intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên -Tiếp cận từ góc độ văn học dân gian

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:127

18
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu chính bao trùm luận văn là tìm hiểu đặc điểm, nội dung nghệ thuật của Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên trên bình diện là tiếp cận từ góc độ văn học dân gian. Qua đó phân tích, nhận diện được những nét độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa Tày ở một địa phương cụ thể. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam: Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên -Tiếp cận từ góc độ văn học dân gian

  1. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ THÙY LINH THEN TÀY Ở LAM VỸ, ĐỊNH HÓA, THÁI NGUYÊN - TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ VĂN HỌC DÂN GIAN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Hằng Phương THÁI NGUYÊN - NĂM 2016 1
  2. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài: “Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên -Tiếp cận từ góc độ văn học dân gian” là do bản thân tôi thực hiện. Các số liệu, kết quả trong đề tài là trung thực. Nếu sai sự thật tôi xin chịu trách nhiệm. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016 Tác giả Nguyễn Thị Thùy Linh i
  3. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Nguyễn Hằng Phương người thầy đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo, Khoa Sau Đại học, khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, các thầy cô giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội, trường Đại học KHXH và NV, Viện văn học đã giúp em hoàn thành khóa học. Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã quan tâm giúp đỡ, động viên tôi trong thời gian học tập và nghiên cứu. Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã đọc và chỉ ra những thành công cũng như hạn chế của luận văn. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2016 Tác giả Nguyễn Thị Thùy Linh ii
  4. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn MỤC LỤC Trang Lời cam đoan ................................................................................................................. i Lời cảm ơn .................................................................................................................... ii Mục lục......................................................................................................................... iii MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 4 4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................. 4 5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 4 6. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................ 4 7. Cấu trúc luận văn ................................................................................................... 5 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY, THEN TÀY Ở LAM VỸ, ĐỊNH HÓA, THÁI NGUYÊN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ......................... 6 1.1. Khái quát về dân tộc Tày .................................................................................... 6 1.1.1. Vài nét về người Tày ở Việt Nam .................................................................... 6 1.1.2. Người Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên .............................................. 7 1.2. Một số vấn đề lí luận về Then Tày.................................................................... 15 1.2.1. Khái niệm Then .............................................................................................. 15 1.2.2. Nguồn gốc Then ............................................................................................. 16 1.2.3.Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của Then ............................................. 19 1.3. Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên ................................................. 21 1.3.1. Vài nét sơ lược về lịch sử phát triển .............................................................. 21 1.3.2. Diện mạo và thực trạng .................................................................................. 22 Chương 2 CÁC DẠNG THỨC THEN TÀY Ở LAM VỸ, ĐỊNH HÓA, THÁI NGUYÊN .................................................................................................................... 26 2.1. Then trong nghi lễ vòng đời người ................................................................... 26 2.1.1. Then bắc cầu xin hoa ..................................................................................... 26 2.1.2. Then mừng thọ ............................................................................................... 33 iii
