intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội giết người từ thực tiễn tỉnh Long An

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:88

27
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự về giải quyết vụ án giết người ở tỉnh Long An, đề xuất các quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm thực hiện đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội giết người người ở tỉnh Long An hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật hình sự và Tố tụng hình sự: Tội giết người từ thực tiễn tỉnh Long An

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ THÚY HỒNG TỘI GIẾT NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội - 2020 1
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ THÚY HỒNG TỘI GIẾT NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. PHẠM VĂN BEO Hà Nội - 2020 2
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình do học viên tự nghiên cứu; các số liệu trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của luận văn chưa từng được công bố trong các công trình khác. Hồ Chí Minh, ngày 11 tháng 11 năm 2020 Tác giả luận văn Phạm Thị Thúy Hồng 3
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng Hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra CTKGG : Cải tạo không giam giữ ĐTV : Điều tra viên HĐXX : Hội đồng xét xử HTND : Hội thẩm nhân dân KTBC : Khởi tố bị can KT-CT-VH-XH : Kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội KTVA : Khởi tố vụ án KSV : Kiểm sát viên NCTN : Người chưa thành niên NN : Nhà nước NXB : Nhà xuất bản PL : Pháp luật TAND : Toà án nhân dân TKTA : Thư ký tòa án TNHS : Trách nhiệm hình sự TGN : Tội giết người TP : Thẩm phán TTHS : Tố tụng hình sự TMNK : Tính mạng người khác VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XH : Xã hội XHCN : Xã hội chủ nghĩa 4
  5. BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Tình hình xét xử các tội xâm phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm so với tổng số tội phạm được TAND hai cấp tỉnh Long An xét xử giai đoạn 2016 - 2020. Bảng 2.2. Tình hình xét xử tội giết người so với nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm đã được TAND tỉnh Long An xét xử sơ thẩm giai đoạn 2016 - 2020. Bảng 2.3. Những hình phạt đối với các bị cáo phạm giết người từ năm 2016 đến năm 2020 được TAND tỉnh Long An áp dụng. 5
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã có những bước chuyển mình nhanh chóng cả về KT-CT-VH-XH. Nền kinh tế đang trên đà tăng trưởng mạnh, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc. Một trong những vấn đề đó là những vụ án giết người, giết người cướp tài sản xảy ra nhiều, gây ra những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt, gây bất bình trong dư luận xã hội. Trong quá trình xây dựng và thực hiện đường lối đổi mới, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã đem lại những tác động tích cực, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, nhưng cơ chế thị trường cũng đưa đến những mặt trái, tác động tiêu cực. Một số đối tượng đã bị ảnh hưởng lối sống thiếu lành mạnh, ăn chơi sa đọa, hoặc ảnh hưởng lối sống bạo lực, sẵn sàng giải quyết những mâu thuẫn cá nhân bằng bạo lực, xâm phạm nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe của người khác; Cá biệt còn có đối tượng nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác mà ra tay sát hại người bị hại... Phương pháp, thủ đoạn phạm tội cũng rất đa dạng, tinh vi, phức tạp. Trên thực tế, việc áp dụng pháp luật trong xử lý tội phạm giết người gặp không ít khó khăn do luôn phải đối mặt với sự vận động, biến động của nền kinh tế, sự thay đổi của cơ chế, chính sách quản lý kinh tế - xã hội ... Trong khi hệ thống các văn bản pháp luật, nhất là Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự để điều chỉnh tội phạm nói chung và cụ thể là các hành vi phạm tội giết người nói riêng còn nhiều bất cập, thiếu văn bản hướng dẫn, dẫn đến vướng mắc, khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật. Thực tế đó đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra – Viện kiểm sát nhân dân – Tòa án nhân dân), phải làm sao áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, chính 6
