intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:73

41
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu về một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật và chính sách áp dụng pháp luật của TTHS đối với bị cáo trên cơ sở bảo đảm quyền con người. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN ANH HOÀNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN ĐIỆP Tháng 8, năm 2020
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Nguyễn Anh Hoàng
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU....................................................................................................................1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ......................................5 1.1. Khái niệm quyền con người...............................................................................5 1.2. Khái niệm quyền con người trong TTHS Việt Nam và luật pháp quốc tế.........5 1.3 Khái niệm bị cáo trong luật TTHS Việt Nam....................................................7 1.4. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử theo Luật Quốc Tế............8 1.5. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 2015 đến nay………………………………….………………………15 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH…….................................................................................................................26 2.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh................................26 2.2. Những hạn chế, bất cập trong việc bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh................................28 2.3. Nguyên nhân của tình hình oan, sai trong hoạt động xét xử…………………47 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ............................................................51 3.1 Nhóm giải pháp về hoàn thiện một số nguyên tắc tố tụng.................................51 3.2 Giải pháp hoàn thiện các thủ tục tố tụng............................................................54
  4. 3.3 Nhóm giải pháp hoàn thiện quy định về các chủ thể tố tụng: địa vị pháp lý của bị cáo; quyền hạn, trách nhiệm, thẩm quyền.......cơ quan tiến hành tố tụng......................54 3.4 Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định khác...................................................61 KẾT LUẬN..............................................................................................................64 TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS 2015: Bộ luật dân sự 2015 BLHS 2015: Bộ luật hình sự 2015 BLTTDS: Bộ luật tố tụng dân sự BLTTHS 2015: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra ĐTV: Điều tra viên KSV: Kiểm sát viên LS: Luật sư NBC: Người bào chữa PLTTHS: Pháp luật tố tụng hình sự TAND: Tòa án nhân dân TTHS: Tố tụng hình sự THTT: Tiến hành tố tụng VAHS: Vụ án hình sự VKSND: Viện kiểm sát nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Quyền con người là những nội dung quan trọng của Hiến pháp, kết tinh những giá trị cao đẹp trong nền văn hóa của các dân tộc. Đây không chỉ là những ngôn ngữ chung mà còn là “sản phẩm chung”, “mục tiêu chung” của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới Bảo đảm quyền con người là một trong những yêu cầu, nhiệm vụ cơ bản và quan trọng nhất trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ phương hướng, nhiệm vụ: “….hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Hoạt động tố tụng hình sự là hoạt động liên quan rất chặt chẽ với quyền con người, là hoạt động sử dụng quyền lực nhà nước để cưỡng chế; là nơi quyền con người của các chủ thể tố tụng, đặc biệt là bị can, bị cáo có nguy cơ dễ bị xâm hại nhất, vì sử dụng các biện pháp ngăn chặn ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của con người. Thực tiễn trong những năm qua cho thấy vẫn còn nhiều trường hợp vi phạm quyền con người trong quá trình tiến hành tố tụng. Những vi phạm thường biểu hiện như: vi phạm các thủ tục tố tụng trong xét xử, tranh tụng, bào chữa, áp dụng và viện dẫn sai điều luật, nhận định sai tình tiết vụ việc….Các hành vi này không những xâm phạm trực tiếp quyền cơ bản của con người là quyền công bằng, quyền tự do thân thể, sức khỏe, tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con người mà còn xâm phạm đến nền pháp chế XHCN, làm mất niềm tin của nhân dân vào các cơ quan pháp luật. Những vi phạm trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến là do trình độ năng lực ý thức tuân thủ pháp luật của các cán bộ trong các cơ quan tố tụng còn hạn chế, tiếp đến là chính sách pháp luật hình sự, tố tụng hình sự chưa rõ ràng, chi tiết, vẫn còn tồn tại những hạn chế bất cập 6
