intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Khảo sát lỗi ngữ pháp trong sử dụng tiếng Việt của sinh viên Trung Quốc tại một số trường đại học ở Hà Nội

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:133

58
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn đặt mục đích thu thập, khảo sát, phân tích lỗi ngữ pháp của sinh viên Trung Quốc trong sử dụng tiếng Việt. Trên cơ sở những hiểu biết căn bản về tiếng Việt và tiếng Trung, luận văn sẽ cố gắng tìm ra nguyên nhân và đề nghị một số giải pháp khắc phục lỗi nhằm giúp sinh viên sử dụng tiếng Việt tốt hơn, đạt hiệu quả giao tiếp cao hơn. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Khảo sát lỗi ngữ pháp trong sử dụng tiếng Việt của sinh viên Trung Quốc tại một số trường đại học ở Hà Nội

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------- VŨ HOÀNG PHƢƠNG LOAN KHẢO SÁT LỖI NGỮ PHÁP TRONG SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT CỦA SINH VIÊN TRUNG QUỐC TẠI MỘT SỐ TRƢỜNG ĐẠI HỌC Ở HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Hà Nội - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------- VŨ HOÀNG PHƢƠNG LOAN KHẢO SÁT LỖI NGỮ PHÁP TRONG SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT CỦA SINH VIÊN TRUNG QUỐC TẠI MỘT SỐ TRƢỜNG ĐẠI HỌC Ở HÀ NỘI Luận văn thạc sĩ chuyên ngành ngôn ngữ học Mã số: 60220240 Giáo viên hƣớng dẫn: PGS. TS Trịnh Cẩm Lan Hà Nội - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, minh bạch và chƣa đƣợc ai công bố trong bất cứ công trình nào khác Hà Nội, ngày 22 tháng 12 năm 2015 Tác giả luận văn VŨ HOÀNG PHƢƠNG LOAN
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô Khoa Ngôn ngữ, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu tại khoa. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, lòng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS Trịnh Cẩm Lan, ngƣời đã truyền nhiệt huyết nghiên cứu, tận tình hƣớng dẫn, chỉ dạy , giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 22 tháng 12 năm 2015 Tác giả luận văn VŨ HOÀNG PHƢƠNG LOAN
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 2 3. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................. 3 4. Dự kiến bố cục luận văn................................................................................ 4 Chƣơng 1: TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT ...................................... 5 1.1 Tổng quan các nghiên cứu có liên quan đến lỗi trong việc học tiếng Việt của ngƣời nƣớc ngoài nói chung và việc học tiếng Việt của sinh viên Trung Quốc nói riêng .................................................................................... 5 1.2. Cơ sở lí thuyết ........................................................................................ 8 1.2.1 Giao thoa ngôn ngữ .......................................................................... 8 1.2.2 Khái niệm lỗi và phân loại lỗi ........................................................ 13 1.2.3 Lỗi ngữ pháp .................................................................................. 17 1.3 Khái quát đặc điểm ngữ pháp của tiếng Trung và tiếng Việt ............... 18 1.3.1 Khái quát đặc điểm ngữ pháp tiếng Trung..................................... 18 1.3.2 Khái quát đặc điểm ngữ pháp tiếng Việt ....................................... 24 Tiểu kết chƣơng 1............................................................................................ 31 Chƣơng 2: LỖI HƢ TỪ TIẾNG VIỆT CỦA SINH VIÊN TRUNG QUỐC . 33 2.1 Lỗi các hƣ từ thuộc nhóm làm thành tố phụ đoản ngữ ......................... 33 2.1.1 Lỗi các hƣ từ chuyên làm thành tố phụ cho đoản ngữ có danh từ làm trung tâm .......................................................................................... 33 2.1.2 Lỗi các hƣ từ chuyên làm thành tố phụ cho đoản ngữ có động từ làm trung tâm. ......................................................................................... 44 2.2 Lỗi các hƣ từ thuộc nhóm không làm thành tố phụ đoản ngữ .............. 63 2.2.1 Lỗi các hƣ từ nối kết các yếu tố có quan hệ chính - phụ: của, cho, ở, với ....................................................................................................... 63