  7. xác để kịp thời phát hiện, xử lý đối với tội phạm giết người, bảo đảm việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Cùng với những thành tựu của đất nước sau hơn 30 năm đổi mới, Long An đã có sự phát triển vượt bậc trên mọi lĩnh vực: kinh tế tăng trưởng mạnh, chính trị ổn định, quốc phòng an ninh được bảo đảm, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện. Cũng như các tỉnh và thành phố khác, mặt trái của sự phát triển nhanh về kinh tế, sự phát triển nhanh của ngành giải trí, thông tin truyền thông là sự đi xuống về đạo đức, lối sống của một bộ phận người dân làm phát sinh tội phạm và tệ nạn xã hội trên địa bàn, nhất là các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và tội Giết người nói riêng, với thủ đoạn và mức độ ngày càng nguy hiểm, phức tạp, gây thiệt hại đến tính mạng, tài sản của công dân, gây bất bình trong nhân dân. Trong thời gian qua, các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và TAND tỉnh Long An nói riêng đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ trong việc trừng trị tội phạm, bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân, đặc biệt là đấu tranh chống loại tội phạm Giết người xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của người khác. Tuy nhiên, so với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm thì còn có những tồn tại, hạn chế, dẫn đến một số vụ án hình sự phải trải qua nhiều lần, nhiều cấp điều tra, truy tố, xét xử nhưng vẫn chưa giải quyết dứt điểm. Một trong những nguyên nhân là do việc nghiên cứu lý luận hình sự, tố tụng hình sự chưa được đồng bộ, chưa có tổng kết, đúc rút kinh nghiệm giải quyết các vụ án Giết người. Vì vậy, việc nghiên cứu thực tiễn công tác điều tra, truy tố, nhất là công tác xét xử các vụ án hình sự phạm tội Giết người của Tòa án nhân dân tỉnh Long An, để tìm ra cách thức áp dụng pháp luật một cách hiệu quả nhất thực chất là góp phần tăng cường pháp chế XHCN trong quản lý kinh tế - xã hội, giúp cho hoạt động duy trì trật tự trị an xã hội trên địa bàn tỉnh Long An theo đúng PL của NN, kịp thời phát hiện, xử lý các tội phạm giết người, tạo sự ổn định, giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế - 7
  8. xã hội, đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ những lý do trên và yêu cầu nêu trên, học viên lựa chòn và nghiên cứu đề tài: “Tội giết người từ thực tiễn tỉnh Long An”, làm đề tài cho luận văn thạc sĩ của mình, là cần thiết, đáp ứng yêu cầu cấp bách hiện nay cả phương diện lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu khoa học về tội phạm giết người, như: - Luận án tiến sĩ luật học: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Nghệ An: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, của tác giả Lưu Hoài Bảo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2017 [1] - Luận án tiến sĩ luật học: Tội giết người trên địa bàn tỉnh Lào Cai: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, của tác giả Giàng Quốc Hưng, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2018 [21] - Luận án tiến sĩ luật học: Thực hành quyền công tố trong điều tra các TGN theo pháp luật TTHS Việt Nam, của Nguyễn Quốc Hân, Viện Hàn lâm Khoa học XH Việt Nam, Học viện khoa học XH, 2019 [21] - Luận văn thạc sĩ luật học: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hành vi giết người trong Luật hình sự Việt Nam, của tác giả Phạm Thị Tuyết Hạnh, trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật 2012 [18] - Luận văn thạc sĩ luật học: Áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội giết người của VKSND tỉnh Bắc Giang, của tác giả Nguyễn Văn Lượng, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 2013 [23] - Luận văn thạc sĩ luật học: Tội giết con mới đẻ trong Luật hình sự Việt Nam, của tác giả Đoàn Thị Vân, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật, 2015 [49] 8