  5. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 2.1.3. Then tang ma .................................................................................................. 36 2.2. Các dạng then khác ........................................................................................... 41 2.2.1. Then kỳ yên .................................................................................................... 41 2.2.2. Then cấp sắc ................................................................................................... 50 Chương 3 NỘI DUNG, NGHỆ THUẬT THEN TÀY Ở LAM VỸ, ĐỊNH HÓA, THÁI NGUYÊN .............................................................................................. 58 3.1. Một số nội dung cơ bản ..................................................................................... 58 3.1.1. Phản ánh hiện thực cuộc sống đa dạng, sinh động......................................... 58 3.1.2. Thể hiện ước mơ về cuộc sống no đủ, bình đẳng, hạnh phúc ........................ 63 3.1.3. Miêu tả, ca ngợi tình yêu thiên nhiên ............................................................ 74 3.2. Một số đặc điểm nghệ thuật .............................................................................. 80 3.2.1. Thể thơ ........................................................................................................... 80 3.2.2. Các biện pháp tu từ ........................................................................................ 85 KẾT LUẬN ................................................................................................................. 96 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 100 PHỤ LỤC...................................................................................................................... 1 iv
  6. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một quốc gia giàu bản sắc văn hóa với 54 dân tộc anh em chung sống. Mỗi dân tộc ở một vùng miền lại mang trong mình một bản sắc văn hóa độc đáo riêng. Chính sự đa dạng về văn hóa này đã tạo nên sự phong phú về bản sắc dân tộc, một bức tranh muôn màu trong nền văn hóa Việt. Nằm trong vùng văn hóa Việt Bắc, nhắc đến Thái Nguyên là chúng ta nghĩ ngay đến những đồi chè xanh ngát với những câu hát trữ tình mượt mà như Sli, Lượn hay Phong slư… đã làm say đắm lòng người bao thế hệ. Trong các làn điệu dân ca trữ tình đó không thể không nhắc tới hát Then, một loại hình sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng độc đáo của dân tộc Tày. Từ lâu nhắc tới hát Then người ta thường nhắc đến những địa danh như Bắc Kạn, Cao Bằng, Lạng Sơn… mà Thái Nguyên, một nơi văn hóa Then đã tồn tại từ lâu đời đang và vẫn được sử dụng, lưu truyền thì lại ít được nhắc đến. Định Hóa - Thái Nguyên là thủ đô kháng chiến, ATK - an toàn khu cách mạng năm xưa, là một vùng đất giàu truyền thống văn hóa và cách mạng. Đến với Định Hóa là đến với xứ sở của những làn điệu Then và cây đàn tính âm vang. Đó là nét đẹp đi sâu vào tâm hồn, huyết mạch của người dân nơi đây. Then trở thành một món ăn tinh thần quý báu không thể thiếu trong sinh hoạt văn hóa và tín ngưỡng của người Tày nói riêng và các dân tộc thiểu số nói chung. Thực tế cho thấy, Then của người Tày ở Định Hóa đã có các nhà nghiên cứu dân gian và các nghệ nhân sưu tầm… nhưng biên soạn thành các công trình nghiên cứu thì hiện nay chưa có một công trình nào đề cập một cách chuyên biệt, hệ thống. Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên là một nơi lưu giữ khá nhiều nét sinh hoạt văn hóa truyền thống của dân tộc Tày trong đó có hát Then. Là người con của mảnh đất Thái Nguyên, chúng tôi mong muốn Then Tày được đông đảo mọi người biết đến để văn hóa Then sẽ mãi tồn tại như một di sản văn hóa của Việt Nam nói riêng và của thế giới nói chung. Với những lý do đó, chúng tôi lựa chọn “Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên - Tiếp cận từ góc độ văn học dân gian”. Làm đề tài nghiên cứu của luận văn 1
  7. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Văn học dân gian trước kia được sáng tác và lưu truyền chủ yếu bằng miệng. Trước năm 1945, do hoàn cảnh lịch sử, đất nước ta phải dồn sức cho chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc giành lại độc lập cho dân tộc nên chưa có một công trình nghiên cứu trực tiếp về Then. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, đặc biệt là từ Hội nghị bàn về công tác sưu tầm văn hóa dân gian ở miền Bắc (2/1964), văn hóa dân gian của các dân tộc thiểu số miền Bắc nói chung và ở vùng Việt Bắc nói riêng được các nhà sưu tầm, nghiên cứu đã quan tâm các cuộc đi điền dã, điều tra ở khu vực Việt Bắc và kết quả thu được là những cuốn sách Then viết bằng chữ Nôm, Tày, Nùng lưu truyền ở một số địa phương. Sang những năm 1970 của thế kỉ XX, việc nghiên cứu Then thực sự được Đảng, Nhà nước quan tâm đầu tư cho việc sưu tầm nghiên cứu và viết sách. Cuốn đầu tiên phải kể đến đó là cuốn Lời hát Then của Dương Kim Bội do sở Văn hóa thông tin Việt Bắc xuất bản 1975. Cuốn sách đã giới thiệu nguồn gốc hát Then, mối quan hệ giữa Then, Mo, Tào, cách diễn xướng. Song vì mục đích chính là sưu tầm nên tác giả mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu về lời của Then, chưa đi sâu vào tìm hiểu nội dung, nghệ thuật. Cuốn Mấy vấn đề về Then Việt Bắc do nhà xuất bản Văn hóa dân tộc ấn hành năm 1978. Tập hợp trên cơ sở những bản báo cáo, tham luận của một số nhà nghiên cứu trong Viện văn học sau kết quả của hội nghị Sơ kết công tác sưu tầm nghiên cứu Then Việt Bắc năm 1975. Đây là cuốn sách đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về các mặt của Then như nguồn gốc loại hình, nghệ thuật diễn xướng, yếu tố tâm linh trong Then… Sli, lượn, dân ca trữ tình Tày Nùng xuất bản năm 1979. Của tác giả Vi Hồng là công trình nghiên cứu đáng chú ý về dân ca. Trong công trình này, tác giả đã so sánh Then với các hình thức tín ngưỡng dân gian khác và xem xét mối quan hệ giữa Then với Sli, Lượn, từ đó gián tiếp giới thiệu về Then. Tuy chủ yếu nghiên cứu về hình thức dân ca trữ tình song tác phẩm cũng có nhiều đóng góp cho công trình nghiên cứu về Then. 2
  8. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn Bộ Then Tứ Bách của Lục Văn Pảo năm 1996 là cuốn sách thuần túy sưu tầm những cũng giới thiệu sơ qua về Then, trong đó có quan niệm của người Tày về các loài thú, các loài chim, ngũ cốc và hoa. Công trình “Tìm hiểu yếu tố tín ngưỡng trong lễ hội của người Tày Nùng 1998” và công trình “Then cấp sắc của người Tày” (qua khảo sát ở huyện Quảng Hòa – Cao Bằng) xuất bản năm 2000 của tác giả Nguyễn Thị Yên đã đề cập đến vấn đề tâm linh, tín ngưỡng trong Then qua khảo sát thực tế. Song, trong cuốn sách này mới chỉ về khảo sát lễ cấp sắc ở một địa phương thuộc tỉnh Cao Bằng. Cuốn “Nét chung và nét riêng của âm nhạc trong diễn xướng Then Tày Nùng” của tác giả Nông Thị Nhình xuất bản năm 2004 là một công trình khảo cứu công phu về âm nhạc Then, tuy nhiên tác giả chưa quan tâm đến tác động của nhạc Then. Cuốn “Then Tày” của tác giả Nguyễn Thị Yên nhà xuất bản văn hóa thông tin ấn hành là công trình xem xét khá toàn diện về Then Tày như tổng quan về Then, các vấn đề nghiên cứu Then nhưng tác giả đi tìm hiểu chuyên sâu về Then cấp sắc Bên cạnh đó, có rất nhiều đề tài, luận văn, nghiên cứu khoa học về vấn đề này như: Đoàn Thị Tuyến với khóa luận tốt nghiệp “Đạo Then trong đời sống tâm linh của người Tày, Nùng Lạng Sơn” năm 1999, đã quan niệm Then là một thứ đạo và vai trò của Then trong đời sống tinh thần của người Tày ở Lạng Sơn. Tuy nhiên, tác giả mới chủ yếu nghiên cứu Then dưới góc độ xã hội học, phạm vi nghiên cứu còn nhỏ lẻ. Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Huệ ở Đại học quốc gia Hà Nội (nghiên cứu Then Tày ở Văn Quan – Lạng Sơn qua trường hợp nghệ nhân Then Hoàng Thị Bình) luận bàn về những yêu cầu cơ bản của một người làm nghề Then. Luận văn thạc sĩ của Hà Anh Tuấn ở Trường Đại học sư phạm Thái Nguyên nghiên cứu “Văn hóa tâm linh của người Tày qua lời hát Then” luận văn cho ta thấy đời sống tâm linh của người Tày trong Then có một vị trí vô cùng quan trong trong đời sống của người Tày. Luận văn của Nông Thị Ngọc ở trường Đại học sư phạm Thái Nguyên với với đề tài “Then Kỳ Yên của người Tày ở Bắc Quang, Hà Giang – Tiếp cận từ góc độ 3
  9. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn văn học dân gian” đã giới thiệu về một vùng Then ở Hà Giang với những nét đặc sắc của Then Tày ở một địa phương miền núi tiêu biểu. Như vậy, ở từng thời điểm khác nhau, từng giai đoạn khác nhau đã có những công trình nghiên cứu về Then khá công phu và khoa học. Tuy nhiên, nghiên cứu về một dòng Then cụ thể từng vùng miền thuộc tỉnh Thái Nguyên từ trước đến nay chưa có công trình nào chuyên sâu. Đây cũng chính là lý do, là tiền đề để chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu “Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên - Tiếp cận từ góc độ văn học dân gian”. 3. Mục đích nghiên cứu - Mục tiêu chính bao trùm luận văn là tìm hiểu đặc điểm, nội dung nghệ thuật của Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên trên bình diện là tiếp cận từ góc độ văn học dân gian. Qua đó phân tích, nhận diện được những nét độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa Tày ở một địa phương cụ thể - Bước đầu tìm hiểu, lý giải, cội nguồn sức sống của Then trên cơ sở tổng quan văn hóa của dân tộc Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên. - Gợi ra hướng bảo tồn, phát huy những nét đẹp vốn có của Then Tày nói chung, trong đó có Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khảo sát, thống kê, phân tích giá trị nội dung nghệ thuật Then với tư cách là tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. - Trong điều kiện có thể chúng tôi sưu tầm và tìm hiểu về Then và một số loại hình văn hóa tín ngưỡng có liên quan đến đề tài từ các góc độ nhìn nhận, đánh giá - Bước đầu nêu một số suy nghĩ về bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa của Then trong đời sống đương đại trước sự vận động của thời gian, lịch sử, văn hóa, xã hội. 5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn chủ yếu là những bài hát Then trong quá trình đi điền dã sưu tầm và dịch, chưa được xuất bản. Phạm vi nghiên cứu: Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên 6. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp điền dã văn học: Ngoài những tư liệu về Then ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên đã được các nghệ nhân sưu tầm, chúng tôi còn sử dụng phương pháp điền dã văn học để gặp gỡ với các nghệ nhân, những người yêu quý Then Tày ở 4
  10. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn Định Hóa, Thái Nguyên, sưu tầm thêm những bài Then còn lưu truyền trong dân gian và mở rộng phạm vi tư liệu nghiên cứu. Phương pháp khảo sát thống kê: Dựa trên hệ thống tư liệu đã được sưu tầm, biên soạn, luận văn thống kê những bài Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên để tiện lợi cho việc phân tích giá trị nội dung, nghệ thuật của nó. Phương pháp phân tích tổng hợp: Luận văn sử dụng phương pháp này để phân tích cụ thể các bài Then. Trên cơ sở đó, luận văn tổng hợp vấn đề, rút ra những đánh giá, nhận xét về giá trị nội dung và nghệ thuật của Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên. Phương pháp đối chiếu so sánh: Để phân tích, đánh giá sát thực, thỏa đáng về giá trị nội dung và nghệ thuật của Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên, luận văn sử dụng phương pháp lịch sử để soi sáng bằng bối cảnh xã hội, văn hóa của địa phương lưu truyền. 7. Những đóng góp của luận văn - Là công trình nghiên cứu đầu tiên một cách có hệ thống về những giá trị cơ bản nội dung và nghệ thuật của Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần vào việc giữ gìn và phát huy những nét đẹp văn hoá của dân tộc Tày - Trong quá trình điền dã, khảo sát, nghiên cứu tác giả đề tài đã thu thập được một số lượng nhất định về những lời hát Then sử dụng trong Then bắc cầu xin hoa, Then mừng thọ,Then tang ma ,Then kỳ yên , Then cấp sắc ở Lam Vỹ , Định Hoá , Thái Nguyên. 8. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Tổng quan về dân tộc Tày, Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên và một số vấn đề lý luận Chương 2: Các dạng thức Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên Chương 3: Nội dung, nghệ thuật Then Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên 5
  11. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn Chương 1 TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC TÀY, THEN TÀY Ở LAM VỸ, ĐỊNH HÓA, THÁI NGUYÊN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 1.1. Khái quát về dân tộc Tày 1.1.1. Vài nét về người Tày ở Việt Nam 1.1.1.1. Nguồn gốc lịch sử Dân tộc Tày có số dân đông nhất trong các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Địa bàn cư trú tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía đông bắc Việt Nam .Tiếng Tày thuộc nhóm ngôn ngữ Tày Thái .Cùng với các cư dân Tày Thái khác ,dân tộc Tày là một trong những chủ nhân đầu tiên của nước Việt cổ, lập nên nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng. Và cũng là một trong những cư dân lâu đời nhất ở nước ta .Trong cuốn Văn hóa truyền thống Tày Nùng, các tác giả viết: “ Về phương diện cội nguồn lịch sử, người Tày, người Nùng vốn thuộc chung một nhóm Âu Việt, trong khối Bách Việt mà địa bàn cư trú là miền Bắc Việt Nam và miền Hoa Nam, Trung Quốc [37, tr.22]. Người Tày là cư dân thuộc khối Bách Việt đó, như vậy ngay từ buổi đầu dựng nước dân tộc Tày đã là một thành viên trong đại gia đình các dân tộc anh em. 1.1.1.2. Dân số và địa bàn cư trú Việt Nam là một quốc gia giàu bản sắc văn hóa, với 54 dân tộc anh em sinh sống. Trong đó người Tày là một dân tộc thiểu số, có số dân 1.626.392 người, đông thứ 2 ở Việt Nam sau dân tộc Kinh. Người Tày chủ yếu cư trú tại các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc. Người Tày cư trú tập trung tại các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lào Cai, tập trung nhiều nhất ở khu vực Việt Bắc (từ miền Nghĩa Lộ qua Yên Bái đến Quảng Ninh). Người Tày làm ruộng, tụ cư trong các thung lũng, cánh đồng ở các thượng lưu sông Kỳ Cùng, Bằng Giang, sông Cầu, sông Lô… Đất phù sa phân bố dọc các thung lũng sông, các bồn địa giữa các núi… tạo điều kiện để phát triển một nền nông nghiệp nhiều ngành, nhiều nghề. Đồng bào Tày vốn cần cù trong lao động, sản xuất. Họ có truyền thống làm 6
