intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Thực hiện pháp luật về lưu trữ trong cơ quan Bộ Nội vụ

Chia sẻ: Ocxaodua999 Ocxaodua999 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

44
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu thực hiện pháp luật về lưu trữ tại cơ quan Bộ Nội vụ, từ đó tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả, đề cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện pháp luật về lưu trữ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Thực hiện pháp luật về lưu trữ trong cơ quan Bộ Nội vụ

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ………../……….. …/… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ KIM DUNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LƢU TRỮ TRONG CƠ QUAN BỘ NỘI VỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính HÀ NỘI, NĂM 2019
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ………../……….. …/… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ KIM DUNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LƢU TRỮ TRONG CƠ QUAN BỘ NỘI VỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ĐỨC CƢỜNG HÀ NỘI, NĂM 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Đức Cường. Các số liệu và nội dung nghiên cứu được trình bày trong luận văn này là trung thực, khách quan, khoa học dựa trên kết quả điều tra, khảo sát thực tế các tài liệu đã được công bố. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Thị Kim Dung
  4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn với đề tài “Thực hiện pháp luật về lưu trữ trong cơ quan Bộ Nội vụ”, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban chủ nhiệm và các Thầy, Cô giáo tại Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Hành chính Quốc gia đã trang bị cho tôi những kiến thức lý luận về chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính để tôi có nền tảng nghiên cứu đề tài. Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Đức Cường đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thiện luận văn này. Tôi cũng xin cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp đã luôn quan tâm giúp đỡ, cung cấp số liệu, chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế để giúp tôi có thể hoàn thành Luận văn. Trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng năm 20… HỌC VIÊN Nguyễn Thị Kim Dung
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU……………………………………………………………………. 01 CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LƢU TRỮ………………………………………………………………………….. 09 1.1. Khái quát pháp luật về lƣu trữ tại Việt Nam……………………..... 09 1.2. Khái niệm, đặc điểm và hình thức thực hiện pháp luật về lƣu trữ… 14 1.2.1. Khái niệm pháp luật về lưu trữ…………………………………………….. 14 1.2.2. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về lưu trữ………………….... 15 1.2.3. Hình thức thực hiện pháp luật về lưu trữ………………………………... 17 1.3. Nội dung thực hiện pháp luật về lƣu trữ……………………………. 20 1.3.1. Thực hiện pháp luật về quản lý lưu trữ………………………………….. 21 1.3.2. Thực hiện pháp luật về nghiệp vụ lưu trữ……………………………….. 21 1.4. Chủ thể thực hiện pháp luật về lƣu trữ…………………….………… 22 1.5. Vai trò của thực hiện pháp luật về lƣu trữ…………………………… 22 1.6. Các yếu tố ảnh hƣởng đến pháp luật về lƣu trữ…………………… 24 1.6.1. Yếu tố bên trong…………………………………………………….. 24 1.6.2. Yếu tố bên ngoài…………………………………………………….. 26 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LƢU TRỮ TRONG CƠ QUAN BỘ NỘI VỤ………………………….……………… 29 2.1. Khái quát đặc điểm tình hình của Bộ Nội vụ……………………….... 29 2.1.1. Vị trí, chức năng của Bộ Nội vụ ………………………………………….. 29 2.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Nội vụ ……………………………………. 30
