intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ: So sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của các thành ngữ Anh – Việt sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

33
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là mô tả sự giống nhau và khác biệt của TNBPCTKM trong các thứ tiếng Anh và tiếng Việt trên các bình diện ngữ nghĩa, cấu trúc, phong cách. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ: So sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của các thành ngữ Anh – Việt sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TÔN VÂN TRANG SO SÁNH PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN Ý NGHĨA CỦA CÁC THÀNH NGỮ ANH – VIỆT SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ CHỈ CƠ THỂ CON NGƢỜI (GIỚI HẠN Ở KHUÔN MẶT) LUẬN VĂN THẠC SỸ NGÔN NGỮ Hà Nội - 2003
  2. 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TÔN VÂN TRANG SO SÁNH PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN Ý NGHĨA CỦA CÁC THÀNH NGỮ ANH – VIỆT SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ CHỈ CƠ THỂ CON NGƢỜI (GIỚI HẠN Ở KHUÔN MẶT) Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ Mã số: 50408 Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ Người hướng dẫn khoa học: PGS.,TS. Trần Trí Dõi Hà Nội - 2003
  3. 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Ý nghĩa của luận văn 6. Cấu trúc của luận văn 7. Cái mới của luận văn CHƢƠNG 1: MỘT SỐ TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT PHỤC VỤ CHO LUẬN VĂN 1.1. Vài nét khái quát về phương pháp so sánh đối chiếu 1.2. Khái niệm về thuật ngữ so sánh đối chiếu 1.3. Phương pháp so sánh đối chiếu 1.4. So sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của thành ngữ 1.5. Tiểu kết chương 1 CHƢƠNG 2: THÀNH NGỮ SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ CHỈ CƠ THỂ CON NGƢỜI (GIỚI HẠN Ở KHUÔN MẶT) TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT 2.1. Khái niệm cơ bản về thành ngữ 2.2. Vắn tắt vài nét về tình hình nghiên cứu thành ngữ trong Tiếng Anh và Tiếng Việt. 2.3. Xác định thành ngữ sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt) (TNBPCTKM ) và tiêu chí phân loại TNBPCTKM 2.4. Phân loại TNBPCTKM 2.5. Tiểu kết chương 2
  4. 4 CHƢƠNG 3: SO SÁNH ĐỐI CHIẾU THÀNH NGỮ TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT 3.1. Những nhận xét về sự phân bố của TNBPCTKM 3.2. Những nhận xét về cấu trúc của TNBPCTKM 3.3. Những nhận xét về ngữ nghĩa của TNBPCTKM 3.3.1. Mối liên hệ giữa ý nghĩa và hình ảnh của các TNBPCTKM trong Tiếng Anh và Tiếng Việt 3.3.2. Tích cực hay không tích cực khi sử dụng các TNBPCTKM 3.3.3. Sử dụng các TNBPCTKM theo nghĩa trực tiếp hay gián tiếp của các thành ngữ này 3.4. Tiểu kết chương 3 CHƢƠNG 4: MỘT VÀI SUY NGHĨ TRONG VIỆC SỬ DỤNG THÀNH NGỮ SỬ DỤNG CÁC YẾU TỐ CHỈ CƠ THỂ CON NGƢỜI (GIỚI HẠN Ở KHUÔN MẶT) TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT 4.1. Ứng dụng trong khi chuyển dịch thành ngữ từ Tiếng Việt sang Tiếng Anh. 4.2. Ứng dụng trong giảng dạy 4.3. Tiểu kết chương 3 KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH PHẦN PHỤ LỤC
  5. 5 QUY ƯỚC TRÌNH BÀY VÀ VIẾT TẮT A. Quy ước trình bày ví dụ bằng hai thứ tiếng: 1. Các thành ngữ dẫn chứng đều được sắp xếp theo trật tự: tiếng Anh – tiếng Việt. Phần trực dịch từng từ được để trong ngoặc kép sau dấu ngoặc đơn của các thành ngữ tiếng Anh. Nghĩa của thành ngữ được để dưới dạng in nghiêng sau dấu gạch nối. Ví dụ: Get somebody’s nose out of joint (“cho mũi của ai ra khỏi khớp nối”) – khinh người như mẻ, khinh khỉnh như chĩnh mắm thối, khinh người như rác. 2. Các ví dụ được trích dẫn trong luận văn được trình bày theo trật tự như sau: Tiếng Anh - Tiếng