  6. 2.2.2 Lỗi các hƣ từ đặc biệt: là, thì ........................................................... 71 2.3. Lỗi các hƣ từ nằm ngoài đoản ngữ: các hƣ từ phụ trợ ......................... 74 2.3.1 Lỗi các hƣ từ luôn phụ trợ cho một yếu tố trong đoản ngữ hoặc câu (trợ từ): ngay, cả , đến ............................................................................. 74 2.3.2. Lỗi các hƣ từ luôn phụ trợ cho cả cấu trúc để dạng thức hoá hoặc nêu tình thái (phụ từ): à, ư, nhỉ, nhé, ạ, đây, đấy, sao, nào, cơ, kia, ấy, mà, vậy,.... ............................................................................................... 74 Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................ 77 Chƣơng 3: LỖI TRẬT TỰ THÀNH PHẦN CÂU VÀ TRẬT TỰ TỪ TRONG CÁC NGỮ ĐOẠN TIẾNG VIỆT CỦA SINH VIÊN TRUNG QUỐC ......... 79 3.1. Lỗi trật tự thành phần câu ................................................................... 79 3.1.1. Lỗi trật tự chủ ngữ và vị ngữ ........................................................ 79 3.1.2. Lỗi trật tự trạng ngữ câu................................................................ 80 3.1.3. Lỗi trật tự định ngữ câu ................................................................. 82 3.2. Lỗi trật tự từ trong ngữ đoạn ............................................................... 84 3.2.1. Lỗi trật tự từ trong ngữ đoạn danh từ ............................................ 84 3.2.2. Lỗi trật tự trong ngữ đoạn vị từ ..................................................... 88 Tiểu kết chƣơng 3............................................................................................ 99 KẾT LUẬN ................................................................................................... 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 102 PHỤ LỤC ...................................................................................................... 105
  7. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Ngày nay, đứng trƣớc vận hội mới, Việt Nam đang hội nhập vào đời sống của nhân loại, mở cửa giao lƣu với mọi dân tộc trên thế giới, không phân biệt màu da, sắc tộc, chính kiến hay tôn giáo. Ðó là một chính sách đúng đắn và hợp lý, mang lại sự phát triển toàn diện cho đất nƣớc từ kinh tế, văn hóa, đến mọi mặt của đời sống xã hội. Sự phát triển của giao tiếp quốc tế làm nảy sinh nhu cầu học ngoại ngữ. Đây là chiếc cầu nối quan trọng và hữu hiệu trong xã hội hiện đại. Nó làm cho khoảng cách giữa các quốc gia, các dân tộc trở nên gần nhau hơn. Và nhờ có ngoại ngữ mà con ngƣời cũng hiểu nhau hơn, biết cảm thông với nhau hơn. Từ đó chung tay thực hiện một mục đích lớn lao, đó là mục đích vì một thế giới hòa bình. Việt Nam và Trung quốc là hai nƣớc láng giềng có quan hệ lâu dài. Hiện nay, mối quan hệ này phát triển hơn lúc nào hết, thúc đẩy ngƣời dân hai nƣớc tìm hiểu và học tập lẫn nhau. Trong xu thế đó, những năm gần đây, sinh viên Trung Quốc sang Việt Nam học Tiếng Việt và văn hóa Việt Nam, cũng nhƣ sinh viên Việt Nam sang Trung Quốc học tiếng Trung và văn hóa Trung Quốc ngày càng nhiều. Tiếng Việt và tiếng Trung có cùng loại hình ngôn ngữ, hệ thống ngữ pháp có nhiều điểm tƣơng đồng, gần 60% từ vựng tiếng Việt lại đƣợc mƣợn từ tiếng Hán qua nhiều thời đoạn lịch sử khác nhau, điều đó tạo nhiều thuận lợi cho sinh viên Việt Nam học tiếng Trung và sinh viên Trung Quốc học tiếng Việt. Tuy nhiên, dù gần gũi thế nào thì tiếng Việt và tiếng Trung vẫn là hai ngôn ngữ và giao thoa ngôn ngữ tất yếu sẽ nảy sinh trong quá trình học tập ngôn ngữ của nhau của sinh viên hai nƣớc. Điều này đặt ra cho những ngƣời làm công tác giảng dạy ngôn ngữ và văn hóa của hai nƣớc 1