  6. 2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ…….………………………………………. 34 2.1.4. Mô hình tổ chức và nhân sự làm công tác lưu trữ tại cơ quan Bộ Nội vụ 35 2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về lƣu trữ trong cơ quan Bộ Nội vụ… 40 2.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý lưu trữ trong cơ quan Bộ Nội vụ 40 2.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về nghiệp vụ lưu trữ trong cơ quan Bộ Nội vụ 46 2.3. Đánh giá chung về thực hiện pháp luật lƣu trữ trong cơ quan Bộ Nội vụ... 58 2.3.1. Ưu điểm...................................................................................................... 58 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế........................................................ 60 CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LƢU TRỮ TRONG CƠ QUAN BỘ NỘI VỤ........................... 64 3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về lƣu trữ trong cơ quan Bộ Nội vụ.......................................................................................................... 64 3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về lƣu trữ tại cơ quan Bộ Nội vụ trong thời gian tới.................................................................................... 66 3.2.1. Giải pháp chung.................................................................... 66 3.2.2. Giải pháp cụ thể........................................................................... 73 KẾT LUẬN...................................................................................................... 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN PHỤ LỤC
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU STT Tên biểu Trang Danh mục văn bản do Bộ Nội vụ ban hành từ năm Biểu số 2.1 42 2012 đến năm 2018 Danh mục văn bản do Văn phòng Bộ Nội vụ ban Bảng 2.2 44 hành từ năm 2012 đến năm 2017
  8. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích làm cho quy định của pháp luật trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Việc thực hiện pháp luật có ý nghĩa to lớn trong đời sống, bằng việc thực hiện pháp luật, các quy định của pháp luật từ trong các nguồn luật khác nhau đã đi vào đời sống, trở thành hành vi thực tế của các chủ thể. Nhờ đó, pháp luật phát huy vai trò của nó trên thực tế, làm cho đời sống xã hội ổn định, trật tự và có điều kiện phát triển mạnh mẽ, các quyền lợi, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức được bảo đảm, bảo vệ, đời sống xã hội được an toàn. Thông qua việc thực hiện pháp luật, những hạn chế khiếm khuyết (nếu có) của pháp luật sẽ được bộc lộ, nhờ đó, pháp luật có thể được hoàn thiện một cách kịp thời. Trong hoạt động của ngành lưu trữ nước ta cho đến nay đã có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quản lý, chỉ đạo về công tác lưu trữ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành như Pháp lệnh Lưu trữ quốc gia (1982, 2001), Nghị định của Chính phủ (năm 1962, 1963, 1995, 2004), các Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư của các Bộ... Hiện nay, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất đang có hiệu lực thi hành, đó là Luật Lưu trữ được Quốc hội thông qua ngày 01/11/2011. Luật Lưu trữ đã khẳng định vị trí, vai trò của công tác lưu trữ trong sự chỉ đạo, điều hành và hoạt động của hệ thống các cơ quan Đảng, Nhà nước; phục vụ nhu cầu trong đời sống xã hội cũng như trong nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lịch sử… Bộ Nội vụ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn thư, lưu trữ. Trải qua các thời kỳ lịch sử với chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức có nhiều thay 1
  9. đổi, nhiều nhiệm vụ chính trị quan trọng được Đảng và nhà nước giao bổ sung, đồng nghĩa với việc khối lượng tài liệu lưu trữ ngày càng tăng, giá trị tài liệu lưu trữ được nâng lên rõ rệt. Khối tài liệu này đã, đang và sẽ góp phần quan trọng trong việc phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng, nhà nước nói chung và nhiệm vụ chuyên môn nói riêng của Bộ Nội vụ. Việc thực hiện các quy định của pháp luật về lưu trữ luôn được lãnh đạo Bộ Nội vụ quan tâm, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc, trực thuộc triển khai thực hiện. Bên cạnh những ưu điểm đạt được, tại Bộ Nội vụ còn bộc lộ một số hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện pháp luật về lưu trữ, đó là, việc hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý, văn bản nghiệp vụ còn chưa kịp thời; công tác thanh tra, kiểm tra chưa được thực hiện thường xuyên, việc bố trí công chức, viên chức làm công tác lưu trữ còn chưa thực sự được quan tâm; ý thức tuân thủ pháp luật trong công tác lưu trữ của một số thủ trưởng đơn vị và công chức trong Bộ còn nhiều hạn chế... Chính vì vậy, “Thực hiện pháp luật về lưu trữ trong cơ quan Bộ Nội vụ” đã được tác giả lựa chọn làm đề tài luận văn cao học, chuyên ngành Luật Hành chính và Luật Hiến pháp. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm qua, việc nghiên cứu hệ thống văn bản quản lý nhà nước về công tác lưu trữ đã được rất nhiều nhà khoa học, nhà quản lý ngành lưu trữ quan tâm. Ngoài những đề tài nghiên cứu cấp ngành, những luận văn tốt nghiệp còn có rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí, các Kỷ yếu của Hội nghị, Hội thảo. Tuy nhiên, từ góc nhìn pháp luật về lưu trữ, số lượng đề tài nghiên cứu về Luật Lưu trữ và các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực lưu trữ chưa có nhiều. Trong các đề tài, bài viết nội dung chủ yếu quan tâm đến quản lý nhà nước về lưu trữ; lịch sử hình thành, phát triển của ngành lưu trữ Việt Nam; cơ cấu tổ chức lưu trữ từ trung ương đến địa phương; chế độ chính sách đối với công chức, viên chức làm lưu trữ hoặc đánh giá chung về 2
  10. thực trạng tình hình thực hiện quy định của pháp luật về các khâu nghiệp vụ trong công tác lưu trữ, các vấn đề bất cập trong thực hiện nghiệp vụ về lưu trữ…Có thể kể đến một số đề tài, bài viết tiêu biểu như: - Nhóm thứ nhất: Các công trình nghiên cứu khoa học về hệ thống pháp luật về lưu trữ: + Đề tài “Cơ sở khoa học để xây dựng Luật Lưu trữ” do tác giả Dương Văn Khảm làm chủ nhiệm và được nghiệm thu đầu năm 2003. Nội dung chủ yếu của đề tài là giới thiệu khái lược về luật pháp lưu trữ Việt Nam trong tiến trình lịch sử; giới thiệu sơ lược về tình hình xây dựng luật pháp lưu trữ ở nước ngoài; nghiên cứu cơ sở khoa học để xây dựng Luật Lưu trữ Việt Nam ; nghiên cứu về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của Luật Lưu trữ, đề cương khái quát Luật Lưu trữ. Đề tài này có đóng góp rất lớn trong việc xây dựng Luật Lưu trữ ở nước ta [45]. + Bài viết 45 năm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về lưu trữ ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Tâm, nguyên Phó Cục trưởng Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước đăng trên Tạp chí Văn thư - Lưu trữ Việt Nam, số 8/2007, trang 4-7. Nội dung bài viết đề cập đến quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về lưu trữ ở Việt Nam [47]. + Bài viết Văn bản pháp luật và sự phát triển ngành Lưu trữ Việt Nam của tác giả Dương Văn Khảm, nguyên Cục trưởng Cục Lưu trữ nhà nước (nay là Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước) đăng trên Tạp chí Văn thư - Lưu trữ Việt Nam số 8/2017, trang 5-10. Bài viết khái quát chung quá trình xây dựng hệ thống văn bản pháp luật, văn bản quản lý lưu trữ có liên quan đến sự phát triển của Lưu trữ nhà nước Việt Nam trong bối cảnh lịch sử nhất định, trong từng thời kỳ lịch sử [46]. 3
  11. + Bài viết “Lưu trữ học và vấn đề xây dựng pháp luật lưu trữ ở Việt Nam” của Ths.Hà Văn Huề, Giám đốc Trung tâm Lưu trữ quốc gia I đăng trên Cổng thông tin điện tử Đại học Quốc gia Hà Nội nêu một số vấn đề đặt ra về lý luận công tác lưu trữ đối với việc đào tạo ngành lưu trữ học [43]. + Bài viết “Áp dụng các quy định, hướng dẫn của pháp luật và các văn bản quản lý nhà nước trong công tác chỉnh lý tài liệu lưu trữ tại Bộ Nội vụ và một số đề xuất, kiến nghị” của Văn phòng Bộ Nội vụ đăng trong Kỷ yếu Hội thảo về hoạt động chỉnh lý tài liệu lưu trữ tại các Bộ, ngành trung ương do Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước tổ chức năm 2017 đã nêu một số vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quản lý nhà nước trong công tác chỉnh lý tài liệu lưu trữ [32]. - Nhóm thứ hai: Các