Việt Các thành ngữ trong ngữ cảnh được gạch dưới Ví dụ: At last, Mr. Smith came upon the rare stamp he had been seeking at an auction. Since many other stamp collection would also be bidding for it, he realized that he would have to pay through the nose in order to have it. Cuối cùng thì ông Smith cũng nhìn thấy con tem hiếm ở cuộc bán đấu giá mà ông tốn bao công tìm kiếm. Nhưng cũng có nhiều người sưu tầm muốn mua nên ông nhận thấy chắc mình sẽ phải mất tiền đống mới hi vọng mua được nó. B. Quy ước viết tắt. Trong luận văn, chúng tôi viết tắt một số theo cách dùng lần đầu là đầy đủ, từ lần dùng thứ hai trở đi là từ viết tắt. Ví dụ: ngôn ngữ (NN), tiếng Anh (TA). Chúng tôi có viết tắt một số từ như sau: TNBPCTKM: Thành ngữ bộ phận cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt) TNBPCTCN: Thành ngữ bộ phận cơ thể con người BPCTCN: Bộ phận cơ thể con người
  6. 6 NN: Ngôn ngữ TA: Tiếng Anh TV: Tiếng Việt NNN: Ngôn ngữ nguồn NNĐ: Ngôn ngữ đích NND: Ngôn ngữ dịch VBĐ: Văn bản đích
  7. 7 DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ Sơ đồ 2.1 Các đơn vị chỉ bộ phận cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt) tiếng Anh và tiếng Việt Sơ đồ 2.2 Sơ đồ TNBPCTKM Bảng 2.1 Bảng thống kê TNBPCTKM Sơ đồ 3.1 Sự phân bố TNBPCTKM Sơ đồ 3.2 Sụ phân bố TNBPCTKM theo từng tiểu nhóm Bảng 3.1. Cấu trúc của TNBPCTKM trong tiếng Anh và tiếng Việt Bảng 3.2 Cấu trúc của TNBPCTKM trong tiếng Anh và tiếng Việt (tiếp theo) Sơ đồ 3.3 Cấu trúc TNBPCTKM ở tiếng Anh và tiếng Việt Bảng 3.3 Phân loại TNBPCTKM trên mối liên hệ giữa ngữ nghĩa và hình ảnh trong tiếng Anh và tiếng Việt. Bảng 3.4 Thống kê các trường hợp về mối liên hệ giữa hình ảnh và ý nghĩa thành ngữ. Bảng 3.5 Bảng thống kê ý nghĩa của các thành ngữ có sử dụng các bộ phận trên khuôn mặt con người Bảng 3.6 Bảng thống kê cách dùng TN trong tiếng Anh và tiếng Việt Bảng 4.1 Cách chuyển dịch từ TV sang TA
  8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Hiện nay, nhu cầu kiến thức ngôn ngữ (NN) nói chung và ngoại ngữ nói riêng trong xã hội hiện đại ngày càng cao do mở rộng giao lưu văn hoá, kinh tế, xã hội của Việt Nam với nước ngoài, nhất là với các nước nói tiếng Anh (TA). Để đáp ứng nhu cầu học, sử dụng và giảng dạy TA chuyên sâu, bên cạnh việc giảng dạy TA theo các trình độ khác nhau, việc hiểu và sử dụng các thành ngữ TA cũng rất là quan trọng. Một người có trình độ ngoại ngữ tốt không chỉ có kiến thức về ngôn ngữ mình học, mà còn phải nắm vững cả NN của dân tộc mình, kiến thức về đất nước, phong tục tập quán sinh hoạt, kiến thức về văn hoá xã hội. Thành ngữ (TN), tục ngữ của các thứ tiếng là nguồn tài liệu vô tận giúp ta tìm hiểu sâu sắc về đất nước, con người của NN mình nghiên cứu, học tập. Do đó, luận văn này cố gắng tập trung nghiên cứu so sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của các thành ngữ Anh – Việt sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt) (TNBPCTKM), nhằm giúp cho người sử dụng ngoại ngữ hiệu quả hơn. Hiện nay đã có những nghiên cứu so sánh đối chiếu TN, nhưng những nghiên cứu về so sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của các thành ngữ Anh – Việt sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt) thì chưa có. Có thể nói đây là một luận văn đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này một cách tương đối có hệ thống trên nền của hai ngôn ngữ Anh và Việt. Việc chọn đề tài nghiên cứu so sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của các thành ngữ Anh – Việt sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt) xuất phát từ nhu cầu thực tiễn học tập và giảng dạy ở các trường đại học chuyên ngữ. 2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn.