  7. dẫn đến có sự áp dụng tùy tiện, lạm dụng và không đồng bộ ở một số nơi.Có thể nói nghiên cứu quyền con người, đặc biệt của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và công cuộc cải cách tư pháp nói riêng ở nước ta. Vì vậy mà tác giả chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” để thực hiện nghiên cứu viết luận văn thạc sĩ nhằm đưa ra các kiến nghị hoàn hiện hệ thống pháp luật TTHS Việt Nam trên nguyên tắc bảo đảm những quyền cơ bản của con người. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Từ góc độ nghiên cứu về quyền con người nói chung có công trình “Lý luận pháp luật về quyền con người” của Khoa Luật ĐHQG Hà Nội do Nguyễn Đăng Dung chủ biên; “Giáo dục quyền con người ở Việt Nam hiện nay” của Học viện KHXH do Võ Khánh Vinh chủ biên, “Tư tưởng Việt Nam về Quyền con người” của Phạm Hồng Thái... Từ góc độ nghiên cứu quyền con người trong lĩnh vực Tư pháp có “Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam” (Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2010); “Quyền con người trong tư pháp hình sự” của Nguyễn Ngọc Chí... Ngoài ra trong các đề tài nghiên cứu khoa học là Luận văn, luận án có một số tác giả chọn vấn đề bảo vệ quyền con người trong luật hình sự như Luận án của Lại văn Trình, ĐH Luật TpHCM năm 2011, Trần Hưng Bình, Học viện KHXH năm 2013, Luận văn Ngô Thi Thanh, ĐHQG Hà Nội 2013….. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu về một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật và chính sách áp dụng pháp luật của TTHS đối với bị cáo trên cơ sở bảo đảm quyền con người. 7
  8. Để thực hiện mục đích đó luận văn có những nhiệm vụ sau: - Thứ nhất, làm rõ khái niệm bị cáo, quyền của bị cáo trong TTHS Việt Nam, xác định và phân tích cơ sở pháp lý và nội dung các quyền của bị cáo trong xét xử; thủ tục tố tụng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nghiên cứu so sánh lịch sử hình thành và phát triển quyền của bị cáo và thủ tục tố tụng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong hệ thống tư pháp hình sự thế giới và Việt Nam; xác định các cơ chế, điều kiện bảo đảm hiện thực hóa các quyền đó trong điều kiện thực tế của Việt Nam. - Thứ hai, đánh giá thực trạng các qui định pháp luật về quyền của bị cáo và thủ tục tố tụng hình sự; thực trạng thực hiện các quyền và thủ tục đó ở Việt Nam từ 2003 đến nay, bao gồm: làm rõ nghĩa vụ thực thi của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nêu và phân tích bằng các số liệu, tình huống điển hình về bức tranh hiện thực phản ánh việc bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời so sánh với kinh nghiệm một số nước trên thế giới. Từ đó đề xuất phương pháp để bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quan điểm khoa học, các quy định của luật TTHS hiện hành và thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh trong việc bảo đảm quyền con người của bị cáo. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm tại Thành phố Hồ Chí Minh từ giai đoạn 2010 đến nay. 8