  12. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng các biện pháp thủy lợi như đào mương, bắc máng lấy nước tưới ruộng. Với các đặc điểm địa lý tự nhiên thuận lợi, dân tộc Tày tại các vùng cư trú ở Việt Nam có điều kiện để phát triển kinh tế to lớn và toàn diện với nền kinh tế nhiều thành phần như nông nghiệp, công nghiệp, lâm nghiệp. Trong xu thế phát triển kinh tế hội nhập ngày nay, gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc Tày cùng các dân tộc anh em khác như giữ lại được trang phục cổ truyền, sinh hoạt văn hóa trong đám cưới, ma chay, lễ hội… không phải là điều dễ dàng. Việc bảo tồn và phát huy những nét sinh hoạt độc đáo của người dân tộc đòi hỏi một chính sách nhất quán để họ hiểu nhận thức được vốn quý giá của dân tộc, có ý thức gìn giữ và lưu truyền qua nhiều thế hệ. 1.1.2. Người Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên 1.1.2.1. Điều kiện tự nhiên Lam Vỹ là một xã phía Đông của huyện Định Hóa, cách thành phố Thái Nguyên 60km về phía Bắc. Lam Vỹ là một xã miền núi thuộc vùng sâu, vùng xa của huyện Định Hóa với vùng núi cao, điều kiện giao thông còn khó khăn. Đất đai thuận lợi cho việc phát triển nông, lâm nghiệp. Thiên nhiên bốn mùa ưu đãi tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội cũng như tạo nên những nét đặc trưng riêng về văn hóa vật chất lẫn tinh thần của đồng bào nơi đây. 1.1.2.2. Đời sống kinh tế, xã hội * Dân số Thái Nguyên là một trong những tỉnh đồng bào Tày có mặt lâu đời. Năm 1999 dân tộc Tày có 106.238 người đứng thứ hai trong các dân tộc của tỉnh (chiếm 10,15%) hiện có mặt ở tất cả các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh, tập trung đông nhất là ở huyện Định Hóa 41,1%. Riêng ở Định Hóa, số xã có 90% người Tày cư trú trở lên đó là: Linh Thông, Bộc Nhiêu, Điềm Mặc, Bình Yên, Tân Hà, Lam Vỹ, huyện Định Hóa. Định Hóa là một huyện miền núi phía Tây Bắc tỉnh Thái Nguyên được biết đếm với di tích quốc gia đặc biệt An toàn khu Định Hóa. Diện tích tự nhiên: 52057,4 7
  13. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn ha (tính đến năm 2005), dân số toàn huyện có 89 510 người, mật độ dân số 171,24 người /km2. Sinh sống trên địa bàn Định Hóa hiện nay có tám dân tộc trong đó dân tộc Tày chiếm 49,23%, dân tộc Nùng chiếm 3,26%, dân tộc Kinh 34,82%, dân tộc Hoa 1,4%...Dân tộc Tày có mặt sớm nhất ở vùng đất này, các dân tộc khác di chuyển đến muộn hơn. Dù có nhiều thành phần dân tộc với những phong tục tập quán, trình độ sản xuất khác nhau nhưng nhân dân các dân tộc Định Hóa luôn đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hi sinh cùng nhau bảo vệ và xây dựng quê hương. Trong xã Lam Vỹ có 20 xóm ,với 4.231 nhân khẩu với 1080 hộ. Dân tộc Tày chiếm 85 % dân số. Dân tộc Tày nơi đây đã gìn giữ được rất nhiều những bản sắc văn hóa độc đáo trong đó có hoạt động Then mà đề tài luận văn quan tâm nên việc tìm hiểu người Tày ở Lam Vỹ, Định Hóa, Thái Nguyên là một việc làm cần thiết. * Kinh tế Cũng như người Tày ở vùng Việt Bắc nói chung, người Tày ở Thái Nguyên lấy nông nghiệp trồng trọt với phương thức canh tác ruộng nước kết hợp với gieo trồng trên đất dốc và vườn đồi làm nguồn sống chính. Các hoạt động mưu sinh khác như chăn nuôi, thủ công gia đình, trao đổi buôn bán, săn bắt hái lượm chỉ là những hoạt động phụ mang tính hỗ trợ hoạt động trồng trọt. Trong nông nghiệp trồng trọt, canh tác ruộng nước là hình thức chủ đạo trong đó lúa là cây lương thực chính. Ngoài ra, các lại hoa màu như ngô, khoai, sắn…là cây lương thực phụ. Về chăn nuôi, cũng như các hoạt động khác, chỉ được xem như những nghề phụ. Nhưng trong những năm trở lại đây chăn nuôi mới có cơ hội phát triển và chiếm tỷ trọng đáng kể trong thu nhập của họ. Nhiều mô hình chăn nuôi mới được áp dụng khoa học kỹ thuật đem lại hiệu quả kinh tế cao So với một số dân tộc khác trong tỉnh, thủ công gia đình của người Tày phát triển hơn . Tuy họ không có nghề thủ công nào nổi tiếng nhưng sản phẩm thủ công 8