  8. một nhiệm vụ rất quan trọng đó là phải nghiên cứu để tìm ra con đƣờng tốt nhất giúp sinh viên hai nƣớc tiếp cận và làm chủ ngoại ngữ mà mình cần. Về phía bản thân, trong những năm qua, chúng tôi đã tham gia giảng dạy tiếng Trung Quốc cho sinh viên Việt Nam cũng nhƣ dạy tiếng Việt cho sinh viên Trung Quốc. Trong quá trình giảng dạy, chúng tôi đã nhận thấy việc sinh viên Trung Quốc mắc lỗi trong sử dụng tiếng Việt và sinh viên Việt Nam mắc lỗi trong sử dụng tiếng Trung là khá phổ biến, thậm chí có những lỗi nghiêm trọng có thể làm cho ngƣời nói không đạt đƣợc mục đích giao tiếp, và gây ra những hiểu lầm không đáng có. Vì vậy, việc tìm ra lỗi và sửa lỗi cho sinh viên trong việc sử dụng ngôn ngữ thứ hai là vô cùng cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu đó, chúng tôi lựa chọn đề tài “Khảo sát lỗi ngữ pháp trong sử dụng tiếng Việt của sinh viên Trung Quốc tại một số trường đại học ở Hà Nội” với hy vọng có thể có một đóng góp nhỏ vào việc giúp sinh viên Trung Quốc học tiếng Việt hiệu quả hơn và sử dụng tiếng Việt tốt hơn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn đặt mục đích thu thập, khảo sát, phân tích lỗi ngữ pháp của sinh viên Trung Quốc trong sử dụng tiếng Việt. Trên cơ sở những hiểu biết căn bản về tiếng Việt và tiếng Trung, luận văn sẽ cố gắng tìm ra nguyên nhân và đề nghị một số giải pháp khắc phục lỗi nhằm giúp sinh viên sử dụng tiếng Việt tốt hơn, đạt hiệu quả giao tiếp cao hơn. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên đây, luận văn dự kiến sẽ thực hiện những nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu, tìm hiểu cơ sở lý thuyết về giao thoa ngôn ngữ, về lỗi trong học ngoại ngữ. 2
  9. - Tìm hiểu đặc điểm ngữ pháp của tiếng Trung và tiếng Việt. - Thống kê tất cả các loại lỗi ngữ pháp mà sinh viên Trung Quốc mắc phải trong sử dụng tiếng Việt. - Phân tích và miêu tả lỗi ngữ pháp của sinh viên Trung Quốc học tiếng Việt ở hai phạm vi: lỗi sử dụng hƣ từ và lỗi trật tự thành phần câu và ngữ đoạn. - Dựa vào đặc điểm của tiếng Trung và tiếng Việt, tìm cách lý giải các nguyên nhân mắc lỗi từ cả góc độ khách quan cũng nhƣ chủ quan và đề nghị một số giải pháp khắc phục. 3. Tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 3.1. Tư liệu nghiên cứu Luận văn đã nghiên cứu trên nguồn tƣ liệu sau đây: - Nguồn tƣ liệu chủ yếu là 350 bài viết, mỗi bài khoảng 300 từ của sinh viên Trung Quốc trình độ trung cấp và cao cấp. Tƣ liệu thu đƣợc qua 300 bài viết trên đây là 373 lỗi liên quan đến những quy tắc ngữ pháp trong tiếng Việt. - Tƣ liệu thu đƣợc thông qua trò chuyện với các sinh viên về những khó khăn khi học tiếng Việt, về nguyên nhân mắc lỗi theo cảm nhận chủ quan của các em. 3.2. Phương pháp nghiên cứu - Phƣơng pháp thống kê, phân loại dùng trong việc thống kê và phân loại lỗi. - Phƣơng pháp phân tích ngữ pháp dùng trong phân tích lỗi ngữ pháp của sinh viên (ở phạm vi sử dụng các hƣ từ và trật tự thành phần câu, thành phần ngữ đoạn). 3
  10. - Thủ pháp so sánh đƣợc áp dụng trong trong nhiều trƣờng hợp để so sánh đặc điểm ngữ pháp tiếng Trung và tiếng Việt nhằm tìm ra nguyên nhân và cơ chế mắc lỗi của sinh viên. 4. Dự kiến bố cục luận văn Luận văn dự kiến chia thành ba chƣơng. Chƣơng 1: Tổng quan và cơ sở lý thuyết Chƣơng 2: Lỗi hƣ từ tiếng Việt của sinh viên Trung Quốc Chƣơng 3: Lỗi trật tự thành phần câu và trật tự từ trong các ngữ đoạn tiếng Việt của sinh viên Trung Quốc KẾT LUẬN 4