  9. - Luận văn thạc sĩ luật học: Các tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Việt Nam, của tác giả Nguyễn Thị Hằng, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật, 2015 [19] - Luận văn thạc sĩ luật học: Định tội danh đối với tội giết người theo Luật hình sự Việt Nam, trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng, của tác giả Ngô Văn Dinh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa luật, 2016 [12] - Luận văn thạc sĩ luật học: TGN theo PL hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định, của tác giả Nguyễn Chí Công, Viện Hàn lâm Khoa học XH Việt Nam, Học viện khoa học XH, 2016 [6] - Luận văn thạc sĩ luật học: TGN theo PL luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, của tác giả Phạm Huyền Trang, Viện Hàn lâm Khoa họcXH Việt Nam, Học viện khoa học XH, 2017 [43] - Luận văn thạc sĩ luật học “TGN theo PL hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, của tác giả Trịnh Văn Toản, Viện Hàn lâm Khoa học XH Việt Nam, Học viện khoa học XH, 2017 [42] - Luận văn thạc sĩ luật học “Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An, của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Thảnh, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2017 [31] - Luận văn thạc sĩ luật học “Tội giết người từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, của tác giả Vũ Thị Thiêm, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện khoa học xã hội, 2018 [32] Ngoài ra còn có một số bài viết trên các báo và tạp chí có liên quan như Sách Lịch sử phân hóa trách nhiệm hình sự trong các quy định về tội giết người từ năm 1945 đến nay, của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà, NXB: Viện Nhà nước và pháp luật. Viện khoa học Xã hội Việt Nam, 2003 [17]. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự về giải quyết vụ án giết người ở tỉnh Long An; Học viên đề xuất các quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm 9
  10. thực hiện đúng các quy định của pháp luật hình sự về TGN người ở tỉnh Long An hiện nay. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu và phân tích cơ sở lý luận các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm giết người. Trong đó tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm, các quy định của pháp luật về khởi tố, điều tra và xét xử tội phạm giết người. - Nghiên cứu, phân tích thực tiễn công tác xét xử tội phạm giết người của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, trọng tâm là phân tích làm rõ những kết quả đã đạt được; những khó khăn, vướng mắc cũng như những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. - Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự trong xét xử tội phạm giết người của Tòa án nhân dân tỉnh Long An, góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội giết người nói riêng, trên địa bàn tỉnh Long An 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự trong định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội phạm giết người tại TAND tỉnh Long An giai đoạn 2016-2020 5.2. Phạm vi nghiên cứ Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong xét xử sơ thẩm các vụ hình sự phạm tội giết người của các Hội đồng xét xử TAND tỉnh Long An; Về thời gian: Các số liệu, dữ liệu chứng minh cho những phần xác định, đánh giá được giới hạn từ năm 2016 đến 2020. 6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp luận Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của 10
  11. nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Các qui định của Hiến pháp, pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước về tội phạm giết người để phân tích, đánh giá và xây dựng các giải pháp. 6.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phân tích, tổng hợp, phương pháp lôgic lịch sử, phương pháp thống kê, so sánh và tổng kết thực tiễn. 7. Ý nghĩa và những đóng góp về khoa học của luận văn - Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự phạm tội giết người của Tòa án nhân dân tỉnh Long An. Do đó, ở mức độ nhất định, những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo, vận dụng trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến công tác xét xử các vụ án hình sự nói chung và vụ án giết người nói riêng, đồng thời có thể được vận dụng trong thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng công tác xét xử tội phạm giết người. - Luận văn sẽ phân tích, làm rõ thêm cơ sở lý luận áp dụng quy định của pháp luật hình sự trong xét xử tội phạm giết người của Tòa án nhân nhân dân; đánh giá thực tiễn áp dụng các của pháp luật hình sự về tội giết người trong xét xử sơ thẩm trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra, xét xử tội phạm giết người của của các HĐXX Tòa án nhân dân tỉnh Long An, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự trong công tác xét xử các vụ án hình sự nói chung và xét xử các vụ án phạm tội giết người nói riêng tại TAND tỉnh Long An. Kết cấu của luận văn Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội giết người. Chương 2: Thực trạng áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội giết người tại tỉnh Long An. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về tội giết người. 11