  14. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn của họ đẹp và có mặt trong hầu hết các hoạt động mưu sinh và sinh hoạt gia đình của họ. Trong đời sống kinh tế của người Tày ở Thái Nguyên xưa kia săn bắt, hái lượm chiếm đoạt các sản vật sẵn có trong tự nhiên để sinh sống là hoạt động không thể thiếu. Các loại muông thú, rau, củ, quả...sẵn có trong rừng là nguồn cung cấp thực phẩm cho các bữa ăn, dược liệu để chữa bệnh. Việt Bắc là khu vực buôn bán khá phát triển. Các chợ phiên trong khu vực này hình thành khá sớm và có vai trò nhất định trong đời sống kinh tế của các tộc người. Các chợ trong vùng thường có phiên họp theo một quy ước thống nhất, ít trùng lặp, được cư dân trong vùng chấp nhận. Chợ là nơi mua bán và cũng là nơi sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Ngày nay, việc mua bán nhất là buôn bán nhỏ trong các làng bản người Tày ở Thái Nguyên tương đối phát triển. Về quan hệ xã hội, đơn vị xã hội cơ sở của người Tày vẫn luôn là bản. Đó là một đơn vị tụ cư của nhiều dòng họ, lấy quan hệ láng giềng làm cơ sở, có thiết chế tự quản và những chế định riêng. Người Tày ở Thái Nguyên thường tụ cư ở những vụng giáp ranh giữa rừng và ruộng. Các bản của người Tày ở đây thường tựa lưng vào núi rừng, hướng xuống thung lũng. Mỗi bản thường có địa vực cư trú riêng, bao gồm đất ở, đất canh tác, rừng rú, sông suối… Quy mô của các bản Tày vừa và nhỏ, mỗi bản thường chỉ có 20 đến trên dưới 60 hộ gia đình. Cá biệt có những bản có quy mô hơn 100 nóc nhà. Trong bản đều có nhiều dòng họ cùng chung sống và quan hệ láng giềng được coi là quan hệ chủ đạo. Trong mỗi bản thường có những chòm xóm nhỏ, phân bố tương đối biệt lập, nhưng đều hướng ra cánh đồng hoặc con đường cái chạy qua. Trong mỗi bản có những họ là gốc Tày cổ, nhưng cũng có những họ là gốc Kinh bị Tày hóa. Mỗi xóm bản đều có một trưởng xóm bản. Chế độ sở hữu của người Tày ở đây gồm hai hình thức: Sở hữu công cộng của xóm bản và sở hữu tư nhân. Về sở hữu công cộng bao gồm toàn bộ đất đai, rừng núi, sông suối và tài nguyên trong phạm vi thôn bản. Ngoài ra còn có các 9
  15. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn công trình công cộng như đường sá, cầu cống, đền miếu….Sở hữu tư nhân gồm tất cả các tư liệu sản xuất:đất đai, nương rẫy đã và đang sử dụng khai thác của mỗi gia đình. Ngoài ra còn có các tài sản khác như nhà cửa, các sản phẩm nông nghiệp, thủ công nghiệp, các loại đồ gia dụng…do các gia đình tạo nên. Quan hệ cộng đồng là đặc trưng nổi bật trong các xóm bản của người Tày. Người dân Tày trong các xóm bản có những mối liên quan chặt chẽ trong tất cả các khía cạnh của đời sống, từ lao động sản xuất, các quá trình vật chất đến đời sống tinh thần và tôn giáo tín ngưỡng. Không chỉ duy trì quan hệ dòng họ, thân tộc, thích tộc, người Tày còn đặc biệt coi trọng tình làng nghĩa xóm. Bất kể các công việc quan trong của mỗi đời người (làm nhà mới, cưới xin, tang ma…) đều được coi là công việc chung của cả cộng đồng. Các dịp sinh hoạt cộng đồng đều được coi là một cơ hội thắt chặt tình đoàn kết gắn bó xóm giềng, thôn bản. Thông qua đó, ý thức về một tộc người càng được củng cố và nâng cao. * Văn hóa, xã hội Nhà sàn là loại hình nhà có từ lâu đời của đồng bào Tày. Người Tày không tính quy mô ngôi nhà bằng chiều rộng mà tính bằng số cột chính, chẳng hạn loại nhà 8 cột, 12 cột, 10 cột, 16 cột…Mặt bằng nhà có dáng hình chữ nhật hay dáng gần hình vuông. Nhà sàn cổ thường có cấu trúc dạng vì kèo ba cột như trước đây thì mỗi vì kèo được bố trí ba cột, hai chéo xà ngang và một bộ vì kèo. Với loại nhà này xung quanh thường được bưng bằng ván hoặc bằng phên hay liếp tre, còn mái thì lợp bằng lá cọ. Loại nhà sàn này hiện nay không còn phổ biến mà hiện nay loại nhà sàn 6 cột được kê bằng đá tảng, còn các cột khác thì được bố trí theo dạng dấu cột. Phần lớn cột nhà sàn được chôn thẳng xuống đất, ngày nay nhiều nhà đã dùng đá để kê chân cột nhưng vẫn để một cột không kê mà chôn thẳng xuống đất, đồng bào quan niệm sự hòa hợp nối tiếp giữa âm và dương để cho mọi người trong nhà luôn được thuận hoà, mạnh khỏe. Y phục của người Tày xa xưa được may từ vải sợi bông hoặc tơ tằm do đồng bào tự dệt. Đồng bào Tày thường nhuộm vải màu chàm để may quần áo. 10
  16. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn Quần áo nam nữ, trẻ em và người già đều mặc màu chàm và hầu như không thêu hoa văn trang trí. Y phục của nam giới có áo dài năm thân buông vạt trùm qua cạp quần, đến đầu gối, thân trước bên trong ngắn hơn bên ngoài, có 5 cúc cài sang nách phía phải, có túi ở hai vạt trước. Quần ống rộng, cạp rộng nhưng không có dải rút, ống chùng đến mắt cá chân, đúng kiểu chân què, giống quần của nam giới người Kinh. Y phục nữ áo dài năm thân giống nam giới nhưng chùng đến mắt cá chân, được thắt eo, tay áo nhỏ hơn, cổ tròn ôm khít . Khi mặc áo dài chị em thường đeo vòng cổ, vòng tay, vấn tóc, thắt lưng, phụ nữ mặc áo dài như được tôn cao hơn. Họ thường mặc áo dài trong các dịp lễ, tết hội, đình đám…. Quần phụ nữ ống nhỏ hơn quần nam giới, phụ nữ Tày đi giày vải, thân giày làm bằng vải, đế làm bằng mo cau hoặc mo tre khâu lại nhiều lớp làm đế. Với bản sắc là cư dân nông nghiệp, người Tày có tập quán ăn cơm. Lương thực gồm gạo nếp, gạo tẻ, ngô, khoai, sắn…Trước hết từ gạo, đồng bào chế biến thành cơm, cháo, bánh…Trước đây, người Tày ăn xôi nếp là chính. Các loại bánh làm từ gạo nếp là những lễ vật đòi hỏi phải có trong một