  11. Chƣơng 1 TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1 Tổng quan các nghiên cứu có liên quan đến lỗi trong việc học tiếng Việt của ngƣời nƣớc ngoài nói chung và việc học tiếng Việt của sinh viên Trung Quốc nói riêng Cho đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lỗi trong việc sử dụng tiếng Việt của ngƣời nƣớc ngoài. Có những công trình chỉ mang tính tham khảo nhƣ bài báo, tiểu luận, tham luận. Nhƣng cũng có những công trình là những nghiên cứu khoa học chuyên sâu có tính ứng dụng rất cao. Gần đây nhất phải kể đến Luận án tiến sĩ ngữ văn của Nguyễn Thiện Nam. Đề tài tác giả nghiên cứu là “Khảo sát lỗi ngữ pháp tiếng Việt của người nước ngoài và những vấn đề liên quan.” Trong luận án này, lần đầu tiên, lỗi ngữ pháp đƣợc tác giả khảo sát một cách hệ thống dƣới ánh sáng của lý luận phân tích lỗi hiện đại. Và cũng lần đầu tiên, thủ pháp xử lý lỗi ngữ pháp trong một giáo trình dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài đƣợc đề cập đến. Luận án cũng mang đến một cách hiểu đúng hơn về bản chất ngữ nghĩa – ngữ pháp của một số hiện tƣợng ngữ pháp tiếng Việt mà từ xƣa đến nay các sách ngữ pháp, các từ điển và các sách dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài còn bỏ sót hoặc bỏ qua. Luận án đã giới thiệu một cách hệ thống những cơ sở lý luận của vấn đề lỗi và phân tích lỗi của ngƣời học ngôn ngữ thứ hai theo cách nhìn của ngôn ngữ học ứng dụng (theo lời tác giả). Trƣớc luận án này, tác giả Nguyễn Thiện Nam còn có một số bài viết liên quan đến lỗi đã đƣợc công bố nhƣ : “Một vài nhận xét và lý giải về lỗi dùng từ Hán – Việt của người Nhật Bản” đƣợc đăng trong Kỷ yếu hội nghị “Tiếng Việt như một ngoại ngữ”, “Hiện tượng tỉnh lược chủ ngữ trong tiếng Nhật đối với lỗi giao thoa trong tiếng Việt của người Nhật Bản” đƣợc đăng trên tạp chí Ngữ học trẻ 97; “Một vài 5
  12. nhận xét về lỗi giao thoa của người Campuchia khi học tiếng Việt” đƣợc đăng trong Kỷ yếu hội nghị quốc tế lần thứ năm về các ngôn ngữ Châu Á, 2000; “Một vài nhận xét về lỗi sử dụng các từ “cả”, “tất cả”, “mọi” trong tiếng Việt của người nước ngoài”, trên Ngữ học trẻ 2000, ... Ngoài các nghiên cứu của Nguyễn Thiện Nam, còn phải kể đến một số bài viết và công trình nghiên cứu của các tác giả nhƣ : Nguyễn Linh Chi với “Một số nhận xét về lỗi dùng từ đặt câu của người nước ngoài học tiếng Việt” (Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống số 8 – 2007), “Lỗi trật tự từ của người bản ngữ tiếng Anh học tiếng Việt” (Tạp chí ngôn ngữ số 7 – 2008), “Lỗi ngôn ngữ của người nước ngoài học tiếng Việt (trên tư liệu từ vựng, ngữ pháp của người Anh, Mĩ )” (Luận án tiến sĩ ngữ ngôn ngữ học). Nguyễn Văn Phúc với “Nghiên cứu các dạng lỗi phát âm tiếng Việt của sinh viên nói tiếng Anh” (Luận án tiến sĩ khoa học ngữ văn). Đỗ Thị Thu với “Xem xét cách diễn đạt câu tiếng Việt của người nước ngoài khi học tiếng Việt” (Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn), Đinh Lê Huyền Trâm “Khảo sát lỗi từ vựng và ngữ pháp của sinh viên Lào và Campuchia học tiếng Việt tại trường Hữu Nghị 80” (Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ),... Các bài viết và công trình nghiên cứu đƣợc liệt kê trên đây dù ở dạng đúc kết kinh nghiệm hay là những nghiên cứu chuyên sâu thì cũng đều giải quyết đƣợc một số yêu cầu cụ thể trong việc phát hiện, xử lý và đƣa ra đƣợc những giải pháp khắc phục lỗi, đóng góp hữu hiệu trong công tác dạy và học tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài nói chung. Liên quan đến lỗi trong sử dụng tiếng Việt của ngƣời Trung Quốc, có ba đề tài đã đƣợc công bố, một là “Lỗi của người Trung Quốc học tiếng Việt nhìn từ góc độ xuyên văn hóa (xét về khía cạnh từ vựng)”của Lê Xảo Bình, hai là “Khảo sát lỗi sử dụng từ ngữ của học viên Trung Quốc học tiếng Việt” của Lê Thị Nguyệt Minh, ba là “Khảo sát lỗi ngữ âm của người Trung Quốc học tiếng Việt và cách khắc phục” của Đào Thị Thanh Huyền. Trong các 6