  12. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI I. Những vấn đề lý luận về tội giết người 1.1 Khái niệm tội giết người 1.1.1. Khái niệm tội phạm Theo quy định tại Điều 8 BLHS 2015 Việt Nam, hiện hành thì Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho XH được quy định trong BLHS, do người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thô tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự PL XHCN [24]. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho XH của hành vi được quy định trong BLHS, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho XH mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là phạt tiền, phạt CTKGG hoặc phạt tù đến 3 năm; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hai lớn cho XH mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là từ trên 3 năm đến 7 năm tù; Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho XH mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là từ trên bảy năm tù đến 15 năm tù; Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc 12
  13. biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Mặc dù cac hành vi tuy có các dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho XH không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác. Khoản 1 Điều 8 BLHS 2015 xác định khái niệm tội phạm một cách rất khoa học, thể hiện tập trung nhất quan điểm của NN về tội phạm. Nó không những là cơ sở khoa học thống nhất cho việc xác định những loại tội phạm cụ thể trong việc phân các tội phạm của BLHS mà còn là cơ sở cho việc nhận thức và áp dụng đúng đắn những điều luật quy định về từng tội phạm cụ thể. Tại Điều 1 BLHS 2015 đã ghi nhận những quan hệ XH chung quan trọng nhất được BLHS của nước ta bảo vệ khỏi sự xâm hại của tội phạm thì Điều 8, khoản 1 đã cụ thể hóa những quan hệ XH đó thành những khách thể của tội phạm. Đó là: Độc lập, chủ quyền, thông nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn XH, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự PL XHCN. Khái niệm tội phạm luôn là vấn đề trung tâm của luật Hình sự. Trong lịch sử có những quan niệm khác nhau về khái niệm tội phạm, cụ thể: Theo PL tư sản luôn nhấn mạnh tính hình thức của tội phạm, nghĩa là Tội phạm là hành vi bị BLHS cấm hoặc là vi phạm PL bị BLHS trừng trị (BLHS Pháp 1810) hoặc là hành vi do BLHS cấm bằng nguy cơ xử phạt (BLHS Thụy Sĩ năm 1937). Do vđó, yếu tô luật Hình sự quy định, luật Hình sự cấm, luật Hình sự trừng trị là đặc điểm duy nhất của tội phạm. Điều này hết sức nguy hiểm ở chỗ nhiều khi nó cho phép nhà làm luật đưa ý chí chủ quan của mình vào việc quy định hành vi nào là tội phạm. Tuy nhiên, yếu tố luật định của tội phạm mà BLHS tư sản đưa ra đã cho thấy được tiến bộ vượt bậc. So với BLHS phong kiến tránh được sự tùy tiện khi coi một hành vi nào đó là tội phạm. Được quy định tội phạm luật 13
  14. Hình sự hay BLHS chỉ là dấu hiệu hình thức của tội phạm. Tội phạm còn được xác định thông qua dấu hiệu về mặt nội dung. Đó là: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho XH, nhưng khi đánh giá thế nào là nguy hiểm cho XH là vấn đề cần được làm sáng tỏ nếu không dễ rơi vào chủ quan, duy ý chí khi quy định tội phạm. Các tiêu chí để xác định tính nguy hiểm cho xã hội ở mức độ tội phạm gồm: – Tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm hại – Hiệu quả do hành vi phạm tội gây ra – Tính chất và mức độ lỗi: các hình thức lỗi, các dạng lỗi, động cơ mục đích phạm tội… – Các yếu tố đặc trưng cho hành vi phạm tội như thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, công cụ phạm tội. Trong BLHS luôn quy định một trong những yếu tố làm tăng mức độ nguy hiểm cho XH của hành vi đó là yếu tố nhân thân người phạm tội, cụ thể là việc người phạm