  9. 9 Mục đích của luận văn là mô tả sự giống nhau và khác biệt của TNBPCTKM trong các thứ tiếng Anh và tiếng Việt trên các bình diện ngữ nghĩa, cấu trúc, phong cách. Từ đó, luận văn phải thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản như sau: - Khảo sát và đối chiếu TNBPCTKM Anh, Việt trong ngữ cảnh. - Đưa ra các tiêu chí phân loại, các nhận xét khách quan về phương thức sử dụng TNBPCTKM trong Tiếng Anh và Tiếng Việt để có thể làm rõ đặc trưng dân tộc về tư duy của người Anh và người Việt trong phạm vi sử dụng TNBPCTKM. - Đưa ra các chỉ dẫn trong sử dụng TN các thứ tiếng. 3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là TNBPCTKM của tiếng Anh và tiếng Việt và phương thức thể hiện ý nghĩa của các TNBPCTKM của Tiếng Anh và tiếng Việt. Đây là những TN thông dụng trong cuộc sống hàng ngày của Anh hoặc Bắc Mỹ, được dùng phổ biến trong các sách học TA viết cho người nước ngoài, trong từ điển TN tiếng Anh và tiếng Việt. Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào TNBPCTKM trong các thứ tiếng Anh và tiếng Việt. Về tư liệu khảo sát luận văn chỉ giới hạn tài liệu nghiên cứu trong phạm vi những TN được coi là thông dụng (theo COBUILD CORPUS và theo khảo sát kiến thức TN của người bản ngữ), hoặc những thành ngữ có thể gây hiểu sai nghĩa đối với người Việt học tiếng Anh. Tất cả những TN có chú giải “cổ” (trong từ điển), hoặc chưa gặp (trong khảo sát) đều không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn này, mặc dù có thể được đề cập khi cần thiết. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp chính được áp dụng trong luận văn này là phương pháp đối chiếu và phương pháp miêu tả. Phương pháp so sánh đối chiếu:
  10. 10 TN TA là những đơn vị TN của ngôn ngữ nguồn (NNN). Tiếng Việt là TN của ngôn ngữ đích (NNĐ). Đối chiếu là phương pháp nghiên cứu dựa trên sự so sánh hai hay nhiều ngôn ngữ để “phát hiện ra những nét giống nhau về cấu trúc, chức năng và hoạt động của các phương tiện ngôn ngữ được nghiên cứu” [26;48], đồng thời cũng chú ý cả cái khác nhau, xác định, nhận diện chúng. Phương pháp miêu tả Miêu tả trong ngôn ngữ học là phương pháp nghiên cứu một hay nhiều ngôn ngữ ở một giai đoạn phát triển nhất định, chủ yếu tập trung vào phân tích ngữ pháp. “Phương pháp miêu tả nhìn nhận ngôn ngữ như một hệ thống cấu trúc” [5;68]. Nhiệm vụ nghiên cứu của chúng tôi trong luận văn này là đối chiếu phương thức thể hiện ý nghĩa của hai ngôn ngữ. Để đối chiếu được, trước hết chúng tôi tiến hành miêu tả một cách đầy đủ và phân tích một cách chi tiết các TNBPCTKM trong tiếng Anh và tiếng Việt. Những miêu tả và phân tích này dựa trên cơ sở lý thuyết của ngữ pháp hiện đại. Chúng sẽ làm cơ sở cho chúng tôi so sánh tìm ra những sự giống nhau và khác nhau về nhóm từ này trong hai ngôn ngữ, sau đó tiến hành khảo sát một số TN cụ thể. Mục đích cuối cùng của luận văn là tìm ra những đặc điểm tương đồng và dị biệt của TN Tiếng Anh và tiếng Việt và đưa ra những chỉ dẫn ngôn ngữ học, đất nước và văn hoá đối với những người sử dụng các thứ tiếng trên. 5. Ý nghĩa của luận văn Luận văn sẽ đóng góp một phần cho việc giảng dạy và học tập ngoại ngữ ở các trường đại học chuyên ngữ. Mặc dù nghiên cứu so sánh đối chiếu về thành ngữ tiếng Anh và tiếng Việt gần đây đã được quan tâm, và đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về TN, song cho đến nay chưa có nghiên cứu so sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của TNBPCTKM trong tiếng Anh và tiếng Việt.
  11. 11 Thông qua việc xác định nét tương đồng và dị biệt giữa hai TNBPCTKM ở tiếng Anh và tiếng Việt, luận văn này có thể đóng góp một phần cho việc giảng dạy và học tập ở các trường đại học chuyên ngữ có hiệu quả hơn, và đóng góp một phần không nhỏ trong việc tìm hiểu văn hoá, đất nước, con người của hai ngôn ngữ là tiếng Việt và tiếng Anh thông qua việc nghiên cứu TNBPCTKM. Như vậy, luận văn có ý nghĩa thực tế thực sự. Kết quả nghiên cứu cũng như ngữ liệu của luận văn có thể được áp dụng cho quá trình giảng dạy trong các trường chuyên ngữ hoặc được sử dụng như tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy và dịch thuật TN. 6. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm 100 trang chính. Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn bao gồm 4 chương: Chƣơng 1 Một số tiền đề lý thuyết phục vụ cho luận văn; Chƣơng 2 Thành ngữ sử dụng các yếu tố chỉ cơ thể con người (giới hạn ở khuôn mặt) trong tiếng Anh và tiếng Việt; Chƣơng 3 So sánh đối chiếu TNBPCTKM của tiếng Anh và tiếng Việt. Chƣơng 4 Một vài suy nghĩ trong việc sử dụng TNBPCTKM trong tiếng Anh và tiếng Việt. 7. Cái mới của luận văn Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu mảng TNBPCTKM từ góc độ ngữ nghĩa và phương thức thể hiện, qua đó tìm cách nhận dạng TN trên cơ sở đặc điểm văn hoá và tư duy dân tộc của mỗi cộng đồng người bản ngữ.
