu về tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng Tín dụng thương mại là loại tín dụng rất phổ biến trong tín dụng quốc tế, là loại tín dụng giữa các doanh nghiệp cấp cho nhau vay, không có sự tham gia của các định chế tài chính như ngân hàng hoặc công ty tài chính hoặc cũng có thể hiểu là loại tín dụng được cấp bằng hàng hóa, dịch vụ hay bán hàng trả chậm chứ không phải trả ngay. Có ba loại tín dụng thương mại: 1. Tín dụng thương mại cấp cho nhà nhập khẩu: Tín dụng thương mại cấp cho nhà nhập khẩu hay còn gọi là tín dụng xuất khẩu là loại tín dụng do người xuất khẩu cấp cho người nhập khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Tín dụng xuất khẩu được cấp dưới hình thức chấp nhận hối phiếu và mở tài khoản. Bao gồm: a. Cấp tín dụng bằng chấp nhận hối phiếu: tức là thương nhân nhập khẩu ký chấp nhận trả tiền vào hối phiếu do người xuất khẩu ký phát để nhận bộ chứng từ hàng hóa thông qua ngân hàng hoặc người xuất khẩu gửi trực tiếp cho họ. Thời hạn của loại tín dụng này phụ thuộc vào sự thỏa thuận của hai bên bán và mua. Tuy nhiên để phòng tránh rủi ro, luật các nước thường can thiệp bằng cách định ra thời hạn cho loại tín dụng này. Ví dụ, luật nước Anh, Pháp quy định thời hạn từ 30 đến 90 ngày, luật Mỹ là 180 ngày, luật Nhật Bản quy định từ 180 đến 360 ngày. b. Cấp tín dụng bằng cách mở tài khoản: tức là thương nhân xuất khẩu và thương nhân nhập khẩu ký với nhau hợp đồng mua bán hàng hóa, trong đó qui định quyền của bên bán được mở một khoản để ghi nợ bên mua sau mỗi chuyến giao hàng mà bên bán đã thực hiện. Sau từng thời gian nhất định, người mua sẽ phải thanh toán số nợ đó bằng chuyển tiền, chuyển Séc hoặc bằng Kỳ phiếu trả tiền ngay. 2. Tín dụng thương mại cấp cho người xuất khẩu: Tín dụng thương mại cấp cho người xuất khẩu hay còn gọi là tín dụng nhập khẩu, là loại tín dụng do người nhập khẩu cấp
  15. cho người xuất khẩu để nhập hàng thuận lợi. Hình thức tồn tại của loại tín dụng nay là tiền ứng trước để nhập hàng. Việc ứng tiền trước có tính chất khác nhau tùy theo từng trường hợp cụ thể. Nếu người xuất khẩu thiếu vốn do phải thực hiện các hợp đồng xuất khẩu có kim ngạch lớn thì tiền ứng trước mang tính chất tín dụng; còn ngược lại, nếu người xuất khẩu không tin vào khả năng thực hiện hợp đồng của người nhập khẩu mà bắt phải đặt cọc cho việc giao hàng, tiền ứng trước mang tính chất là vật đảm bảo thực hiện hợp đồng. Khoản tiền ứng trước được hoàn trả bằng cách khấu trừ dần vào số tiền hàng theo tỷ lệ cố định hoặc theo tỷ lệ tăng dần hoặc chỉ một lần vào chuyến hàng giao cuối cùng. 3. Tín dụng thương mại nội địa: Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá. Tín dụng thương mại phát sinh là do xảy ra hiện tượng có một số doanh nghiệp có hàng hoá muốn bán, trong khi đó một số doanh nghiệp khác muốn mua nhưng không thể thanh toán ngay tức thời trong trường hợp này trên cơ sở quen biết, tín nhiệm nhau họ có thể thoả thuận một quan hệ vay mượn. Nhờ vậy, người bán có thể giải phóng nhanh lượng hàng hoá của mình giảm bớt những chi phí về bảo quản hàng hoá, ngược lại người mua mặc dù chưa có thể thanh toán ngay lập tức nhưng vẫn có được hàng hoá đưa vào chu kỳ sản xuất mới. Hành vi mua bán chịu hàng hoá được xem là hình thức tín dụng, bởi lẽ người bán chuyển giao cho người mua được sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định và khi đến thời hạn đã được thoả thuận thì người mua phải hoàn trả lại vốn cho người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu. Cơ sở pháp lý xác định quan hệ nợ nần của tín dụng thương mại là giấy nợ, được gọi là kỳ phiếu thương mại hay gọi tắt là thương phiếu. Tín dụng ngân hàng là giao dịch tài sản giữa các định chế tài chính với bên đi vay (là các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền kinh tế) trong đó các định chế tài chính chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả vốn gốc và lãi cho các tổ chức tín dụng khi đến hạn thanh toán. 2.2 Các lý thuyết liên quan Tín dụng thương mại