  13. nghiên cứu trên, Lê Xảo Bình và Lê Thị Nguyệt Minh đều mô tả và phân tích lỗi trong phạm vi từ vựng nhƣng đi theo hai hƣớng hoàn toàn khác nhau. Lê Xảo Bình thì nghiên cứu từ góc độ xuyên văn hóa, chủ yếu mô tả về lỗi dùng sai một số danh từ, động từ, tính từ, hƣ từ và lỗi dùng một số thành ngữ tục ngữ. Những mô tả về lỗi của Lê Xảo Bình thể hiện rõ nét mối quan hệ giao thoa văn hóa dẫn đến giao thoa ngôn ngữ. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ dừng lại ở phạm vi này mà chƣa có những tìm tòi sâu hơn về lỗi từ vựng trên bình diện cấu trúc, ngữ pháp và ngữ nghĩa. Dựa trên lý thuyết so sánh đối chiếu liên ngôn ngữ, Lê Thị Nguyệt Minh lại đƣa ra một cách nhìn hệ thống về thực trạng các loại lỗi từ vựng của sinh viên Trung Quốc đồng thời mô tả và phân tích lỗi từ vựng một cách khoa học về mặt cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa, từ đó tìm ra những nét tƣơng đồng và khác biệt trong tiếng Việt và tiếng Trung. Riêng Đào Thị Thanh Huyền lại đi sâu nghiên cứu về một mảng rất khó trong ngôn ngữ, lỗi về ngữ âm. Lỗi ngữ âm là loại lỗi rất phức tạp và bao gồm nhiều cấp độ nhƣng với nghiên cứu của mình, tác giả Đào Thị Thanh Huyền đã thống kê và miêu tả các loại lỗi ngữ âm từ cấp độ âm tiết cho đến cấp độ từ và câu mà sinh viên Trung Quốc thƣờng hay mắc phải. Bên cạnh những kết quả nghiên cứu đƣợc trình bày một cách khoa học, tác giả cũng nêu ra đƣợc những thuận lợi và khó khăn khi học tiếng Việt của sinh viên Trung Quốc, từ đó đƣa ra đƣợc những giải pháp giúp cho sinh viên Trung Quốc khắc phục đƣợc khó khăn trong việc học phát âm tiếng Việt. Trƣớc thực tế nghiên cứu về lỗi trong sử dụng tiếng Việt, và nhu cầu học tiếng Việt của sinh viên Trung Quốc ngày càng tăng, chúng tôi nhận thấy lỗi ngữ pháp cũng là một trong những loại lỗi phổ biến mà sinh viên Trung Quốc thƣờng mắc phải nhƣng chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề này. Trƣớc những đòi hỏi từ thực tế giảng dạy và học tập, chúng tôi tiến hành khảo sát lỗi ngữ pháp trong sử dụng tiếng Việt của sinh viên Trung 7
  14. Quốc tại một số trƣờng đại học ở Hà Nội với mục đích tìm ra những loại lỗi ngữ pháp phổ biến của đối tƣợng sinh viên này, tìm hiểu những cơ chế mắc lỗi thông qua phân tích những khác biệt giữa hai thứ tiếng có thể dẫn đến giao thoa ngôn ngữ, từ đó, chúng tôi mong muốn hƣớng tới việc nâng cao hơn nữa hiệu quả trong việc đào tạo tiếng Việt cho sinh viên Trung Quốc nói riêng và tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài nói chung. 1.2. Cơ sở lí thuyết 1.2.1 Giao thoa ngôn ngữ a. Giao thoa ngôn ngữ là gì Theo định nghĩa của Vật lí học thì giao thoa có nghĩa là hiện tƣợng hai hay nhiều sóng có cùng tần số làm tăng cƣờng hoặc làm yếu lẫn nhau khi gặp nhau tại cùng một thời điểm [27, tr622]. Áp dụng khái niệm này vào lĩnh vực ngôn ngữ, chúng tôi cho rằng, hiện tƣợng giao thoa trong ngôn ngữ chính là hiện tƣợng mà khi một ngƣời học và sử dụng ngôn ngữ thứ hai nhƣng do áp lực của thói quen bản ngữ nên đã tiếp nhận và hình thành thói quen ngôn ngữ mới trên nền của thói quen bản ngữ. Hay nói cách khác thói quen bản ngữ đã chi phối việc tiếp nhận và hình thành thói quen ngôn ngữ mới. Điều này tất yếu dẫn đến hai xu hƣớng đó là thói quen bản ngữ có thể vừa tạo điều kiện thuận lợi hoặc cùng lúc có thể gây trở ngại cho ngƣời học và sử dụng ngôn ngữ thứ hai trong việc tiếp nhận ngôn ngữ đích. b. Những khác biệt văn hóa và ngôn ngữ làm nảy sinh giao thoa Ngôn ngữ lâu nay không còn đƣợc nghiên cứu thuần tuý nhƣ một hệ thống tín hiệu mà đã đƣợc xem xét dƣới nhiều bình diện khác nhau của hoạt động giao tiếp. Theo cách tiếp cận này, các nhà nghiên cứu ngày càng nhận ra tầm quan trọng của văn hoá trong ngôn ngữ và giao tiếp liên ngôn ngữ. Văn hoá là một hiện tƣợng xã hội, là sản phẩm đƣợc hình thành qua hoạt động 8