  12. 12 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ TIỀN ĐỀ LÝ THUYẾT PHỤC VỤ CHO LUẬN VĂN 1.1. Vài nét khái quát về phương pháp so sánh đối chiếu Sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ học đối chiếu, với tư cách là một phân ngành của ngôn ngữ học, có những tiền đề lý luận của nó. Đã từ lâu, con người hướng sự chú ý của mình không chỉ giới hạn ở những ngôn ngữ riêng lẻ, mà đồng thời một lúc vài ngôn ngữ. Chính điều đó đã dẫn đến việc xuất hiện nhiều trào lưu, nhiều khuynh hướng nghiên cứu so sánh. Khá quen thuộc với lịch sử ngôn ngữ học là: ngôn ngữ học so sánh – lịch sử, ngôn ngữ học khu vực và loại hình học. Song việc phân chia ngôn ngữ học đối chiếu (contrastive linguistics) thành một phân ngành độc lập thì mãi tới gần đây mới có và còn không ít những vấn đề tranh luận. Ngôn ngữ học đối chiếu hình thành trong trào lưu nghiên cứu so sánh nói chung. Nó bao quát một lúc nhiều ngôn ngữ bất luận ngôn ngữ đó cùng hay khác loại hình và ngữ hệ. Song phải nói rằng, nghiên cứu đối chiếu hình thành một cách trực tiếp trong tiến trình tìm tòi của con người để nắm ngoại ngữ một cách nhanh chóng, tốt hơn. Chính các yêu cầu của việc học và dạy ngoại ngữ là một nhân tố quan trọng dẫn đến sự hình thành phân ngành khoa học này. Nhà ngôn ngữ học Pháp Di Pietơrô đã viết trong cuốn “Cấu trúc ngôn ngữ qua đối chiếu” rằng: “Ngôn ngữ học đối chiếu ra đời từ kinh nghiệm dạy tiếng. Mỗi người học và dạy ngoại ngữ dễ dàng nhận ra một điều là trong nhiều trường hợp tiếng mẹ đẻ đã cản trở không nhỏ việc hiểu và nắm thuần thục ngoại ngữ. Vì vậy, việc tích luỹ những tri thức và kinh nghiệm sẽ giúp ta khắc phục một cách có hiệu quả khó khăn này” [12; 41]. L.V. Secha cũng cho rằng nghiên cứu đối chiếu không chỉ giúp cho việc học và dạy ngoại ngữ tốt hơn mà còn giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn tiếng mẹ đẻ, vì “việc nghiên cứu đó giúp chúng ta thâm nhập vào thực chất của các quá trình ngôn ngữ cũng như hiểu sâu hơn các quy luật điều khiển các quá trình
  13. 13 này” [24; 26]. Không còn nghi ngờ gì nữa chúng ta có thể đồng ý với nhận định rằng: “Mặc dầu nghiên cứu đối chiếu viện dẫn cái lý do chủ yếu ở sự cần thiết cho giáo học pháp ngoại ngữ với sự phát hiện những khác nhau cơ bản giữa ngoại ngữ và tiếng mẹ đẻ của người học, chúng ta không thể không tính đến tầm quan trọng của việc phân tích đối chiếu như một phương thức đánh giá các định đề cũng như những đòi hỏi của chính lý luận ngôn ngữ học” [41,76]. 1.2. Khái niệm về thuật ngữ so sánh đối chiếu Lịch sử phát triển của những tri thức khoa học bao giờ cũng là một quá trình liên tục và có tính kế thừa. Nội dung của các thuật ngữ nghiên cứu đối chiếu cũng được xác định trong quá trình phát triển biện chứng lịch sử đó. Ở đây, trước hết cần nói đến mối quan hệ tương ứng trong cách dùng các thuật ngữ: ngôn ngữ học so sánh, ngôn ngữ học đối chiếu. Trong nghĩa thường dùng, hai từ so sánh và đối chiếu không khác nhau nhiều về ý nghĩa. “So sánh” là xem xét để tìm ra những điểm giống, tương tự, hoặc khác biệt nhau về số lượng, kích thước, phẩm chất, còn “Đối chiếu” là so sánh hai sự vật có liên quan chặt chẽ với nhau. Đối chiếu nguyên bản với bản dịch (Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên). Như đã thấy, không hẳn định nghĩa trên đây là hoàn toàn chính xác, nhưng chúng đã cho ta ý niệm về nội dung nghĩa các từ đang nói đến. Nếu đưa nội dung này vào cách hiểu nội dung các kết hợp thuật ngữ “ngôn ngữ học so sánh”, “ngôn ngữ học đối chiếu” là hoàn toàn không chính xác. Cách hiểu nội dung thuật ngữ cần chính xác và có tính quy định hơn cách hiểu thông thường. Trong ngôn ngữ học, các thuật ngữ tiếng Việt: ngôn ngữ học so sánh tương ứng với tiếng Anh Comparative linguistics. Đó là thuật ngữ để chỉ một phân ngành của ngôn ngữ học và cái nội dung từ “so sánh” được hiểu một cách rất xác định. Việc xem xét kỹ những tài liệu ngôn ngữ học cho thấy một số nhà