  9. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật về cải cách tư pháp. - Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống: Phân tích, tổng hợp, lịch sử cụ thể, thống kê, khảo sát thực tế... của các Tòa án trên địa bàn TpHCM. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa đối với việc hoàn thiện pháp luật, đóng góp thêm vào sự phát triển lý luận về việc thực hiện bảo đảm quyền con người trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự . Với việc đề xuất các giải pháp, trong đó có việc đưa ra một số giải pháp – kiến nghị góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS Việt Nam 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan lập pháp trong hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự, đồng thồi cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy trong các trường Đại học và học viện. 7. Kết cấu của luận văn. Nội dung của Luận văn gồm 2 chương: Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm hình sự. Chương 2. Thực trạng bảo đảm quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử xét xử sơ thẩm hình sự tại TpHCM. Chương 3. Giải pháp bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử sơ thẩm hình sự 9
  10. Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA BỊ CÁO TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm chung về quyền con người Theo Từ điển Luật học đã đưa ra quan niệm về quyền con người là: “Quyền của thành viên trong xã hội loài người – quyền của tất cả mọi người. Đó là nhân phẩm, nhu cầu, lợi ích và năng lực của con người được thể chế hóa (ghi nhận) trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia”. Theo quan điểm của các nhà triết học, chính trị học thời kỳ Khai sáng (thế kỷ XVII) thì quyền con người là các quyền không thể tước bỏ được; đây là các quyền tự nhiên (natural right) do tạo hóa ban cho họ mang tính bẩm sinh, vốn có của các cá nhân, khi sinh ra đã được thừa hưởng. Các quyền này không một xã hội hay một chính phủ nào có thể ban phát, xóa bỏ hoặc “chuyển nhượng” và nó không phụ thuộc vào các phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa,… đây là các quyền vốn có của các cá nhân. Theo quan điểm của tác giả đây là định nghĩa đầy đủ và mang tính bao quát nhất về quyền con người. Mặc dù nó ra đời từ thế kỷ XVII nhưng vẫn còn nguyên tính giá trị cho đến ngày nay, kế thừa quan điểm này các nhà chính trị đã phát triển định nghĩa quyền con người để làm kim chỉ nam cho các tuyên ngôn đó là: “Quyền sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc” 1.2. Khái niệm quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam và luật pháp quốc tế. Tố tụng hình sự là quá trình giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật bao gồm các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Mỗi giai đoạn tố tụng thực hiện chức năng khác nhau nhưng chúng có mối liên hệ thống nhất cùng hướng về mục đích là giải quyết vụ án hình sự. Hoạt động tố tụng hình sự một mặt là phát hiện và xử lý tội phạm, bảo vệ người bị hại trước hành vi vi phạm của tội phạm nhưng cũng đồng thời phải bảo vệ quyền con người. Ở đây tác giả chỉ muốn đề cập đến 10
  11. các khái niệm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn tố tụng xét xử sơ thẩm. Theo Hiến pháp 2013 đã nêu rõ: “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án có hiệu lực của pháp luật”, vì vậy trong các giai đoạn TTHS chưa có kết luận của Tòa án thì bị can, bị cáo vẫn chưa bị coi là có tội, thậm chí theo nguyên tắc của luật TTHS bản án có hiệu lực khi bản án đó phải tuân theo đúng quy trình thủ tục TTHS thì bản án mới được thi hành, vì vậy quyền con người, thậm chí quyền công dân của họ vẫn phải được bảo đảm trước và trong quá trình xét xử. Có thể thấy rằng, hoạt động TTHS là sử dụng quyền lực nhà nước tạo sức mạnh để cưỡng chế chủ thể tham gia quan hệ pháp luật TTHS, vì vậy sẽ dẫn đến quyền con người dễ bị xâm phạm và gây hậu quả nghiêm trọng khi nó động chạm đến quyền sống, quyền tự do, quyền không bị bắt, giam giữ tùy tiện, quyền được xét xử công bằng….Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí: “Phạm vi quyền con người trong TTHS bao gồm hai khuynh hướng: Một mặt, các hoạt động tố tụng hướng tới bảo đảm quyền được buộc tội khách quan, công bằng của người bị cáo buộc phạm tội, mặt khác bảo đảm quyền của những người yếu thế trong xã hội bao gồm những người bị cáo buộc phạm tội,… tránh sự lạm dụng của người tiến hành tố tụng”. Xã hội sẽ bất ổn định khi mà bất cứ ai cũng có thể bị tình nghi, cáo buộc và rơi vào thế yếu, bị động và bất lợi trong khi xét xử. Quyền con người được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của Nhà nước đặc biệt là luật TTHS, là cơ sở để Nhà nước bảo đảm những quyền lợi cơ bản nhất của con người của các chủ thể tham gia tố tụng, trong đó có bị cáo, đồng thời khi quyền con người được bảo đảm cũng kéo theo sự công bằng, công lý được thực thi. Quyền con người đối với bị cáo trong xét xử là tập hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị khẳng định phẩm giá của con người, bảo vệ các cá nhân khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyền của các cơ quan nhà nước trong các hoạt động xét xử. Theo các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người thì quyền con người của bị cáo là quyền được xét xử công bằng, quyền được suy đoán vô tội; quyền được bào chữa và biện hộ….Vì vậy, một Nhà nước pháp quyền là Nhà nước cần phải bảo đảm được quyền con người, được cụ thể hóa trong pháp luật của Nhà nước, ghi nhận quyền con người trong hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Ghi nhận quyền con người trong pháp luật 11
  12. không chỉ giới hạn trong mỗi quốc gia mà là những giá trị cao quý đã được ghi nhận trong suốt lịch sử văn minh nhân loại. Trong các văn kiện quốc tế như Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948 (UHDR); Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR); Hiến chương Liên Hợp Quốc về quyền con người, 1945, Các quy tắc hành động của cán bộ thi hành pháp luật, 1979, Các nguyên tắc cơ bản về tính độc lập của toà án, 1985; Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của Luật sư, 1990; Các hướng dẫn về vai trò của Công tố viên, 1990…… đã ghi nhận quyền con người một cách rõ ràng. Theo UHDR và ICCPR quyền con người trong TTHS được quy định tại các điều 5, 7, 9, 10, 11, 14, 15 bao gồm các quyền sau: Quyền được xét xử công bằng bởi một thủ tục tố tụng hình sự; Quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và quyền tự do cá nhân khác; Quyền được nhanh chóng minh oan; Quyền được bào chữa và biện hộ, Quyền không bị xét xử quá mức chậm trễ; Quyền không bị kết tội hai lần về cùng một hành vi; Quyền được suy đoán vô tội; Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm; Người chưa thành niên phải được áp dụng thủ tục tố tụng hình sự đặc biệt;….. 1.3 Khái niệm bị cáo trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam Bộ Luật TTHS 2015 dành một chương trong bộ luật để định nghĩa về những người tham gia TTHS, trong đó tại điều 61 của Bộ Luật TTHS 2015 định nghĩa bị cáo như sau: “Bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Quyền và nghĩa vụ của bị cáo là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật TTHS này”. Vì vậy có thể hiểu là bị cáo là người bị khởi tố về hình sự, bị Viện kiểm sát truy tố và bị Tòa án đưa ra xét xử, bị cáo được hiểu là người bị cáo buộc vi phạm một tội nào đó trong Bộ luật hình sự, khác với trường hợp bị can đó là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự mà chưa có quyết định của Tòa án đưa ra xét xử, bị can được hiểu là người liên can đến một vi phạm nào đó. Qua phân tích trên có thể thấy bị cáo là tư cách pháp lý của người tham gia tố tụng hình sự sau quá trình điều tra, truy tố, hồ sơ vi phạm của bị cáo đã được chuyển sang Tòa án và Tòa án nhận thấy cần thiết đưa bị cáo ra xét xử bằng một quy trình và thủ tục TTHS. 12
  13. 1.4. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử theo Luật quốc tế Trong tiến trình hội nhập quốc tế, tính đến nay, Việt Nam đã là tham gia một số Công ước quốc tế như: ICCPR (tham gia năm 1982); Công ước về không áp dụng thời hiệu tố tụng đối với tội ác chiến tranh và tội ác chống nhân loại năm 1968 (tham gia năm 1983); CRC (tham gia năm 1990); Tham gia hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người cho thấy sự khẳng định và quyết tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Các chuẩn mực quốc tế về quyền con người đã được Đảng và Nhà nước thực hiện thông qua việc thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời Nhà nước chuyển hóa các điều luật quốc tế thành “nội luật hóa” pháp luật việt nam thông qua các bản Hiến pháp và Bộ luật TTHS. Theo các văn bản