  15. sáng tạo của con ngƣời. Văn hoá đồng thời cũng là một hiện tƣợng lịch sử, là thứ đặt nền móng cho lịch sử xã hội. Mỗi một đời ngƣời đều kế thừa một nền văn hoá sẵn có, đồng thời không ngừng hoàn thiện và đổi mới nền văn hoá vốn có ấy, cống hiến rất nhiều cho sự nghiệp phát triển văn hoá xã hội của nhân loại. Văn hoá có tính độc đáo và tính dân tộc rõ rệt, là tiêu chí nhận diện sự khác biệt giữa các dân tộc. Trong khi đó, ngôn ngữ giống nhƣ một tấm gƣơng, nó phản ánh văn hoá của một dân tộc, thể hiện nội dung văn hoá của dân tộc đó. Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp nhƣng nó không tồn tại độc lập mà ở trong cùng một chỉnh thể với văn hoá. Ngôn ngữ và văn hoá phụ thuộc vào nhau, ảnh hƣởng lẫn nhau. Ngôn ngữ là phƣơng tiện quan trọng để truyền tải văn hoá, còn văn hoá lại có tác dụng chế ƣớc ngôn ngữ. Khi học một ngôn ngữ, trƣớc tiên cần phải tìm hiểu về văn hoá của dân tộc sử dụng ngôn ngữ đó, chỉ có nhƣ vậy mới có thể thực sự thấu hiểu và nắm bắt đƣợc ngôn ngữ đó. Con ngƣời dùng ngôn ngữ để sáng tạo ra văn hoá, ngƣợc trở lại, văn hoá làm phong phú thêm các phƣơng thức biểu đạt ngôn ngữ. Cả ngôn ngữ và văn hóa đều là cái riêng có của xã hội loài ngƣời. Giống nhƣ văn hóa, ngôn ngữ không phải là nét di truyền mang tính sinh vật mà là do con ngƣời sau khi sinh ra học tập mà thành. Trong cuốn “ Văn hóa nhân loại học và ngôn ngữ học”, Goodenough đã chỉ ra rằng: “ ngôn ngữ của một xã hội là một khía cạnh văn hóa của xã hội đó. Quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa là quan hệ bộ phận và chỉnh thể.” Ngay từ những năm hai mƣơi của thế kỉ XX, nhà ngôn ngữ học ngƣời Mĩ Edward Sapir (1884-1939) trong cuốn “Ngôn ngữ” , đã cũng chỉ ra: “... có những thứ tồn tại phía sau ngôn ngữ, hơn nữa ngôn ngữ không thể tồn tại tách rời văn hóa”. Xét từ mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, có thể thấy giao thoa nảy sinh từ các phƣơng diện dƣới đây: 9
  16. - Những khác biệt về văn hóa dẫn đến giao thoa ngữ âm: ảnh hƣởng của văn hóa đến ngữ âm rất rõ rệt. Có thể dẫn ra ví dụ sau: ở khu vực ba tỉnh phía đông bắc Trung quốc, rất nhiều ngƣời cao tuổi có thể nói đƣợc tiếng Nhật với những từ ngữ đơn giản hàng ngày nhƣng với những ngƣời nghe biết tiếng Nhật, họ đều có thể nhận ra đó không phải là ngƣời Nhật. Điều này liên quan trực tiếp đến việc thực dân và xâm lƣợc của Nhật Bản đối với ba tỉnh phía đông Trung Quốc trong những năm ba mƣơi và bốn mƣơi của thế kỉ trƣớc. Để có thể thống trị, chế độ thực dân đã tiến hành truyền bá ngôn ngữ của mình lên một vùng lãnh thổ rộng lớn và nhƣ thế những ngƣời sống dƣới chế độ thực dân đó dần dần nói đƣợc tiếng bản ngữ của kẻ thực dân xong vẫn giữ nét riêng biệt trong giọng nói của mình. Hay nhƣ Hồng Kông – Trung Quốc và Ấn Độ sau một thời gian dài dƣới sự cai trị của thực dân Anh đều đã dùng tiếng Anh làm ngôn ngữ chính thống, nhƣng do đặc chƣng phát âm của mỗi quốc gia, dân tộc nên trong quá trình truyền bá đã tạo ra những nét khác biệt về ngữ âm trong tiếng Anh, vì vậy có thể phân biệt đƣợc tiếng Anh - Ấn với tiếng Anh – Hồng Kông. - Những khác biệt về văn hoá dẫn đến giao thoa ngữ nghĩa: trong một ngôn ngữ đơn nhất, rất khó để nhìn thấy một cách rõ ràng hàm nghĩa của văn hoá ẩn sau ngôn ngữ. Nhƣng qua so sánh một số ngôn ngữ với nhau, quan hệ nội tại giữa văn hoá và ngôn ngữ dần dần đƣợc sáng tỏ. Trong tiếng Trung và tiếng Việt, những từ ngữ tƣơng quan với từ “狗”(chó) thƣờng mang nghĩa xấu, chẳng hạn nhƣ “狗仗人势”(chó cậy thế chủ), “狗急跳势” (chó cùng giứt giậu) nhƣng trong tiếng Anh, những từ ngữ hoặc tục ngữ có gắn với từ “dog” (chó) lại mang sắc thái cảm thông, khen ngợi , ví dụ: clever dog (ngƣời thông minh); love me, love my dog (yêu tôi, hãy yêu cả chó của tôi) ; lucky dog 10