  14. 14 ngôn ngữ có ý thức phân biệt Ngôn ngữ học so sánh trong nghĩa rộng với ngôn ngữ học so sánh – lịch sử. Trong trường hợp thứ nhất thuật ngữ “so sánh” dường như chủ yếu chỉ nhấn mạnh cách tư duy, về việc sử dụng so sánh như một phương pháp chung của tư duy; và vì vậy, người ta cũng có thể nói: so sánh – lịch sử, so sánh loại hình, so sánh đối chiếu v. v... Song trường hợp thứ hai, thuật ngữ so sánh được dùng với nội dung khái niệm ngôn ngữ học so sánh – lịch sử. Đây cũng là cách dùng có tính chất rút gọn. Thuật ngữ đối chiếu, đối sánh thường được dùng để chỉ phương pháp hoặc phân ngành nghiên cứu lấy đối tượng chủ yếu là hai hay nhiều ngôn ngữ. Mục đích của nghiên cứu là làm sáng tỏ những nét giống nhau và khác nhau hoặc chỉ làm sáng tỏ những nét khác nhau mà thôi. Nguyên tắc nghiên cứu chủ yếu là nguyên tắc đồng đại. Trong các tài liệu bằng tiếng Anh, lúc đầu người ta dùng phổ biến thuật ngữ so sánh (comparative) để chỉ ngôn ngữ học so sánh trong nghĩa rộng và nghĩa hẹp của từ này. Dần dần về sau thuật ngữ so sánh cũng dùng để chỉ cả nội dung đối chiếu. Trong ngôn ngữ học Anh, những thuật ngữ truyền thống được dùng tương đối lâu dài. Chẳng hạn, trong các công trình của Haliday, Mackinton, Tơrêvưn và một số tác giả khác, cho mãi đến 1964, vẫn dùng thuật ngữ so sánh – comparative. Và ngay cả Elic mãi đến 1966 vẫn dùng thuật ngữ comparative với nghĩa đối chiếu. Cho đến gần đây thuật ngữ “ngôn ngữ học đối chiếu” – contrastive linguistics mới được dùng với nghĩa của nó một cách phổ biến tức là chỉ một phân ngành nghiên cứu riêng – nghiên cứu đối chiếu. Trong phần lớn tài liệu viết bằng các tiếng châu Âu cho thấy có sự chuyển dần phân biệt so sánh đối chiếu và ngôn ngữ học so sánh lịch sử với
  15. 15 ngôn ngữ học đối chiếu. Việc dùng phân biệt đối chiếu và tương phản thì không thật sự thể hiện rõ ràng. Trong thực tiễn nghiên cứu, hàng loạt các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ, việc phân tách ra cái giống nhau và khác nhau trong đối chiếu là rất khó. Nó được thực hiện một cách đồng thời. Xác định cái khác nhau phải biết cái giống nhau cùng tồn tại giữa các sự vật. Song bao giờ cái khác nhau cũng dễ nhận thấy hơn. Vấn đề là ổn định hướng mục đích của các công trình nghiên cứu. Tìm cái chung hay cái riêng, cái phổ quát hay loại biệt, nhằm mục đích lý luận hay thực tiễn và cả phạm vi ứng dụng nào? Trả lời các câu hỏi đó là ở các công trình cụ thể, của các nhà nghiên cứu cụ thể. Nói chung, nghiên cứu đối chiếu giúp ta xác định cái giống nhau và khác nhau của các ngôn ngữ về mặt cấu trúc, hoạt động và sự phát triển của chúng. 1.3. Phương pháp so sánh đối chiếu Phương pháp đối chiếu hay phương pháp ngôn ngữ học đối chiếu có một hệ thống nguyên tắc, thủ pháp nghiên cứu riêng. Nó khác với phương pháp miêu tả và phương pháp so sánh – lịch sử. Nhưng đồng thời, phương pháp nghiên cứu này có kế thừa và sử dụng nhiều yếu tố, thủ pháp của nghiên cứu miêu tả và so sánh – lịch sử. Chính điều này tạo ra đặc điểm riêng, lợi thế và triển vọng của phương pháp nghiên cứu đối chiếu. Trước hết chúng ta hãy xem xét một số đặc điểm chủ yếu của phương pháp đối chiếu. 