pháp lý quốc tế thì quyền con người trong TTHS có thể xếp vào hai nhóm: 1) Các quyền sống, quyền an toàn về thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá nhân trong TTHS. 2) Quyền được xét xử nhanh chóng, không trì hoãn, công bằng bởi một Tòa án độc lập. Như đã phân tích ở trên thì xét xử là đích cuối cùng xuyên suốt quá trình của TTHS, và nhóm quyền thứ 2 trong TTHS ảnh hưởng và chi phối trực tiếp các quyền con người của bị cáo trong xét xử. Điều 1 của Tuyên ngôn toàn thế giới về Quyền con người (UDHR) tuyên bố” Mọi người sinh ra tự do và bình đẳng về phẩm cách và quyền lợi, có lý trí và lương tri, và phải đối xử với nhau trong tình bằng hữu”. Điều 3 của UDR khẳng định: “Ai cũng có quyền được sống, tự do, và an toàn thân thể”. Khoản 2 điều 11 của UDHR, 1948 cũng ghi nhận: “Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay luật pháp quốc tế hiện hành; mà cũng không bị tuyên phạt một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian phạm pháp”. Những người bị tạm giam, tạm giữ vì tình nghi phạm tội theo luật hình sự, họ cần được xét xử và phán quyết bởi Tòa án để xác định tội của họ. “Việc đối xử với một người 13
  14. khi họ bị buộc tội phản ảnh rõ mức độ tôn trọng nhân quyền của Nhà nước đó. Quyền xét xử công bằng được coi như nền tảng của các xã hội dân chủ và là quyền thiết yếu (essential) trong mọi quốc gia pháp trị - The Right to a Fair Trial). Nhóm quyền này là tập hợp các quyền bao gồm: Bình đẳng trước Tòa án; Quyền được xét xử nhanh chóng và được xét xử bởi một Tòa án độc lập, không thiên vị, công khai; Được suy đoán vô tội; Không bị áp dụng hồi tố; Không hình sự hóa vụ án dân sự, Quyền kháng cáo bản án để xét xử phúc thẩm; Quyền không bị kết tội hai lần về cùng một hành vi; Quyền bào chữa ; Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên.....  Quyền của bị cáo trong xét xử hình sự có thể hiểu là quyền của người bị buộc tội trong vụ án hình sự trước cơ quan tư pháp. Về nhóm quyền này tại Điều 10 Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948 (UDHR) nêu rõ: “Ai cũng có quyền, trên căn bản hoàn toàn bình đẳng, được một Toà án độc lập và vô tư xét xử một cách công khai và công bằng để phán xử về những quyền lợi và nghiã vụ của mình, hay về những tội trạng hình sự mà mình bị cáo buộc”. Cũng tại Khoản 1 điều 11 của tuyên ngôn trên: “Bị cáo bị cáo buộc về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ”. Có thể nói thêm rằng những bằng chứng phạm pháp và thủ tục xét xử phải được thu thập theo đúng quy trình pháp luật TTHS, khi chưa có bản án có hiệu lực của Tòa án thì bị cáo phải được coi là vô tội, được đối xử bình đẳng, công bằng và tôn trọng. Đây là bước tiến vĩ đại của nhân loại trong tư duy pháp lý về nhân quyền, nó phải được xem như là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư duy của cơ quan tư pháp từ giai đoạn người phạm tội bị tình đến khởi tố, điều tra, bắt tạm giam và xét xử.  Quyền được xét xử nhanh chóng để xác định tính hợp pháp của việc bắt giữ người cũng được cụ thể hóa bằng Điều 9 của Công ước quốc tế (ICCPR) năm 1966: “Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử trước Tòa án, nhằm mục đích để Tòa án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả lại tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp pháp”. Cũng tại khoản 3, điều 9 Công ước quốc tế (ICCPR) “Bất cứ người nào bị bắt 14
  15. hoặc bị giam giữ vì một tội hình sự phải được sớm đưa ra Toà án hoặc một cơ quan tài phán có thẩm quyền thực hiện chức năng tư pháp và phải được xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc được trả tự do. Trong ICCPR, bên cạnh các quyền con người như quyền sống, quyền tự do thân thể thì quyền được xét xử công bằng cũng là một trong các quyền cơ bản của con người, đã được quy định trong điều 14 của ICCPR, đã bao quát hầu hết các nội dung của quyền con người. 