công trình nghiên cứu, bài viết về quản lý nhà nước về lưu trữ, nghiệp vụ lưu trữ: + Luận văn Thạc sỹ Hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý nhà nước về công tác lưu trữ của tác giả Triệu Văn Cường, năm 2004. Đề tài nghiên cứu các nguyên tắc, yêu cầu và sự cần thiết của việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quản lý nhà nước về công tác lưu trữ; đánh giá ưu điểm, hạn chế bất cập của hệ thống văn bản quản lý nhà nước về công tác lưu trữ ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó nghiên cứu, đề xuất các biện pháp nhằm thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống văn bản qui phạm pháp luật và hướng dẫn nghiệp vụ lưu trữ từ Trung ương đến địa phương, giúp công tác lưu trữ phát triển góp phần vào sự nghiệp xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa ra mô hình hệ thống văn bản quản lý nhà nước về công tác lưu trữ [37]. + Luận văn thạc sỹ Chuẩn hóa năng lực tổ chức, quản lý công tác văn thư, bảo mật, lưu trữ của lãnh đạo văn phòng các cơ quan, đơn vị trong Bộ Quốc phòng của tác giả Nguyễn Quang Đạt, nghiệm thu năm 2017. Luận văn 4
  12. đã đề xuất một số giải pháp nhằm chuẩn hóa năng lực lãnh đạo của lãnh đạo văn phòng các cơ quan, đơn vị như: Năng lực quản lý; chỉ đạo, điều hành tổ chức công việc; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trách nhiệm tổ chức bố trí sắp xếp nhân sự phù hợp với công tác văn thư, bảo mật, lưu trữ; kiểm tra, đánh giá công tác văn thư, bảo mật, lưu trữ của văn phòng các cơ quan, đơn vị [39]. + Luận án Tiến sỹ “Nghiên cứu hiệu quả công bố tài liệu lưu trữ tại Việt Nam” của tác giả Trần Việt Hà, năm 2018. Luận án đã nghiên cứu các kết quả: Tổng quan được tình hình nghiên cứu của Việt Nam và nước ngoài về công bố tài liệu lưu trữ; Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về công bố tài liệu lưu trữ và Phân tích tổng quát, toàn diện thực trạng công bố tài liệu lưu trữ tại Việt Nam, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này tại Việt Nam [40]. Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết, đề tài khoa học liên quan đến ngành Lưu trữ học. Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã đề cập đến các nội dung về hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quản lý nhà nước về công tác lưu trữ …Tuy nhiên, vấn đề về thực hiện pháp luật về lưu trữ nói chung chưa được nhiều tác giả nhắc tới, các đề tài chưa đưa ra nhiều giải pháp đề cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khi để xảy ra vi phạm trong công tác lưu trữ; việc đề xuất các chế tài để xử lý trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khi thực hiện chưa nghiêm túc các quy định của Luật Lưu trữ cũng được đề cập chưa nhiều; nội dung về lưu trữ điện tử cũng là vấn đề mới trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 bước đầu mới được các tác giả quan tâm. Do đó, đề tài mà học viên nghiên cứu trong luận văn này có ý nghĩa thực tiễn trong công tác lưu trữ, tìm ra các giải pháp thực hiện pháp luật về lưu trữ hiệu quả trong cơ quan nhà nước nói chung, nhất là trong bối cảnh xây dựng 5
  13. nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân được đề cao, là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra cho chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: Luận văn nghiên cứu thực hiện pháp luật về lưu trữ tại cơ quan Bộ Nội vụ, từ đó tìm ra giải pháp nâng cao hiệu quả, đề cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện pháp luật về lưu trữ. - Nhiệm vụ: + Phân tích cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về lưu trữ. + Nêu rõ thực trạng của hệ thống pháp luật về lưu trữ hiện nay ở nước ta nói chung và thực trạng thực hiện pháp luật về lưu trữ tại cơ quan Bộ Nội vụ nói riêng. + Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về lưu trữ trong cơ quan Bộ Nội vụ. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Thực hiện pháp luật về lưu trữ - Phạm vi nghiên cứu: cơ quan Bộ Nội vụ. - Giới hạn thời gian nghiên cứu: từ khi Luật Lưu trữ có hiệu lực thi hành (năm 2012 đến nay). 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn - Phương pháp luận: Để hoàn thành các nhiệm vụ nêu trên, học viên đã sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác lưu trữ. 6