1. Xác lập cơ sở đối chiếu: Xác lập cơ sở đối chiếu là xác định đối tượng nghiên cứu cụ thể, định rõ đặc điểm đối tượng và định hướng các hoạt động, các bước nghiên cứu nhất định. Cơ sở đối chiếu là những giống nhau và khác nhau hay những tương đồng và loại biệt của phạm vi đối tượng được khảo sát. Thông thường các ngôn ngữ, các hiện tượng càng giống nhau thì càng có nhiều điểm chung, dấu hiệu
  16. 16 chung. Nếu như hai hay một số ngôn ngữ, hiện tượng càng khác nhau thì những điểm khác, dấu hiệu khác càng nhiều. Cơ sở đối chiếu của phương pháp đối chiếu không chỉ khác với phương pháp so sánh – lịch sử (đều là so sánh ngoài – giữa các ngôn ngữ với nhau) mà còn phân biệt đối chiếu và đối lập. Trong ý nghĩa phương pháp đối chiếu là dùng cho đối chiếu các hiện tượng, phạm trù của các ngôn ngữ khác nhau để tìm giống và khác nhau; trong trường hợp chỉ có khác nhau thì có thể hiểu là tương phản. Còn đối lập dùng cho sự đối chiếu các hiện tượng trong cùng một ngôn ngữ. Trong nghĩa riêng, đối lập là khác nhau ở hai cực trong một phạm vi, như: danh từ và động từ, chủ ngữ và vị ngữ, nguyên âm và phụ âm, thể hoàn thành và không hoàn thành ... Đối chiếu phân biệt ngôn ngữ - lời nói trong biểu hiện hiện tượng không đối lập chúng, vì có hiện tượng chuyển hoá chức năng. Ở đối chiếu người ta không thừa nhận các cặp ngang nhau mà thừa nhận các cặp đối chiếu có giống và khác nhau mà thường giống nhau hoàn toàn là rất hiếm thấy. 2. Phạm vi đối chiếu: Trong xác định phạm vi thường được phân giới theo các nguyên tắc sau: Phân biệt đối chiếu ngôn ngữ và đối chiếu dấu hiệu. Đối chiếu ngôn ngữ quy định phạm vi nghiên cứu là các ngôn ngữ khác nhau. Đó là cách đối chiếu tổng thể, đại quan hoặc bao quát chung. Việc chọn ngôn ngữ đối chiếu cũng có hai khả năng chính. 1) Lấy một ngôn ngữ làm cơ sở chỉ đạo, ngôn ngữ này là ngôn ngữ đối tượng cần phân tích, làm sáng tỏ. Ngôn ngữ (hay các ngôn ngữ) còn lại sẽ là phương tiện, là điều kiện cho phép làm sáng tỏ đặc điểm của ngôn ngữ đối tượng. Ngôn ngữ đối tượng cần được tập trung làm sáng tỏ có thể hoặc là chỉ có ý nghĩa cho nó, hoặc là có thể có đại diện cho một số ngôn ngữ khác. Nó là cá thể riêng biệt và cũng có thể là cái mẫu, là tiêu điểm chú ý của việc nghiên cứu xét về nhiều mặt. Chẳng hạn trong quá khứ ở phương tây tiếng Latinh đã làm tiêu điểm, là cơ sở để đối chiếu với tiếng
  17. 17 Pháp, tiếng Đức, các tiếng Slavơ. 2) Khả năng thứ hai là cả hai hay các ngôn ngữ đối chiếu đều được chú ý như nhau. Trường hợp như thế gọi là phân tích đối chiếu song ngữ. Trong phân tích đối chiếu song song, phạm vi các vấn đề đối chiếu là ở cả hai ngôn ngữ. Nó được chú ý đồng đều về tất cả các mặt ở ngôn ngữ đưa vào nghiên cứu. Khả năng này được vận dụng để tìm cái chung và riêng ở các ngôn ngữ được nhiều nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ các phổ quát và ứng dụng thực tiễn trong phiên dịch. Thường những phân tích như thế được tiến hành đối với các ngôn ngữ cùng loại hình, các ngôn ngữ có cùng hoặc gần gũi về ngữ hệ. Ví dụ: những nghiên cứu đối chiếu song song tiếng Bun-ga-ri và tiếng Ba-lan, tiếng Nga và tiếng Bun-ga-ri v. v... Phạm vi nghiên cứu đối chiếu dấu hiệu là phạm vi tất yếu phải có đối với mọi sự nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu đối chiếu dấu hiệu thường được tiến hành trên các bình diện chính yếu sau đây:  Đối chiếu phạm trù nhằm vào việc làm sáng tỏ đặc điểm thể hiện các phạm trù ở ngôn ngữ được nghiên cứu như phạm trù: thời, thế, xác định, không xác định; phạm trù số, giống, cách, đa nghĩa, đồng âm, trái nghĩa, đồng nghĩa...  