1) Mọi người đều bình đẳng trước các Toà án và cơ quan tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một Toà án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật; 2) Quyền được suy đoán vô tội; 3) Quyền được thông báo lý do buộc tội, 4) Quyền bào chữa hoặc tự bào chữa, hoặc có người bào chữa và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi, 5) Quyền được xét xử mà không bị trì hoãn một cách vô lý, được có mặt trong khi xét xử, được thẩm vấn hoặc yêu cầu thẩm vấn những nhân chứng, không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình; 6) Được áp dụng thủ tục riêng đối với người chưa thành niên; 7) Được xét xử phúc thẩm; 8) Được bồi thường khi bị kết án oan, trừ trường hợp cơ quan tố tụng chứng minh rằng việc sự thật không được làm sáng tỏ tại thời điểm đó hoàn toàn hoặc một phần là do lỗi của người bị kết án gây ra; 9) Không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh mà người đó đã bị kết án hoặc đã được tuyên trắng án, 10) Các quyền tố tụng của người bị buộc tội được bảo đảm thực hiện đầy đủ như quyền được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình; 11) được xét xử nhanh chóng, kịp thời mà không bị trì hoãn một cách vô lý; được có mặt trong khi xét xử, 12) được phiên dịch miễn phí nếu không hiểu hoặc không nói được ngôn ngữ sử dụng trong phiên toà, 13) Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử. Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu toà án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo quy định của pháp luật, 14) Tố tụng hình sự áp dụng đối với những người dưới 18 tuổi phải xem xét tới độ tuổi của họ và mục đích thúc đẩy sự phục hồi nhân cách của họ. Mặt khác, tại các nước thuộc liên minh Châu Âu thì Công ước Châu Âu cũng quy định rất rõ về quyền của con người. Điều 6 của Công ước này quy định quyền xét xử 15
  16. công bằng, trong đó có quyền của người bị buộc tội, đây là điều khoản được viện dẫn nhiều nhất bởi Ủy ban Châu Âu và Tòa án nhân quyền Châu Âu bao gồm các điều khoản: Điều 6.1 Công ước quy định người bị buộc tội có quyền được xét xử bởi Tòa án; các bên được đối xử công bằng trong xét xử và có quyền tham gia phiên tòa và xét xử công khai trong việc giải quyết các vụ việc dân sự và hình sự bao gồm 2 nội dung, một là quy định quyền của người bị buộc tội – điều này đã xác định các nguyên tắc cơ bản để bảo đảm các quyền lợi của người bị buộc tội, trên cơ sở các nguyên tắc trong hoạt động tố tụng. Điều 6.2, Công ước quy định người bị buộc tội được suy đoán là không có tội cho đến khi tội phạm được chứng minh theo quy định của pháp luật – Nguyên tắc này đặt ra nhiệm vụ cho Tòa án phải xem xét vấn đề theo hướng có lợi cho bị cáo mà không bị ràng buộc bởi bất cứ định kiến nào, và chỉ có thể kết tội anh ta trên cơ sở đã xem xét, đánh giá các chứng cứ được xem là hợp pháp và được thu thập theo một trình tự, thủ tục luật định. Như vậy, theo công ước này quy định sự kết tội của tòa án chỉ có giá trị pháp lý khi dựa trên việc đánh giá và xem xét một cách khách quan các chứng cứ đã được thu thập theo một trình tự và thủ tục hợp pháp. Nguyên tắc suy đoán là không có tội buộc tòa án phải nhìn nhận bị cáo trên quan điểm là không có tội, nếu ngay từ đầu Tòa án coi bị cáo là người có tội thì tại phiên tòa xét xử, Tòa án sẽ tập trung đi tìm chứng cứ buộc tội mà không tập trung đánh giá các chứng cứ, ý kiến tranh luận của các bên để tìm ra sự thật của vụ án. Đồng thời nếu coi bị cáo là người phạm tội thì ngay cả giai đoạn điều tra cũng không bảo đảm công bằng, cơ quan điều tra sẽ có định hướng cố tìm ra bằng chứng để kết tội người bị buộc tội hơn là tìm ra chứng cứ khách quan. Và như vậy sẽ gây bất lợi và có ý buộc tội người bị buộc tội ngay từ đầu. Một điều quan trọng trong nguyên tắc TTHS không chỉ ở luật TTHS Việt Nam mà cũng là nguyên tắc chung của TTHS thế giới đó là thẩm quyền chứng minh tội phạm được “đẩy” cho cơ quan điều tra – có nghĩa là khi buộc tội cơ quan điều tra phải đưa ra được chứng cứ buộc tội, chứ không phải yêu cầu người bị buộc tội đưa ra chứng cứ rằng họ không phạm tội, nhưng cho phép người bị buộc tội có quyền đưa ra những chứng cứ cho rằng bản án của Tòa án là không chính đáng và sẽ bị bác bỏ bởi cấp phúc thẩm. Việc làm này sẽ bảo đảm được quyền lợi chính 16