số nghi lễ như cúng tổ tiên, cưới xin. Ngày nay người Tày ăn cơm tẻ là chính , cơm tẻ đôi khi được nấu độn với ngô ,khoai ,sắn. Về nguồn thực phẩm: chủ yếu là các sản phẩm chăn nuôi như gà, lợn, vịt… các loại rau trồng quanh nhà hoặc trên nương như: rau cải, rau bò khai ,rau rớn … Phụ nữ Tày biết làm nhiều loại bánh chế biến từ gạo, sắn, khoai. Các loại bánh thường được làm vào dịp tết như bánh chưng Tày, bánh dầy, bánh lẳng, banh gio, bánh ngải… Bánh chưng Tày gói bằng lá dong, tròn hoặc dài luộc kĩ, khi ăn bóc vỏ lá rồi thắt từng lát, có thể rán. Bánh trứng kiến làm câu kì hơn, khoảng tháng 3 âm lịch tìm bắt các tổ kiến để lấy trứng làm bánh, bánh được gói bằng lá vả non, ăn bùi và ngậy. Đồng bào Tày ở Định Hóa còn biết lấy các cây thảo mộc để làm hương liệu và màu sắc chế biến các món ăn như cây cơm nếp, dùng lá cây sau sau năm màu để tạo thành xôi ngũ sắc (xanh, đỏ, tím, vàng, đen) 11
  17. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn Đồ uống của người Tày ở Định Hóa có thể chia làm hai loại: nước uống thông thường và nước uống có chứa các chất kích thích. Nước uống thông thường có nước chè và nước đun sôi với lá cây rừng. Nước uống có chứa các chất kích thích gồm rượu ngâm với các cây thuốc nam. Quan hệ giữa những người dân ở đây mang tính cộng đồng cư dân miền núi, họ cùng nhau hợp sức làm những công việc lớn như đắp đập, làm mương, làm đường sá, săn bắn bẫy thú, bảo vệ mùa màng. Khi gia đình có việc lớn họ giúp đỡ lẫn nhau (như làm nhà, khi có việc tang, đến giúp công việc mang theo cả rượu gạo…Khi tổ chức lễ hội cả bản cùng chung vui) Những phong tục tập quán trên mang ý thức cộng đồng sâu sắc, tính đoàn kết, truyền thống cộng đồng đã làm cho họ có sức mạnh chống chọi với thiên nhiên, tồn tại và phát triển. Người Tày sống tình cảm, chân thành và trọng nghĩa, thành ngữ người Tày có câu “Lạc may tẩn, lạc cần rì” có nghĩa là “Rễ cây ngắn, rễ người dài”. Người Tày rất quý khách, hiếu khách, khách đến nhà bao giờ cũng được đón tiếp lịch thiệp, chu đáo, như khách quý đến nhà, được mời uống rượu, mời ăn cơm. Cơm khách thường được lo rất chu đáo có rượu thịt, nếu khách ở lại có chỗ nghỉ ngơi chu đáo. Người Tày có quan hệ quảng giao. Họ có tục kết bạn (kết tồng) đây là nét đẹp trong văn hoá của người Tày . Hai người không phân anh em, họ hàng, mến nhau kết bạn làm tồng. Bạn tồng có thể cùng tuổi, hợp nhau về cảnh ngộ, chí hướng. Để kết tồng phải có một bữa tiệc đính ước và công bố với người thân của nhau. Ngày xưa, người ta thường dùng tiết gà pha vào rượu rồi cùng uống thề sẽ thề kể từ lúc nhận nhau làm bạn tồng các bạn tồng coi bố mẹ bạn như bố mẹ mình, khi chết phải để tang, bạn tồng giúp đỡ nhau khi khó khăn, chung vui những điều mừng, san sẻ cho nhau tiền của vật chất như anh em. Tín ngưỡng của người Tày từ xa xưa thờ đa thần xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh, muôn vật muôn loài đều do Pụt Luông – Ngọc Hoàng tạo ra và đều có linh hồn. Người Tày thờ cúng tổ tiên, ông bà cha mẹ trong nhà, người Tày cũng thờ Táo quân. Họ gọi Táo quân là “phi vằn phầy”, quan niệm phi cằn phầy là vị thần bảo 12
  18. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn vệ người và gia súc, coi việc quản lý hộ khẩu trong gia đình. Vị thần này được thờ cạnh bếp, ban thờ đơn giản có khi chỉ là một ống bương được dán giấy xanh đỏ để thắp một nén hương. Các gia đình có việc thường cầu khấn cho thần bếp biết việc sinh nở, bệnh tật, ốm đau, hay mọi chuyện buồn vui trong gia đình… Hàng năm, ngày 23 tháng chạp cũng làm lễ tiễn ông Táo về trời. Sáng ngày mồng một đầu năm thì lại đón ông Táo về, họ cũng có tục cúng cá chép, sau đó thả chúng ra sông, suối giống như người Kinh. Bếp trong đời sống của người Tày gắn bó và thiêng liêng. Đồng bào thường giữ lửa cháy suốt ngày đêm, mùa đông cho tới mùa hè. Bếp không chỉ là nơi phục vụ sinh hoạt vật chất mà còn là nơi gia đình bàn bạc, quyết định nhiều vấn đề quan trọng … Vì vậy bếp “Táo quân” trong ý thức tâm linh của người Tày được quan niệm là linh thiêng trong đời sống của họ. Trong gia đình người Tày có rất nhiều bàn thờ. Ngoài thờ cúng tổ tiên, họ còn thờ trời đất, thổ công, bà mụ, thần nông, thần chăn nuôi…phổ biến nhất là thờ Ngọc Hoàng. Hàng năm trước tết nguyên đán, các bàn thờ được quét dọn và các dụm cụ lao động trong gia đình được dán lên một mảnh giấy đỏ. Ngày mồng 10 tháng giêng hàng năm, người Tày cùng với các dân tộc anh em sinh sống ở Định Hóa lại tổ chức lễ hội Lồng Tồng tại xã Phú Đình (Định Hóa, Thái Nguyên ). Lồng Tồng theo tiếng tày nghĩa là “xuống đồng”. Đây là một lễ hội truyền thống đặc sắc của bà con vùng cao được tổ chức sau một năm vất vả với công việc đồng áng, để mừng thành quả lao động đã đạt được của mình, đồng thời tạ ơn trời đất, thần linh, tổ tiên và cầu cho một năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, nhà nhà no ấm, hạnh phúc. Sau lễ cầu mùa có phần hát múa, hát Then, hát Phong slư, Lượn, Ví…và các trò chơi như tung còn, kéo co, bắn nỏ… Việc cưới xin là một sự kiện hết sức quan trọng trong đời sống của người Tày. Hôn nhân một vợ một chồng, việc cưới xin là một trọng những việc hệ trọng. Điều đặc biệt trong đám cưới của người Tày có hát quan lang. Hát quan lang trong đám cưới người Tày mang bản sắc rất độc đáo bởi vì người ta đều dùng lời ca, 13