Đối chiếu cấu trúc, hệ thống nhằm làm sáng tỏ các đặc điểm, cấu tạo, những đặc điểm giống, khác, đặc trưng của các hệ thống lớn, hệ thống con được nghiên cứu như hệ thống âm vị, hình vị, hệ thống từ loại, hệ thống câu đơn, câu phức v.v...  Đối chiếu chức năng và hoạt động nhằm làm sáng tỏ các đặc điểm hoạt động, hành chức của các hiện tượng, phạm trù ngôn ngữ.  Đối chiếu phong cách nhằm làm sáng tỏ hoạt động của các phong cách chức năng, những nét chung và riêng của các thể hiện phong cách chức năng ở ngôn ngữ được đối chiếu.
  18. 18  Đối chiếu lịch sử – phát triển có quan hệ với nghiên cứu lịch đại. Phạm vi đối chiếu này nhằm làm sáng tỏ các quy luật phát triển và các quá trình biến đổi xảy ra trong nội bộ các ngôn ngữ được nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu vừa liên quan chặt chẽ với nghiên cứu so sánh – lịch sử, vừa quan hệ với loại hình học lịch đại.  Một số phương thức đối chiếu chủ yếu. Để thực hiện nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ người ta thường sử dụng một số phương thức chủ yếu sau đây: Phương thức đồng nhất/ khu biệt cấu trúc, đồng nhất/ khu biệt chức năng, đồng nhất/ khu biệt hoạt động, đồng nhất/ khu biệt phong cách, đồng nhất/ khu biệt phát triển và đồng nhất/ khu biệt xã hội – lịch sử ngôn ngữ. Phương thức đồng nhất/ khu biệt cấu trúc thừa nhận rằng ngôn ngữ là một cấu tạo có tính cấu trúc – hệ thống. Khi đối chiếu hai hay nhiều ngôn ngữ nhất thiết phải đối chiếu các yếu tố, các đơn vị, các cấp độ, các mặt cấu tạo nên cái tổ chức cấu trúc – hệ thống đó. Chẳng hạn đối chiếu ngữ âm - âm vị, mặt hình thái học v.v... Khi thực hiện phân tích đối chiếu thường bắt đầu đồng thời hai khâu kế tiếp nhau. Phân tích đối lập (đối chiếu trong) các đơn vị, các hiện tượng ở cả hai ngôn ngữ theo một quan điểm lý luận thống nhất và sau đó thực hiện đối chiếu trên cơ sở các kết quả đạt được (đối chiếu đối lập ngoài – giữa các ngôn ngữ). Cũng có thể tổng hợp các bước phân tích đối chiếu cấu trúc theo công thức: đối lập (phân tích) - đối chiếu. Phương thức đối chiếu chức năng thực hiện xác định mặt giống, khác nhau về chức năng của các hiện tượng; sự kiện ở các ngôn ngữ. Trong tiếng Việt, Nga, Bun-ga-ri, Đức có trọng âm từ. Nhưng chức năng của trọng âm trong tiếng Nga, tiếng Bun-ga-ri giống nhau nhiều hơn. Ví dụ trọng âm có chức năng biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa sắc thái tu từ – biểu cảm v.v... Cùng một hiện tượng mà khả năng hoàn thành chức năng, phạm vi hoạt động không giống nhau. Điều đó cũng có thể áp dụng cho dấu hiệu khu biệt âm vị dài, ngắn trong tiếng Anh và tiếng Việt. Sự đối lập a (dài/