  16. Lý thuyết về tín dụng thương mại được khởi xướng bởi Goff (1957) và sau đó được phát triển bởi nhiều nhà nghiên cứu những năm sau này như: Schwart (1974), Schwart và Whitcomb (1978); Ferris (1981), Smith (1987), Biais và Gollier (1987), Peterson và Rajan (1997)… Tín dụng thương mại là một thỏa thuận giữa người mua và người bán, trong đó người bán cho phép thanh toán chậm cho sản phẩm của mình thay vì thanh toán bằng tiền mặt hay thanh toán ngay (Mian và Smith (1992)). Rất nhiều các lý thuyết đã được đề nghị để giải thích tại sao các công ty phi tài chính sử dụng tín dụng thương mại khi mà đã có các ngân hàng và các định chế tài chính khác. Quan điểm hỗ trợ tài chính của tín dụng thương mại xem xét tín dụng thương mại có ý nghĩa mở rộng tài trợ từ những công ty có tài chính mạnh mẽ hơn cho các đối tác thương mại cần thiết. Quan điểm này tập trung vào việc giải thích tại sao các đối tác thương mại có thể đóng vai trò tài trợ tốt hơn các định chế tài chính thứ ba. Một quan điểm khác của tín dụng thương mại nhấn mạnh các mục đích khác rằng nó có thể tạo ra thông qua tín dụng thương mại như tiết kiệm chi phí giao dịch, đảm bảo chất lượng, phân biệt giá. Các quan điểm đó không loại trừ lẫn nhau và mỗi quan điểm đều có hỗ trợ từ thực nghiệm. Làm thế nào mà tín dụng thương mại phản ứng với chính sách tiền tệ? Meltzer (1960) đã đề xuất các lý thuyết tái phân phối trong suốt thời kỳ thắt chặt tín dụng, các nhà cung cấp lớn thông qua các quỹ với tín dụng thương mại (các khoản phải thu của họ) để giảm luân chuyển các khách hàng (các người mua). Các nghiên cứu thực nghiệm, tuy nhiên, phát hiện các kết quả là không thống nhất là liệu có hay không việc gia tăng tín dụng thương mại trong suốt thời kỳ thu hẹp tiền tệ (xem bài của Ramey (1992); Getler và Gilchirist (1993); Nilsen (2002)). Sử dụng dữ liệu giữa năm, Nilsen (2002) đã phát hiện ra rằng trong suốt thời kỳ thu hẹp tiền tệ, cả các công ty lớn và công ty nhỏ sử dụng nhiều hơn các khoản phải trả, việc kiểm soát các giao dịch thúc đẩy bởi việc sử dụng chỉ số khoản phải trả/doanh thu. Các công ty nhỏ không cắt giảm các khoản Tín dụng ngân hàng một cách tự nguyện, nhưng gia tăng các khoản phải trả, như là một sự thay thế cho các khoản tín dụng ngân hàng. Nhưng ông ấy lại có đưa ra suy nghĩ không thống nhất rằng các công ty lớn cũng gia tăng các khoản phải trả. Để thấy được vị thế tín dụng thương mại của một công ty tư nhân tác động như thế nào với chính sách tiền tệ. Chúng ta cần phải nhìn vào cả hai phía của tín dụng thương mại công ty, các khoản phải thu và
  17. các khoản phải trả. Chúng di chuyển một cách khác nhau, vì thế làm thay đổi vị thế ròng của tín dụng thương mại, phụ thuộc vào các định tính công ty như sức mạnh thị trường và mối quan hệ khách hàng. Không có các bài nghiên cứu tồn tại dù đã kiểm định tác động của chính sách tiền tệ lên tín dụng thương mại cấp công ty. Tín dụng thương mại là công cụ tài trợ được cung cấp bởi các nhà cung cấp đến các khách hàng của họ. Nguồn cung của tín dụng thương mại (Các khoản khoản phải thu) đại diện cho một phương tiện để thúc đẩy doanh số bán hàng của công ty, có thể coi như là việc tài trợ vốn lưu động cho công ty khác, mà các công ty này có thể có quy mô nhỏ hay phải đối mặt với vấn đề hạn chế tín dụng (Marotta, (2005); McMillan và Woodruff, (1999)). Mặt khác, về phía cầu của tín dụng thương mại (khoản phải trả) đại diện cho tín dụng mà một công ty vay mượn từ nhà cung cấp của họ mà nó nhận được khi mua hàng hóa mà chưa phải thanh toán ngay cho nhà cung cấp. So với các kênh tài trợ chính thức, như Tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại đã gần như đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì tăng trưởng bền vững của các công ty (Garmaise và Moskowitz (2003). Như vậy, nó cũng là một nguồn tài trợ quan trọng cho các công ty cả các công ty nhỏ và lớn trên toàn thế giới (Demirgüç-Kunt và Maksimovic (1999)). Chi phí của tài trợ thương mại phụ thuộc vào kỳ hạn của các khoản tín dụng. Nhìn chung, lãi suất ngầm định được ghi nhận trong các hợp đồng tín dụng được kỳ vọng sẽ cao hơn lãi suất vay ngân hàng. Mặc dù chi phí cao hơn của nó, tín dụng thương mại được sử dụng rộng rãi bởi tính tiện dụng của nó và rất nhiều công ty không thể tiếp cận các khoản vay ngân hàng, đặc biệt là ở các nền kinh tế đang phát triển nơi mà tài trợ chính thức là không đầy đủ và tài trợ phi chính thức là khá phổ biến. Sự phát triển hệ thống tài chính chính thức mà đại diện là của khu vực ngân hàng đã được chứng minh là công cụ để cải thiện hiệu quả phân bổ nguồn lực và tăng trưởng kinh tế chủ yếu (xem bài của King và Levine (1993); Levine và Zervos (1998); Guiso, Sapienza và Zingales (2002)). Đồng thời, các kênh tài trợ phi chính thức như tín dụng thương mại được cho là đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì tăng trưởng bền vững ở hầu hết các quốc gia đang phát triển và mới nổi (xem bài nghiên cứu của Garmaise và Moskowitz (2003); Guiso, Sapienza và Zingales (2004). Tuy nhiên câu hỏi đặt ra, kênh nào trong hai kênh tài trợ là quan trọng hơn cho sự tăng trưởng của các công ty. Điều này đặc biệt thích hợp cho các nền kinh tế
  18. mới nổi và chuyển đổi, nơi mà tài trợ chính thức là không đầy đủ và tài chính phi chính thức là phổ biến. Và câu trả lời cho câu hỏi này là rất quan trọng cho các khuyến nghị chính sách phát triển tài chính ở các nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi mà cụ thể là ở Việt Nam. Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009 đã được đặc trưng bởi việc thắt chặt tín dụng. Trong suốt thời gian khủng hoảng tài chính, các ngân hàng trở nên miễn cưỡng hơn để cho vay thậm chí đối với các doanh nghiệp có xếp hạng tín dụng cao. Petersen và Rajan (1997) phát hiện ra rằng các doanh nghiệp sẽ tăng tín dụng thương mại khi họ phải chịu các dòng tiền âm và giảm doanh thu. Ngoài ra, các nhà cung cấp có thể khai thác nó để có được điều kiện tín dụng tốt hơn trong một sự hạn chế về tài chính khi khách hàng có những lợi thế thương lượng. Khi những công ty có hàng tồn kho cao, dù nguyên liệu hay thành phẩm, nó sẽ sử dụng tín dụng thương mại ít hơn vì họ cũng mua ít hơn và chờ cho hàng tồn kho được bán ra ngoài. Ferris (1981) quan sát thấy rằng các công ty có thể làm giảm các vấn đề của họ bằng cách điều chỉnh kỳ hạn giữa các khoản phải trả và phải thu. Đó là, họ có thể phân chia các chu kỳ thanh toán từ chu kỳ giao hàng. Hơn nữa, người mua có thể có động cơ hơn các ngân hàng để cung cấp cho các doanh nghiệp vốn lưu động khi họ gặp phải cú sốc thanh khoản tạm thời. Ví dụ, Choi và Kim (2005) thấy rằng cả khoản phải trả và khoản phải thu cùng gia tăng với chính sách tiền tệ thắt chặt, ngụ ý rằng tín dụng thương mại sẽ giúp các doanh nghiệp hấp thụ ảnh hưởng của một cú sốc thu hẹp tín dụng. Petersen và Rajan (1997) phát hiện ra rằng các