  19. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn hình tượng ví von rất giàu chất trữ tình để thực hiện các nghi lễ đối đáp giữa nhà trai và nhà gái. Nó mang tính sinh hoạt văn hóa cộng đồng bởi các nội dung của hát có chất thi pháp, có vần điệu đồng thời chứa đựng những giá trị về đạo đức lối sống, không chỉ răn dạy cô dâu, chú rể mà nó còn có ảnh hưởng đến người có mặt tại lễ cưới. Chính lẽ đó mà các bài hát quan lang có sức sống truyền từ đời này sang đời khác, mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc ví dụ như hát chào hỏi. Tôi ở bản nhỏ đi đến đây Nghe nói bản lớn có giống tốt Tôi đến nhà xin được mang về Để nhà tôi sinh sôi giống nòi Hát cảm ơn, xin trải chiếu, mời trầu… Nghi lễ trong đám cưới của người Tày khá cầu kì nhưng quan niệm của họ là thiếu nó cô dâu, chú rể sẽ khó có được một cuộc sống hạnh phúc. và các vị thần phật lòng, không chỉ những người trong nhà gặp phải những điều xui xẻo mà việc sinh nở hay cuộc sống gia đình của cô dâu sẽ không tránh khỏi những điều bất trắc. Đám cưới của người Tày với những nghi lễ chặt chẽ, thông qua làn điệu hát quan lang để đối đáp, giao tiếp, là một truyền thống tốt đẹp giàu tính nhân văn. Ẩn sâu trong những lời lẽ bình dị, khiêm nhường là những ý tứ sâu sa, sắc sảo, chứa đựng tính giáo dục sâu sắc. Thông qua làn điệu quan lang, thanh niên nam nữ dân tộc Tày một lần nữa được thấm nhuần hơn nữa về ý thức cộng đồng, hiểu được trách nhiệm đối với gia đình và khát vọng vươn lên sống tốt đẹp hơn trong cuộc sống. Đám cưới chính là sự thừa nhận của hai cộng đồng, bản làng xóm giềng đối với cuộc hôn nhân của đôi nam nữ. * Văn học nghệ thuật Dân tộc Tày có một kho tàng văn học dân gian khá phong phú và đa dạng với các thể loại dân ca như Lượn, Phong Slư, Then… Cho đến các loại hình truyện như truyện cổ tích, truyện thần thoại, truyện kể địa danh ,ca dao, tục ngữ, câu đố. Vốn quý báu trong kho tàng văn học đó đang được các nhà nghiên cứu sưu tầm, lưu giữ như một niềm tự hào của người Tày. 14
  20. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN http://www.lrc.tnu.edu.vn Trong xã hội hiện đại ngày nay nghệ thuật dân gian được thể hiện qua các lễ hội truyền thống hay trong sinh hoạt văn hoá tâm linh như hát Then. Có thể nói người Tày có một đời sống văn hoá tinh thần phong phú giàu bản sắc. Chính điều đó là những cơ sở cần thiết , là tiền đề cho chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu của mình . 1.2. Một số vấn đề lí luận về Then Tày 1.2.1. Khái niệm Then Hát Then là loại hình diễn xướng dân gian tổng hợp gồm ca nhạc, múa và diễn trò. Theo người Tày, Then được hiểu là Thiên, chỉ trời. Về nguồn gốc có nhiều ý kiến khác nhau song đa phần cùng nhận định: hát Then có xuất xứ từ Cao Bằng khi nhà Mạc thất sủng. Hầu hết trong các lễ cúng của người Tày đều có hát Then hát Then không chỉ đơn thuần là một loại hình âm nhạc hay diễn xướng dân gian mà có sự gắn kết chặt chẽ với tín ngưỡng. Then là gì cho đến nay những người yêu thích nghệ thuật Then, ngay cả những người làm Then cũng chưa định nghĩa được thật rõ ràng về Then. Nhưng tất cả những cách giải thích đều đi đến khái niệm chung thống nhất. - Cuốn “Mấy vấn đề về Then Việt Bắc” (Nhiều tác giả) trong bài viết của ông Nông Văn Hoàn lại cho rằng “Then là tiên (có nơi gọi là sliên) là người của trời. Họ là người giữ mối liên hệ giữa người trần gian với Ngọc Hoàng và Long Vương”. [33, tr.147]. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa: Then là một lực lượng siêu nhiên sáng tạo ra thế giới theo quan niệm của một số dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt NamNgười làm nghề cúng bái (thường là nữ )ở vùng các dân tộc thiểu số nói trên, bà Then làm mo, làm then. Loại hình nghệ thuật tổng hợp gồm đàn hát, múa gắn liền với tín ngưỡng các dân tộc thiểu số nói trên, hát Then múa Then. [41, tr.931] Dương Kim Bội trong cuốn “Lời hát Then” quan niệm về then : Cho dù chưa có cách định nghĩa, giải thích một cách thỏa đáng, cứ coi nó như một danh từ dùng để chỉ một loại hình mê tín. [6, tr.10] Ông Nông Đình Tuấn cho rằng “Then là một loại hình nghệ thuật có từ lâu đời của hai dân tộc Tày – Nùng, được quần chúng giải thích” [33, tr.12]. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2