tội có tiền án, tiền sự hay không có tiền án, tiền sự. Vấn đề này cho đến ngày nay vẫn đang tranh luận trong khoa học luật Hình sự. Bởi lẽ việc quy định yếu tố nhân thân của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho XH, không phù hợp với nguyên tắc chung của BLHS, nghĩa là: 1 người không thể bị xử phạt hình sự do nhân thân xấu. Tội phạm còn được thể hiện thông qua dấu hiệu: Năng lực TNHS của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho XH. Đây là đặc tính quan trọng không thể bỏ qua khi quy định khái niệm tội phạm. Năng lực TNHS thể hiện ở khả năng người thực hiện hành vi nguy hiểm cho XH nhận thức và điểu được hành vi của mình. Điều đó cho thấy cho dù gây thiệt hại cho quan hệ XH nào đó nhưng nếu người thực hiện hành vi nguy hiểm không nhận thức được hành vi, không điều khiển được hành vi thì hành vi đó không là hành vi tội phạm. Tính có lỗi: Tội phạm luôn là hành vi có lỗi, có trường hợp BLHS coi những hành vi không có lỗi là tội phạm. Đây được gọi là nguyên tắc “quy tội 14
  15. khách quan” chỉ căn cứ vào hành vi để buộc tội trong khi tội phạm là tổng hợp các yếu tố chủ quan và khách quan. Yêu tố khách quan là các hành vi, yếu tố chủ quan là lỗi. Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi của mình và hậu quả đối với hành vi đó. Lỗi có một quá trình hình thành từ khi phát sinh những nhu cầu, xác định động cơ, mục đích, nhận thức các yếu tố chủ quan, khách quan của hành vi và cuối cùng là lựa chọn và quyết định thực hiện hành vi. Cho nên có thể dựa vào Điều 8 BLHS 2015 để đưa ra khái niệm tội phạm một cách khái quát: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho XH, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi được quy định trong luật hình sự. Hiện nay, trong khoa học luật Hình sự còn có ý kiến cho rằng tội phạm còn một dấu hiệu nữa là tính phải chịu hình phạt. Khoản 2 của Điều luật quy định: Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác. Ví dụ: Trộm cắp vặt, gây thương tích nhẹ, vô ý gây thiệt hại nhỏ nhặt v.v… Có dấu hiệu tội phạm tức là có đầy đủ 4 dấu hiệu của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong Bộ luật Hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sự, có lỗi. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất khiến nó không bị coi là tội phạm là tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể. Do vậy, theo học viên thì khái niệm về tội phạm được coi là khái niệm cơ bản nhất trong luật hình sự Việt Nam. Vì nội dung của khái niệm tội phạm là điều kiện cần thiết có tính nguyên tắc để giới hạn giữa tội phạm và không phải tội phạm, giữa TNHS và những trách nhiệm pháp lí khác. 1.1.2. Khái niệm tội giết người Cho đến nay mặc dù đã trải qua 3 BLHS (1985, 1999 và 2015), các nhà làm luật vẫn chưa đưa ra được khái niệm cụ thể về tội phạm giết người, do vậy hiện tại có rất nhiều công trình nghiên cứu và rất nhiều nhà khoa học đưa ra các 15
  16. đánh giá, nhận định về khái niệm về tội giết người và người phạm tội giết người. Trong đó Giáo sư, tiến sĩ Võ Khánh Vinh cho rằng tội phạm giết người là hành vi trái PL của người đủ năng năng lực TNHS cố ý tước đoạt quyền sống của người khác [24; tr. 51]. Có nhà khoa học lại ghi nhận: Giết người được hiểu là hành vi làm chết người khác một cách cố ý và trái. Cũng có người lại đưa ra khái niệm: Giết người là hành vi cố ý tước đoạt TMNK một cách trái PL...là một hành vi vi phạm PL đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm trực tiếp đến TMNK bị XH kịch liệt lên án. Còn theo Điều 123 BLHS Việt Nam, hiện hành thì khái niệm TGN như sau: TGN là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác một cách trái PL, do người có năng lực TNHS và từ đủ 14 tuổi trở lên thực hiện [24]. Còn theo cá nhân học viên, thì giết người là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người khác 1 cách trái PL. Hành vi tước đoạt tính mạng người khác nghĩa là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho con người, chấm dứt sự sống của con người. Hậu quả của hành vi trái luật này là hậu quả chết người, TGN chỉ được coi là tội phạm hoàn thành khi có hậu quả chết người; Còn trong trường hợp hậu quả chết người không xảy ra vì nguyên nhân khách quan thì hành vi phạm tội được coi là tội giết