  14. - Phương pháp nghiên cứu: Học viên đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu nhằm tìm ra các giải pháp, đề xuất các kiến nghị góp phần thực hiện có hiệu quả pháp luật về lưu trữ tại cơ quan Bộ Nội vụ, bao gồm: + Phương pháp phân tích, tổng hợp…được sử dụng khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về lưu trữ. + Phương pháp lịch sử được sử dụng để nêu quá trình sự hình thành phát triển của hệ thống pháp luật và việc thực hiện pháp luật về lưu trữ. + Phương pháp so sánh, thống kê được sử dụng khi đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về lưu trữ tại cơ quan Bộ Nội vụ. + Phương pháp thu thập thông tin được sử dụng để thu thập và khai thác các thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu, nghị quyết, quyết định của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực lưu trữ. - Phương pháp bình luận, phương pháp quy nạp, phương pháp tổng hợp… được sử dụng khi nghiên cứu về các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về lưu trữ ở Việt Nam và cơ chế bảo đảm thực hiện trong thực tiễn đời sống. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa lý luận: Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn diện về việc thực hiện pháp luật về lưu trữ tại cơ quan Bộ Nội vụ. Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn thực hiện pháp luật về lưu trữ tại cơ quan Bộ Nội vụ hiện nay. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn góp phần đánh giá được thực trạng thực hiện pháp luật về lưu trữ ở nước ta nói chung và trong cơ quan Bộ Nội vụ nói 7
  15. riêng, từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về lưu trữ trong cơ quan Bộ Nội vụ. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về lưu trữ Chương 2: Thực hiện pháp luật về lưu trữ trong cơ quan Bộ Nội vụ Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về lưu trữ trong cơ quan Bộ Nội vụ 8
  16. Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ LƢU TRỮ 1.1. Khái quát pháp luật về lƣu trữ tại Việt Nam Ngay từ những ngày đầu giành được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến công tác lưu trữ và tài liệu lưu trữ, coi đây là công cụ để quản lý, điều hành đất nước. Đã có rất nhiều văn bản của Đảng, Nhà nước quy định đối với công tác công văn, giấy tờ và công tác lưu trữ được ban hành, tạo điều kiện cho sự phát triển của ngành văn thư, lưu trữ từ Trung ương đến địa phương từng bước được hoàn thiện. Khởi đầu quy định về công tác văn thư, lưu trữ là Thông đạt số 1C/VP ngày 03 tháng 01 năm 1946 về công tác công văn giấy tờ do Chủ tịch Hồ Chí Minh - Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký, trong đó Người đã chỉ rõ “Tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt về phương diện kiến thiết quốc gia”, Người yêu cầu các Bộ trưởng, ban “chỉ thị cho nhân viên các sở phải giữ gìn công văn, tài liệu và cấm không được hủy bỏ các công văn, tài liệu ấy”, “Hồ sơ hoặc công văn không cần dùng sau này sẽ phải gửi về những Sở lưu trữ công văn thuộc Bộ Quốc gia giáo dục để tàng trữ”. Sau một thời gian xây dựng bộ máy nhà nước, công tác văn thư, lưu trữ lần đầu tiên được đề cập một cách có hệ thống trong Điều lệ về công tác công văn giấy tờ và công tác văn thư, lưu trữ, ban hành kèm theo Nghị định 142/CP năm 1963 của Chính phủ. Điều lệ này ban hành nhằm thống nhất việc quản lý công tác công văn, giấy tờ và công tác lưu trữ của các cơ quan, xí nghiệp. Lần đầu tiên bản Điều lệ đã quy định trách nhiệm của Cục Lưu trữ Phủ Thủ tướng trong việc quản lý thống nhất nghiệp vụ lưu trữ của các cơ quan nhà nước và các đoàn thể nhân dân trong toàn quốc; quy định hệ thống kho lưu trữ ở 9