  17. (vận may), ...Hay chẳng hạn nhƣ “rồng” trong văn hoá Trung Quốc tƣợng trƣng cho quyền lực và may mắn, đa số ngƣời Trung Hoa cho rằng mình là “truyền nhân của rồng” thì ngƣợc lại, trong văn hoá của ngƣời Anh “dragon” – rồng chỉ là một con quái vật gớm ghiếc biết phun lửa mà thôi . Ví dụ, khi nói“He is a dragon”thì không có nghĩa là “Anh là là một con rồng” không những không có ý khen ngợi mà còn có ý chê bai, nghĩa của câu này là “Anh ta là một kẻ tàn tật” . Gần đây, ngƣời ta ngày càng quan tâm nhiều hơn đến mối quan hệ bên trong giữa ngôn ngữ và văn hoá và nhờ vào ngôn ngữ họ tìm mọi cách để hoá giải những xung đột và ngăn cách giữa các nền văn hoá. - Những khác biệt về văn hoá dẫn đến giao thoa ngữ dụng: Nhìn từ quan điểm của ngữ dụng học, ngôn ngữ và văn hoá có một mối quan hệ vô cùng chặt chẽ và bền vững. Chẳng hạn trong tiếng Việt và tiếng Trung, quan hệ thân tộc đƣợc phân biệt rất rõ ràng bằng các vai cô, dì, chú,thím, bác trai, bác gái, cậu, mợ, ... Trong khi ở tiếng Anh, cũng với những quan hệ thân tộc nhƣ “chú, bác, cậu, dƣợng, ...” chỉ gọi chung bằng một từ “ uncle”. Hay nhƣ ở tiếng Việt, trong giao tiếp rất chú trọng đến tôn ti thứ bậc, thƣờng dùng những từ xƣng hô thân tộc để phân biệt già trẻ, lớn bé. Hơn nữa, ngƣời Việt khi mới quen còn thƣờng hỏi tuổi tác để phân biệt trên dƣới trong việc xƣng hô. Ngƣợc lại, đó lại là một cấm kị trong văn hoá của ngƣời Anh, với ngƣời TQ cũng tƣơng tự, đặc biệt là đối với phụ nữ, hỏi tuổi là rất mất lịch sự. Trong tiếng Anh và tiếng Trung, khi giao tiếp họ cũng thƣờng chỉ dùng hai ngôi là “I” và “you” hay “你” và “我 ”. Với các nƣớc phƣơng Tây, trong ngôn ngữ của họ không có quan niệm về thứ bậc hay tôn ti nhƣ ở tiếng Việt của chúng ta cho nên trong giao tiếp họ không có những từ xƣng hô thân tộc. Những khác biệt và tƣơng đồng giữa các ngôn ngữ về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp thƣờng đƣợc gọi là giao thoa ngôn ngữ, các cộng đồng ngôn 11
  18. ngữ - văn hoá cũng có những phong cách giao tiếp ngôn ngữ không giống nhau. Sự khác biệt trong phong cách giao tiếp này thƣờng không dễ đƣợc nhận diện ngay và trong giao tiếp thƣờng gây ra những ngộ nhận đôi khi còn trầm trọng hơn những ngộ nhận do sự khác biệt ngôn ngữ gây ra. Do vậy những giao thoa văn hoá cũng cần đƣợc xem xét nghiên cứu đầy đủ nhƣ các giao thoa ngôn ngữ. Giao thoa văn hoá trong giao tiếp liên ngôn ngữ thể hiện qua hai hiện tƣợng là vay mượn và chuyển di. Hiện tƣợng vay mượn thể hiện qua việc ngƣời học lấy những phong tục tập quán, kinh nghiệm dân gian, thói quen bản ngữ sẵn có để vận dụng vào kho từ vựng khi sử dụng ngôn ngữ thứ hai. Sự vay mƣợn này sẽ từng ngày từng ngày đi vào đời sống của cộng đồng và dần trở thành ngôn ngữ toàn dân. Vay mƣợn có những mức độ khác nhau, có thể là toàn phần hoặc một phần. Vay mƣợn toàn phần còn đƣợc gọi là hiện tƣợng trộn mã hay chuyển mã, là hiện tƣợng ngƣời nói mƣợn nguyên văn cả cách phát âm lẫn nghĩa của từ hoặc câu của ngữ nguồn để sử dụng trong ngữ đích. Vay mƣợn một phần là hiện tƣợng ngƣời nói chỉ mƣợn cách phát âm chứ không mƣợn nghĩa hoặc ngƣợc lại chỉ mƣợn nghĩa còn phát âm lại bằng ngữ nguồn. Đây chính là biểu hiện của giao thoa văn hoá giữa hai ngôn ngữ [02, tr31]. Chuyển di theo quan điểm của Odlin (1989) “là sự ảnh hƣởng xuất phát từ sự giống nhau và khác nhau giữa ngôn ngữ đích và bất kì ngôn ngữ nào khác đã đƣợc thụ đắc (có thể chƣa hoàn hảo) trƣớc đó”. Chuyển di đƣợc chia làm hai loại là chuyển di tích cực và chuyển di tiêu cực. Chuyển di tích cực là những chuyển di tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình học ngôn ngữ đích. Còn chuyển di tiêu cực thì ngƣợc lại sẽ gây khó khăn trong việc học ngôn ngữ đích [02, tr32]. 12