  17. đáng của bị cáo. Điều 6.3 về quyền được xét xử công bằng , trong đó có quyền được xét xử công khai trước một Tòa án độc lập và không thiên vị trong thời gian hợp lý, quyền được coi là vô tội khi chưa có phán quyết của Tòa án, và các quyền tối thiểu khác đối với những người bị cáo buộc một tội hình sự ((Quyền được thông báo kịp thời về lý do họ bị buộc tội và đòi hỏi phải chính xác, đầy đủ để họ có điều kiện chuẩn bị cho việc bào chữa (Điều 6.3a); Quyền được tạo điều kiện thuận lợi về thời gian thích hợp để chuẩn bị cho việc bào chữa (Điều 6.3b); Quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa (Điều 6.3c); Quyền được thu thập chứng cứ và kiểm tra chứng cứ do nhân chứng cung cấp chống lại mình (Điều 6.3d); Quyền được có phiên dịch miễn phí: khi người bị buộc tội không hiểu ngôn ngữ đang được sử dụng để chống lại anh ta (Điều 6.3e)) – Đây là các quy định cụ thể về các quyền cơ bản của người bị buộc tội. Vấn đề bảo đảm quyền của người bị buộc tội theo nội dung Điều 6 Công ước Châu Âu về quyền con người được thể hiện ở hai góc độ: Một là, quyền của người bị buộc tội được bảo đảm trên cơ sở các nguyên tắc trong hoạt động tố tụng. Hai là, các quy định cụ thể về các quyền cơ bản của người bị buộc tội. _Tuyên ngôn về nhân quyền nước Mỹ quy định nguyên tắc xét xử công bằng: trong mọi trường hợp bị truy tố hình sự, bị cáo có quyền được xét xử nhanh chóng và công khai bởi một Bồi thẩm đoàn công bằng…, bị cáo được thông báo tính chất, lý do buộc tội, được đối chất với nhân chứng chống lại mình và được sự giúp đỡ của luật sư bào chữa (Điều 6) _Bộ Luật TTHS Pháp hiện hành quy định quyền của của bị cáo trong xét xử: Nguyên tắc bảo đảm quyền con người trong pháp luật TTHS của Pháp được đề cập ngay tại Điều 1- P - Điều khoản sơ bộ bao gồm các nguyên tắc: +Tố tụng hình sự phải công bằng và tranh tụng, duy trì sự cân bằng về quyền giữa các bên. Những người nào thuộc các trường hợp tương tự nhau và bị truy tố bởi các tội danh giống nhau thì phải được xử lý theo các quy định pháp luật giống nhau. 17
  18. +Cơ quan tư pháp bảo đảm là các nạn nhân được thông báo và các quyền của họ được tôn trọng trong suốt bất kỳ quá trình tố tụng nào. + Bất kỳ ai bị nghi ngờ hoặc truy tố được suy đoán vô tội chừng nào chưa chứng minh được tội của họ. Việc vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội bị cấm, và phải bị bồi thường, trừng phạt trong các trường hợp luật định. +Người này có quyền được thông báo về cáo buộc chống lại họ và được bào chữa về mặt pháp lý. +Các biện pháp cưỡng chế mà người này phải chịu được tiến hành bởi hoặc dưới sự kiểm soát hiệu quả của cơ quan tư pháp. Chúng phải được giới hạn một cách nghiêm ngặt trong sự cần thiết của tiến trình, tương ứng với mức độ nghiêm trọng của tội phạm bị cáo buộc và không xâm phạm phẩm giá của con người. +Việc buộc tội đối với người này phải được đưa ra trước phán quyết cuối cùng trong thời gian hợp lý. +Bất kì ai bị kết án có quyền được Toà án cấp thứ hai thẩm tra việc kết án. _Bộ TTHS Liên bang Nga cũng thể hiện rõ mục tiêu bảo vệ lợi ích của con người, bảo vệ lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức là nạn nhân của tội phạm, không hạn chế các quyền tự do cá nhân không có căn cứ và trái pháp luật, đồng thời xác định trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (VKS) và Tòa án trong khi tiến hành tố tụng phải tôn trọng các quyền, tự do của những người tham gia tố tụng. Theo quy định tại Điều 6 Bộ luật TTHS Liên bang Nga thì tố tụng hình sự có 3 nhiệm vụ chính, đó là: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân và tổ chức, của những người bị thiệt hại do tội phạm gây ra; bảo đảm không ai bị buộc tội, bị kết án, bị hạn chế các quyền và tự do một cách không có căn cứ và trái pháp luật; việc truy cứu trách nhiệm hình sự, áp dụng hình phạt một cách công bằng đối với người phạm tội, đồng thời không được truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người không phạm tội, minh oan cho bất cứ người nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự một cách không có căn cứ [29].Nội 18