  17. Trung ương và các khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; quy định ở mỗi cơ quan phải có bộ phận hoặc phòng lưu trữ để bảo quản hồ sơ, tài liệu lưu trữ của cơ quan và nhiệm vụ của tổ chức này. Trong những năm qua, các quy định của bản Điều lệ đã tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho việc thiết lập, quản lý và tổ chức thực hiện một cách thống nhất công tác công văn, giấy tờ và công tác lưu trữ ở các cấp, các ngành, góp phần cải tiến lề lối làm việc và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hành chính của các cơ quan nhà nước cũng như đoàn thể nhân dân từ trung ương đến địa phương. Sau ngày thống nhất đất nước, xuất phát từ yêu cầu quản lý tập trung thống nhất tài liệu lưu trữ quốc gia để tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác, sử dụng tài liệu lưu trữ phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngày 26 tháng 12 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định số 168-HĐBT thành lập Phông Lưu trữ quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyết định đã khẳng định Phông Lưu trữ quốc gia Việt Nam là: “tài sản xã hội chủ nghĩa hết sức quan trọng và quý giá, mà các cơ quan nhà nước, đoàn thể nhân dân, tổ chức xã hội và mọi công dân Việt Nam phải có nghĩa vụ và trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ chu đáo”; “Hồ sơ, tài liệu của Phông Lưu trữ quốc gia Việt Nam phải được bảo quản trong các kho lưu trữ trung ương và địa phương” và “cần được công bố, giới thiệu cho các cơ quan, cán bộ và nhân dân khai thác, nghiên cứu, sử dụng…”. Một năm sau ngày ban hành Quyết định về thành lập Phông Lưu trữ quốc gia Việt Nam, ngày 30 tháng 11 năm 1982, Hội đồng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Pháp lệnh bảo vệ tài liệu lưu trữ quốc gia. Đây là văn bản pháp luật cao nhất tính đến thời điểm đó về công tác lưu trữ. Pháp lệnh được ban hành đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về lưu trữ ở nước ta. Căn cứ vào các quy định của Pháp lệnh, ngày 01 tháng 3 năm 1984, Hội đồng Bộ 10
  18. trưởng đã ban hành Nghị định số 34-HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn là tổ chức của Cục Lưu trữ nhà nước, theo đó Cục Lưu trữ Phủ Thủ tướng đổi tên thành Cục Lưu trữ nhà nước và là cơ quan thuộc Hội đồng Bộ trưởng. Cục có nhiệm vụ giúp Hội đồng Bộ trưởng quản lý tập trung, thống nhất tài liệu lưu trữ quốc gia. Để tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức lưu trữ, Cục Lưu trữ nhà nước đã ban hành Thông tư số 221 và 222/LT-TC ngày 05 tháng 11 năm 1984 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức Phòng Lưu trữ ở các Bộ, ngành, các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, nhất là do có sự chồng chéo trong các quy định của nhà nước về tổ chức bộ máy ở các Bộ, ngành và địa phương nên đến cuối năm 1992, theo số liệu báo cáo thống kê, cả nước mới chỉ có 17 Bộ, Uỷ ban nhà nước và các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng và 4 tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương thành lập được Phòng Lưu trữ đặt trong Văn phòng (hoặc Phòng Lưu trữ - Tư liệu hoặc Phòng Pháp chế - Lưu trữ). Mặc dù mức độ khả thi của các văn bản trên còn có những hạn chế, nhưng nó đã góp phần kiện toàn hệ thống tổ chức ở nước ta. Trong công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động lưu trữ phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với xu thế phát triển của khoa học công nghệ và đường lối mở cửa, hội nhập với các nước, ngày 04 tháng 4 năm 2001, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Pháp lệnh Lưu trữ quốc gia với 5 chương, 31 điều để thay cho Pháp lệnh bảo vệ tài liệu lưu trữ quốc gia năm 1982. Một trong những điểm mới của quy định trong Pháp lệnh năm 2001 là “Lưu trữ quốc gia đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý thống nhất của Nhà nước” và “Nhà nước đầu tư kinh phí thích đáng đáp ứng yêu cầu quản lý tài liệu lưu trữ quốc gia”. Đặc biệt, Pháp lệnh không chỉ quy định rõ những nội 11