  19. Gần đây, việc giảng dạy ngôn ngữ theo đƣờng hƣớng giao tiếp đã trở thành một phƣơng pháp quan trọng giúp cho ngƣời học có thể thụ đắc một cách hiệu quả khi sử dụng ngôn ngữ thứ hai trong môi trƣờng của một thế giới đa văn hoá nhƣ hiện nay, đồng thời phƣơng pháp này giúp cho ngƣời học phát triển đƣợc khả năng giao tiếp liên văn hoá. 1.2.2 Khái niệm lỗi và phân loại lỗi 1.2.2.1 Khái niệm lỗi “Từ điển ngôn ngữ học ứng dụng và dạy tiếng” định nghĩa lỗi nhƣ sau: “Lỗi của người học (trong khi nói hoặc viết một ngôn ngữ thứ hai hay ngoại ngữ) là hiện tượng sử dụng một đơn vị ngôn ngữ (chẳng hạn một từ, một đơn vị ngữ pháp, một hoạt động nói năng,...) bằng cách mà người bản ngữ hoặc người giỏi thứ tiếng đó cho là sai hoặc cho là chưa đầy đủ” [17, tr7]. Trong ngôn ngữ, tuỳ vào từng quan điểm khác nhau mà cách nhìn nhận về lỗi cũng khác nhau. Dựa vào kết quả nghiên cứu của những học giả đi trƣớc có thể tóm lƣợc vài quan điểm về lỗi nhƣ sau. - Theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận: lỗi là một hiện tƣợng đƣơng nhiên trong quá trình ngƣời học thụ đắc một ngoại ngữ. Lỗi không phải là hiện tƣợng tiêu cực trong quá trình học ngoại ngữ, cũng không phải là phiên bản méo mó của ngôn ngữ đích mà lỗi thể hiện sự tham gia tích cực của ngƣời học, thể hiện những chiến lƣợc quan trọng mà ngƣời học áp dụng để khám phá và thụ đắc ngôn ngữ đích và lỗi là chứng cứ rõ ràng nhất về hệ thống ngôn ngữ đang phát triển của ngƣời học – ngôn ngữ trung gian. Ngôn ngữ trung gian này luôn biến đổi trong quá trình ngƣời học thụ đắc ngôn ngữ đích và tiến gần đến ngôn ngữ đích nhƣng không thể hoàn toàn trở thành ngôn ngữ đích [18]. 13
  20. - Theo quan điểm của ngôn ngữ học chức năng: các nhà ngôn ngữ học đi theo khuynh hƣớng này luôn đề cao chức năng giao tiếp của ngôn ngữ. Bởi vậy họ cho rằng việc mắc lỗi là đƣơng nhiên và nhiều khi đƣợc bỏ qua trong quá trình giao tiếp, miễn là ngƣời nói diễn đạt đƣợc điều họ muốn nói và ngƣời nghe tiếp nhận và hiểu đƣợc thông điệp mà ngƣời nói muốn truyền đi. Phát ngôn có thể lệch chuẩn hoặc bị lỗi theo lí thuyết nhƣng vẫn có thể đƣợc chấp nhận nếu chúng vẫn diễn đạt đƣợc đúng ý của ngƣời nói và ý đó đƣợc ngƣời nghe hiểu đƣợc [01,tr42,43]. - Ngƣợc lại với quan điểm của ngôn ngữ học chức năng, ngôn ngữ học cấu trúc cho rằng, lỗi là không thể chấp nhận và phải đƣợc ngăn chặn bằng mọi giá. Vì theo quan điểm này, lỗi đƣợc xem nhƣ các thói quen xấu khác, là những biểu hiện không tốt cho việc học tiếng một cách hiệu quả và lỗi chính là những nhân tố ngăn cản việc hình thành thói quen sử dụng ngôn ngữ đích [01,tr40,41]. Tuy các quan điểm về lỗi khác nhau nhƣng tất cả đều có chung một mục đích là thông qua phân tích lỗi để tìm hiểu quá trình học ngôn ngữ thứ hai (hay ngoại ngữ) diễn ra nhƣ thế nào. Để có thể phân tích lỗi thì việc đầu tiên ngƣời nghiên cứu phải làm là xác định đƣợc đâu là lỗi, sau đó phân loại lỗi đó thuộc loại gì, tiếp đến tìm hiểu xem đâu là nguyên nhân gây ra lỗi. Từ đó giải thích cơ chế thể hiện ngôn ngữ của ngƣời học và tiến đến một mục đích cao hơn là thấy đƣợc những khó khăn của ngƣời học để có biện pháp giúp cho ngƣời học xử lí lỗi và có thể tự vƣợt qua các khó khăn trong quá trình học tiếng. Theo Pit Corder, có mấy nguyên nhân sau có thể tạo ra lỗi trong quá trình học một ngoại ngữ [18]: - Vƣợt tuyến: là chiến lƣợc ngƣợc ngƣời học nới rộng những quy tắc ngôn ngữ ra ngoài phạm vi của nó. Hay nói cách khác là sử dụng tri thức đã biết ở ngôn ngữ đích để khám phá ngôn ngữ đích. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2