  19. 19 ngắn) i (dài/ngắn) trong tiếng Anh có ý nghĩa âm vị học, còn trong tiếng Việt thì lại không có giá trị ấy. Phương thức đồng nhất/ khu biệt hoạt động góp phần xác định sự thông dụng, tính phổ biến hay hạn chế của các hiện tượng, sự kiện ngôn ngữ đều có trong các ngôn ngữ đối chiếu. Phương thức này chỉ rõ các hiện tượng ngôn ngữ xét về mặt phương diện nào đó là giống nhau (đều có) trong các ngôn ngữ, nhưng ở ngôn ngữ này được sử dụng phổ biến, hoạt động mạnh còn ở ngôn ngữ khác thì ngược lại. Chẳng hạn trong địa hạt từ vựng – ngữ nghĩa, tiếng Bun-ga-ri, tiếng Việt đều có một số từ vay mượn từ tiếng Ấn - Âu (Pháp, Latinh...) song số lượng từ mượn tiếng Pháp, Latinh trong tiếng Bun- ga-ri khá nhiều, còn từ tiếng Nga cổ trong tiếng Bun-ga-ri không thể gọi là vay mượn vì chúng có vốn từ gốc Slavơ cổ chung. Phương thức đồng nhất/ khu biệt phong cách nhằm làm sáng tỏ những đặc điểm thể hiện, vận dụng phong cách chức năng ở mỗi ngôn ngữ. Phương thức này có thể tiến hành qua nhiều giới hạn: cùng một phong cách thể loại như thi ca, báo chí, chính luận, tiểu thuyết, khoa học kỹ thuật v.v... hoặc cùng một phương tiện tu từ biểu cảm như so sánh, ẩn dụ, hoán dụ v.v... Phức tạp hơn cả là đối chiếu hai hệ thống phương tiện thông tin văn bản và các thể loại văn phong thuộc về các thời kỳ xã hội lịch sử văn hoá khác nhau. Trong trường hợp này, đối chiếu phong cách không giới hạn ở tiêu chuẩn ngôn ngữ tín hiệu mà cả ngôn ngữ - tâm lý, ngôn ngữ - xã hội, tâm lý học – xã hội. Phạm vi đối chiếu của phương thức này có quan hệ với phương thức đồng nhất xã hội – lịch sử. Phương thức đồng nhất/ khu biệt phát triển dùng để xác định đặc điểm và chiều hướng phát triển của các ngôn ngữ. Phương thức này giả định rằng: mỗi ngôn ngữ, xét về bình diện động, luôn luôn có thay đổi, phát triển. Sự phát triển ngôn ngữ thể hiện ở các thay đổi cấu trúc nội bộ, phạm vi hoạt động,
  20. 20 chức năng của nó trong quan hệ với những điều kiện, hoàn cảnh xã hội ở diện tiến trình. Phương thức đồng nhất/ khu biệt xã hội, lịch sử quy định, xem xét các hiện tượng ngôn ngữ, không chỉ trong quan hệ với xã hội – lịch sử mà chủ yếu là bình diện xã hội lịch sử trong vận dụng, sử dụng một hiện tượng này khác của hệ thống ngôn ngữ. Cùng những từ chỉ màu sắc: đỏ, vàng, trắng và các hiện tượng, tượng trưng không giống nhau đối với các xã hội – ngôn ngữ, dân tộc – ngôn ngữ khác nhau. Phương thức đồng nhất xã hội lịch sử trong vận dụng ngôn ngữ sẽ cho chúng ta biết cái chung, cái riêng. Chính nhờ xác định được những đặc trưng đó mà cho phép chúng ta không chỉ xác định được loại hình phong cách chức năng mà cả loại hình giao tiếp – văn hoá ngôn ngữ, giúp chúng ta hiểu ngôn ngữ qua lăng kính văn hoá và ngược lại văn hoá qua hiện thực ngôn ngữ. 1.4.So sánh phương thức thể hiện ý nghĩa của thành ngữ Ngôn ngữ và văn hoá có mối quan hệ rất biện chứng. Từ lâu các nhà ngôn ngữ học và văn hoá học đã nhìn thấy và nghiên cứu mối quan hệ này. Mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ được thể hiện trong tất cả các cấp độ của ngôn ngữ. Đặc biệt, thành ngữ là một trong những lĩnh vực thể hiện rất rõ mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá. Để góp phần làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ trong thành ngữ, chúng tôi sẽ phân tích hình ảnh mắt và mặt trong thành ngữ Việt – Anh để làm ví dụ. Khảo sát thành ngữ tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy đa số thành ngữ mắt và mặt trong tiếng Việt tập trung miêu tả vẻ bề ngoài của con người (cổ cong mặt lệnh, đầu trâu mặt ngựa, mặt ủ mày chau, mặt sứa gan lim, con mắt là mặt đồng cân, da ngà mắt phượng, mắt cú da lươn, mắt sắc như dao cau...). Không chỉ sử dụng mắt và mặt để miêu tả vẻ bề ngoài, người Việt còn dùng mắt và mặt để miêu tả tâm sinh lý của con người (đỏ như mắt cá chày, ham
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2