  19. dung cơ bản về quản lý và sử dụng tài liệu lưu trữ, mà còn quy định rất cụ thể những nội dung quản lý nhà nước về lưu trữ. Ngày 08 tháng 4 năm 2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định 111/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Lưu trữ quốc gia. Việc ban hành Pháp lệnh và Nghị định trên đây đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn thư, lưu trữ ở nước ta. Phạm vi điều chỉnh trong Nghị định 111/2004/NĐ-CP được xác định rõ về hai vấn đề: quản lý công tác lưu trữ và quản lý tài liệu lưu trữ. Đây chính là cơ sở quan trọng để phân định rõ chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý sự nghiệp của các tổ chức văn thư, lưu trữ ở nước ta, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước. Thực hiện trách nhiệm được giao, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước đã tham mưu và trình cấp có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản có tính pháp lý để quy định và hướng dẫn nghiệp vụ, công tác lưu trữ như: Thông tư số 30/2004/TT-BTC ngày 07 tháng 4 năm 2005 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí khai thác sử dụng tài liệu lưu trữ; Thông tư số 46/2005/TT-BNV ngày 27 tháng 4 năm 2005 của Bộ Nội vụ hướng dẫn quản lý tài liệu khi chia tách, sáp nhập cơ quan, tổ chức, đơn vị hành chính và tổ chức lại, chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp nhà nước; Thông tư số 04/2006/TT-BNV ngày 11 tháng 4 năm 2006 của Bộ Nội vụ hướng dẫn xác định cơ quan, tổ chức thuộc nguồn nộp lưu tài liệu vào lưu trữ lịch sử các cấp; Quyết định số 37/QĐ-BTC ngaỳ 11 tháng 7 năm 2006 của Bộ Tài chính ban hành Bảng giá dịch vụ chỉnh lý tài liệu nền giấy tiếng Việt; Thông tư số 09/2007/TT-BNV ngày 26 tháng 11 năm 2007 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về kho lưu trữ chuyên dụng; Thông tư số 03/2010/TT-BNV ngày 29 tháng 4 năm 2010 của Bộ Nội vụ quy định định mức kinh tế - kỹ thuật chỉnh lý tài liệu giấy; Thông tư số 12/2010/TT-BNV ngày 26 tháng 11 năm 2010 hướng 12
  20. dẫn phương pháp xác định đơn giá chỉnh lý tài liệu giấy; Thông tư 09/2011/TT-BNV ngày 03 tháng 6 năm 2011 của Bộ Nội vụ quy định về thời hạn bảo quản hồ sơ, tài liệu hình thành phổ biến trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức; Thông tư 13/2011/TT-BNV ngày 24 tháng 10 năm 2011 của Bộ Nội vụ quy định thời hạn bảo quản hồ sơ, tài liệu hình thành trong hoạt động của UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;… Ngày 11 tháng 11 năm 2011 đánh dấu mốc sự kiện quan trọng trong lịch sử xây dựng và phát triển ngành Lưu trữ Việt Nam, Luật Lưu trữ, với 7 chương và 42 điều đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 2 biểu quyết thông qua và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2012, đánh dấu sự hoàn thiện về cơ sở pháp lý cao nhất cho một lĩnh vực hoạt động quan trọng của nhà nước, nhờ đó mà công tác lưu trữ, lĩnh vực hoạt động quan trọng không thể thiếu của bất kỳ nhà nước, cơ quan, tổ chức nào, được thể chế bằng Luật tạo cơ sở pháp lý cao nhất để công tác lưu trữ được quản lý và thực hiện thống nhất; tài liệu lưu trữ được tăng cường bảo vệ phát huy tối đa giá trị đích thực và vốn có. Cùng với đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2013/NĐ-CP ngày 03 tháng 01 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Lưu trữ, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 3 năm 2013, trong đó quy định về quản lý tài liệu lưu trữ điện tử; thời hạn nộp lưu tài liệu lưu trữ của ngành công an, quốc phòng, ngoại giao và của ngành khác vào Lưu trữ lịch sử, một số trường hợp đặc biệt khi sử dụng tài liệu lưu trữ liên quan đến cá nhân và thẩm quyền, thủ tục cấp, thu hồi Chứng chỉ hành nghề lưu trữ. Từ sau khi Luật Lưu trữ được thông qua và có hiệu lực đến nay, Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước đã tham mưu, trình Bộ Nội vụ đã ban hành hệ thống các Thông tư quy định về nghiệp vụ lưu trữ như: Thông tư số 07/2012/TT-BNV ngày 22 tháng 11 năm 2012 hướng dẫn quản lý văn bản, lập hồ sơ và nộp lưu hồ sơ, tài liệu vào Lưu trữ cơ quan; Thông tư 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2