công ty có thể sử dụng tín dụng thương mại nhiều hơn khi các mối quan hệ với ngân hàng là yếu. Wilner (2000) cho rằng các nhà cung cấp có xu hướng hỗ trợ khách hàng của họ trong tình huống lâm vào trình trạng kiệt quệ tài chính để duy trì một mối quan hệ thương mại lâu dài. Từ các bài nghiên cứu nói trên, trong cuộc khủng hoảng tài chính, tín dụng thương mại sẽ trở nên tương đối quan trọng như là một nguồn tài trợ và việc sử dụng tín dụng thương mại cần được gia tăng. Đặc biệt, tín dụng thương mại có tiềm năng để phục vụ như là sự thay thế của các nguồn tài trợ chính thức, được cung cấp bởi các nhà cung, các hình thức tài trợ đó của nhà cung cấp có thể tốt hơn để vượt qua vấn đề bất cân xứng thông tin và thực thi vấn đề của các định chế tài chính (Love và Zaidi (2010)). Lợi thế này cho thấy rằng sẽ sử dụng tín dụng thương mại nhiều hơn so với các khoản tín dụng ngân hàng trong thời kỳ suy thoái kinh tế và hoạch định chính sách và các doanh nghiệp sẽ khôn ngoan hơn để phát triển tín dụng thương
  19. mại, mà có thể không như mong muốn trong điều kiện kinh tế thông thường, nhưng có thể có ích trong giai đoạn khủng hoảng và thắt chặt tín dụng (Coulibaly, Sapriza và Zlate (2013)). Trong bài nghiên cứu khác, có những giả thuyết thay thế và bổ sung giữa tín dụng thương mại và các tín dụng ngân hàng (Love và các cộng sự (2007)); Demirgüç-Kunt và Maksimovic (2001); Yang (2011). Tác giả sử dụng dữ liệu các công ty của Trung Quốc để kiểm định các hiệu ứng thay thế và bổ sung giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng đối với hai lý do. Đầu tiên, tỷ lệ phần trăm của các khoản nợ phải trả đến trách nhiệm pháp lý tổng thể cho các công ty Trung Quốc có xu hướng tăng lên trong giai đoạn 2006-2012. Chính xác hơn, thành phần của các khoản phải trả trên tổng nợ phải trả của công ty Trung Quốc (không bao gồm các công ty ngành tài chính) đạt 20% trong năm 2012 từ 15% năm 2006. Ngược lại, tỷ lệ nợ ngắn hạn trên tổng số nợ phải trả đã giảm từ 27% năm 2006 xuống 17% vào năm 2012. Tỷ trọng các khoản phải thu trên tổng số nợ phải trả vẫn khá ổn định từ năm 2006 đến năm 2012. Tuy nhiên, Nilsen (2002) cho thấy tỷ lệ của các khoản phải trả lên tổng nợ phải trả chỉ 13% cho các công ty sản xuất ở Mỹ. Theo báo cáo tài chính hàng quý, tỷ lệ phần trăm của các khoản phải trả trên tổng số nợ phải trả của các công ty Hoa Kỳ trung bình là 28% vào năm 2012. Nó là xứng đáng để phân tích rằng cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009 làm giảm tỷ trọng nợ ngắn hạn trên tổng nợ phải trả có liên quan đến khoản nợ phải trả hoặc các khoản phải thu trên tổng nợ phải trả bằng 4 điểm phần trăm. Thứ hai, Trung Quốc thiếu vắng một thị trường tài chính phát triển tốt. Chan và các cộng sự (2007) chỉ ra rằng Trung Quốc là một nền kinh tế dựa trên ngân hàng mặc dù sự phát triển nhanh chóng của hai sàn giao dịch chứng khoán cho phép các công ty Trung Quốc gia tăng vốn từ bên ngoài. Kết quả là, các công ty Trung Quốc muốn tăng trưởng nhanh phải dựa vào các kênh tài trợ phi chính thức hơn là các định chế tài chính chính thức (Allen, Jun và Meijun (2005)). Trong một bài nghiên cứu khác của Quỹ tiền tệ Quốc tế - IMF, “Tín dụng thương mại và tác động của các cú sốc tài chính vĩ mô - Bằng chứng từ dữ liệu bảng của các công ty tại Mỹ” của tác giả Sunil Sharma cũng đã khái quát các lý thuyết và ngụ ý về tín dụng thương mại trong từ các nghiên cứu trước đó các quan điểm đó có thể phân làm các quan điểm chính sau: Quan điểm hỗ trợ tài chính của tín dụng thương mại; Chi phí giao dịch của Tín dụng thương
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2