người chưa đạt (khi có lỗi cố ý trực tiếp) hoặc là tội cố ý gây thương tích (khi có lỗi cố ý gián tiếp). Mục đích và động cơ phạm tội không là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm TGN và được quy định là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt. 1.2. Dấu hiệu pháp lý tội giết người Khi nghiên cứu về cấu thành tội phạm của tội giết người, cần phải nghiên cứu 4 cấu thành gồm: Khách thể của tội phạm; Chủ thể của tội phạm; Mặt khách quan của tội phạm và Mặt chủ quan của tội. Theo quy định của BLHS Việt Nam 2015, hiện hành thì tội Giết người được các nhà làm luật quy định tại Chương XIV (Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh 16
  17. dự của con người), Điều 123 [24]. Học viên xin phân tích các cấu thành cơ bản của tội giết người cụ thể như sau: 1.2.1. Khách thể của tội giết người Khách thể loại của tội phạm giết người là quan hệ nhân thân mà nội dung của nó là quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Trong số các quyền nhân thân, quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người là quyền tự nhiên, thiêng liêng và cao quý nhất, không một quyền nào có thể so sánh được. Bởi lẽ, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Khi quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người bị xâm phạm thì mục tiêu phấn đấu của loài người sẽ trở nên vô nghĩa; động lực phát triển của xã hội sẽ bị triệt tiêu. Thêm vào đó, con người còn là chủ thể của quan hệ XH. Nếu quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người bị xâm phạm thì các quan hệ xã hội sẽ bị phá vỡ. Chính vì những lý do trên mà mục tiêu bảo vệ quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người luôn được đặt lên hàng đầu đối với mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi thời kỳ và mọi chế độ. Cũng vì ý nghĩa đặc biệt quan trọng của quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người mà trong các BLHS Việt Nam, ngay sau các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các nhà làm luật đều đã quy định tội giết người. Điều này càng khẳng định, quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người thật sự thiêng liêng, cao quý, cần được bảo vệ một cách tuyệt đối. Bất cứ ai xâm phạm quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người đều phải bị trừng trị nghiêm khắc. TGN xâm phạm quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người thông qua sự tác động làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động - con người đang sống. Việc xác định đúng đối tượng tác 17
  18. động của tội giết người có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bởi lẽ, nếu hành vi nào đó tác động vào đối tượng không phải hay chưa phải là con người thì không xâm phạm đến quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, vì vậy, hành vi đó không phạm TGN. 1.2.2. Mặt khách quan của tội giết người 1.2.2.1. Hành vi khách quan TGN có thể được thực hiện qua hành động hoặc không hành động. Hành động phạm TGN là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm - quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, qua việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm. Không hành động phạm tội giết người là hình thức của hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm - quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người, qua việc chủ thể không làm một việc mà PL yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm. Hành vi khách quan của TGN là những biểu hiện của con người ra ngoài thế giới khách quan có sự kiểm soát của ý thức và sự điều khiển của ý chí. Đây là điều kiện cần, còn điều kiện đủ là hành vi đó phải gây ra hoặc có khả năng gây ra cái chết cho người khác một cách trái PL. Những hành vi không gây ra và cũng không có khả năng gây ra cái chết cho người khác hoặc tuy có khả năng gây ra cái chết cho người khác, nhưng không trái PL (như hành vi phòng vệ chính đáng, hành vi thi hành án tử hình...) thì đều không phải là hành vi khách quan của TGN. Nghiên cứu hành vi khách quan của TGN cần phân biệt TGN với Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Nếu hành vi khách quan của TGN là hành vi cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân thì hành vi khách quan của Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng chỉ là hành vi cố ý không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. 18