  19. dung luật TTHS liên bang Nga cũng bao gồm một số nguyên tắc chung về quyền của bị cáo trong việc bảo đảm quyền con người như là: Nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 14); Tôn trọng danh dự và nhân phẩm của cá nhân (Điều 9); Quyền bất khả xâm phạm của cá nhân (Điều 10); Bảo vệ các quyền và tự do của con người và của công dân trong tố tụng hình sự (Điều 11); Bảo đảm tranh tụng giữa các bên (Điều 15), Quyền được bào chữa (Điều 16); Các quyền của người bào chữa (Điều 49); Quy định về khiếu nại quyết định và hành vi của Tòa án và những người THTT (từ Điều 123 đến Điều 127), Quy định về minh oan (từ Điều 133 đến Điều 139)….. _Luật TTHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) cũng chứa đựng vài nguyên tắc chung của TTHS quốc tế: “Không ai bị coi là có tội nếu không bị xét xử và kết án bởi một Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật (Điều 12). Đây cũng là điểm tương đồng giữa luật pháp Trung Quốc và luật pháp Việt Nam. Quy định Toà án nhân dân thực hành quyền xét xử độc lập (Điều 5); Bảo đảm quyền được bào chữa (Điều 32- Điều 39); Bảo đảm quyền không bị quá hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn (Điều 124, 126)” …. Về cơ bản pháp luật TTHS Trung Quốc và pháp luật Việt Nam có nhiều nét tương đồng trong việc quy định bảo đảm quyền của bi can, bị cáo trước xét xử và trong xét xử. Từ những khái niệm trên, tác giả có nhận xét rằng luật nhân quyền quốc tế có nhiều điểm tiến bộ và quy đinh đầy đủ hơn về quyền con người trong TTHS nói chung và giai đoạn xét xử nói riêng so với pháp luật Việt Nam. Cụ thể là luật nhân quyền quốc tế đã ghi nhận cho bị cáo được quyền xét xử nhanh chóng, quyền im lặng, trong khi pháp luật Việt Nam chưa có ghi nhận chính thức về những quyền này mà chỉ quy nhận một cách gián tiếp qua các quy định khác. Có thể thấy rằng so với luật quốc tế thì các văn bản chúng ta đã nội luật hóa thường có nội hàm hẹp hơn. Xét một cách tổng quát các quy định của Luật nhân quyền quốc tế luôn mang tính nhân văn, vì con người vì Luật nhân quyền quốc tế ra đời nhằm mục đích xác lập, bảo vệ và thúc đẩy các quyền và tự do cơ bản cho mọi thành viên của cộng đồng nhân loại. Trong khi đó pháp luật Việt Nam ra đời ngoài mục 19
  20. đích bảo vệ các quyền con người, còn phải hướng đến mục đích khác nhau như: vừa là để đấu tranh phòng chống tội phạm, vừa xử phạt người phạm tội, vừa bảo vệ lợi ích nhà nước và cộng đồng, bảo vệ các giá trị xã hội, vừa nội luật hóa các vấn đề liên quan đã tham gia trong các công ước quốc tế, vừa phải xuất pháp từ thực tiễn của quốc gia. Do đó, một số các quy định bảo đảm quyền con người trong pháp luật Việt Nam có thể bị lược bỏ hoặc sửa đổi cho phù hợp với thực tế Việt Nam là điều tất nhiên. 1.5. Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong xét xử theo Luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 2015 đến nay 1.5.1 Quy định bảo đảm quyền không phân biệt đối xử và đối xử bình đẳng Điều 9, Bộ luật TTHS 2015 nêu rõ: Quyền bình đẳng của mọi công dân được hiểu là sự bình đẳng như nhau của mọi công dân trong mọi lĩnh vực của hoạt động nhà nước và xã hội mà không có sự ưu tiên, ưu đãi, phân biệt đối xử với bất cứ đối tượng nào. Không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Điều này được hiểu theo luật TTHS là bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo trình tự thủ tục của pháp luật TTHS không phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội; mọi công dân ở địa vị pháp lý như nhau thì có quyền và nghĩa vụ tố tụng như nhau, áp dụng pháp luật như nhau. 1.5.2 Quyền không bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Theo nguyên tắc suy đoán vô tội tại Điều 13 của Bộ luật TTHS 2015 thì người bị buộc tội chỉ coi là có tội khi thỏa cả hai yếu tố đó là phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Luật TTHS ghi rõ “cho đến khi” được chứng minh theo thủ tục và bản án có hiệu lực của Tòa án, vì vậy hiểu trên nguyên lý là khi chưa có 2 điều kiện đã nói ở trên thì người bị buộc tội vẫn chưa bị coi là có tội, vì vậy họ vẫn phải được bảo đảm hầu hết các quyền công dân của họ. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2