  19. Thực tiễn xét xử cho thấy, để xác định đúng tội danh chúng ta cần phân biệt hai tội này qua các tiêu chí cơ bản sau đây: Thứ nhất, nếu nạn nhân bị chết do tình trạng nguy hiểm đến tính mạng thì: Định TGN khi người phạm tội vì mong muốn hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy ra nên đã cố ý đặt nạn nhân vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Định tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng khi người phạm tội chỉ vô ý gây ra tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của nạn nhân, trước đó người phạm tội không có bất kỳ hành vi cố ý nào xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của nạn nhân. Thứ hai, nếu nạn nhân bị chết không phải do tình trạng nguy hiểm đến tính mạng mà do hành vi của người phạm tội cố ý gây ra, thì người thực hiện hành vi cố ý gây ra cái chết cho nạn nhân chỉ có thể phạm TGN mà không phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. 1.2.2.2. Hậu quả Hậu quả của TGN là thiệt hại do hành vi phạm TGN gây ra cho quan hệ nhân thân, cho quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Thiệt hại này được thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất - hậu quả chết người khác. Nghiên cứu hậu quả của TGN có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thời điểm tội phạm hoàn thành. Vì TGN là tội phạm có cấu thành vật chất nên thời điểm hoàn thành của tội phạm này là thời điểm nạn nhân đã chết sinh vật - giai đoạn cuối cùng của sự chết mà ở đó sự sống của con người không gây ra và cũng không có khả năng hồi phục. Khi nghiên cứu hậu quả của TGN cần phân biệt TGN (phạm tội chưa đạt) với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, căn cứ vào dấu hiệu pháp lý của hai tội phạm này chúng tôi thấy, TGN (phạm tội chưa đạt) với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác khác nhau ở những điểm cơ bản sau đây: 19
  20. Một là, về khách thể của tội phạm, nếu khách thể của TTGN là quan hệ nhân thân mà nội dung của nó là quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng của con người thì khách thể của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tuy cũng là quan hệ nhân thân, nhưng nội dung của nó lại là quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức khoẻ của con người; hai là, về lỗi của người phạm tội, nếu lỗi của người phạm tội giết người (phạm tội chưa đạt) chỉ là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân (mong muốn nạn nhân chết), thì lỗi của người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác lại có thể là: a) Lỗi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (mong muốn hoặc bỏ mặc, chấp nhận gây tổn thương cơ thể cho nạn nhân) hoặc b) Lỗi cố ý gián tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân (bỏ mặc, chấp nhận hậu quả nạn nhân chết nhưng hậu quả này đã không xảy ra). Sở dĩ trường hợp cố ý gián tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân, nếu nạn nhân không chết thì không định Tội giết người (chưa đạt) mà chỉ có thể định Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, bởi vì trong trường hợp này, người phạm tội không mong muốn hậu quả chết người xảy ra; do đó, nếu nạn nhân không chết thì không thể buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm về hậu quả chết người - điều mà họ không mong muốn và nó cũng không xảy ra trên thực tế. Thực tiễn xét xử cho thấy, để xác định đúng tội danh chúng ta cần phân biệt Tội giết người (phạm tội chưa đạt) với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác qua các tiêu chí cơ bản sau đây: 1) Nếu lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân thì định tội giết người (phạm tội chưa đạt). Đây là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình có khả năng làm nạn nhân chết mà vẫn thực hiện vì mong muốn hậu quả nạn nhân chết xảy ra. Sở dĩ nạn nhân không chết là do nguyên nhân khách quan, ngoài ý muốn của người phạm tội; 2) Nếu lỗi của người phạm tội không phải là lỗi cố ý trực tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân mà chỉ là lỗi cố ý gián tiếp gây ra cái chết cho nạn nhân hoặc 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2