intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ Văn hoá và Văn học Việt Nam: Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng qua “Giông tố” , “Số đỏ” , “Làm đĩ”

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:105

96
lượt xem
27
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài “Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng qua “Giông tố”, “Số đỏ”, “Làm đĩ” ” nghiên cứu toàn diện, có hệ thống, nhằm qua đó nhận thấy cái quan tâm có tính tư tưởng, có tính quan niệm của nhà văn về xã hội, về thời đại mà nhà văn sống, một xã hội và thời đại phát triển gấp gáp sang hướng hiện đại, chuyển đổi từ xã hội truyền thống sang một hệ thống chính trị xã hội khác lạ. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ Văn hoá và Văn học Việt Nam: Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng qua “Giông tố” , “Số đỏ” , “Làm đĩ”

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC VŨ THỊ DUNG ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG QUA “GIÔNG TỐ”, “SỐ ĐỎ”, “LÀM ĐĨ” THÁI NGUYÊN 2018
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….…….1 1.Lí do chọn đề tài…………………………………………………….…………...1 2.Lịch sử vấn đề....................................................................................................... 3 3.Đối tượng và mục đích nghiên cứu……………………………………..……….8 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu………………………………...………..9 5. Phạm vi nghiên cứu…………………………………….……………………...10 6.Cấu trúc của luận văn...........................................................................................10 7. Đóng góp của luận văn………………………………………………...………10 NỘI DUNG………………………………………………………………………11 CHƯƠNG 1: THẾ GIỚI QUAN SÁNG TÁC CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG ...11 1.1. Một số khái niệm liên quan………………………………………….............11 1.1.1. Khái niệm thế giới quan sáng tác……………………………….…………12 1.1.2. Khái niệm quan niệm con người trong văn học…………..….…………....11 1.2. Khái lược về thế giới quan sáng tác và quan niệm về con người trong văn học hiện đại Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám 1945…..…12 1.2.1.Khái lược về thế giới quan sáng tác của các nhà văn đương thời……….…12 1.2.2. Khái lược quan niệm về con người trong văn học hiện đại Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám 19450………………....……………..15 1.3. Thế giới quan sáng tác của Vũ Trọng Phụng ………………………..………17 1.3.1. Vài nét về tiểu sử và con người Vũ Trọng Phụng………………………….17 1.3.2. Thế giới quan sáng tác của Vũ Trọng Phụng…………………..…………..19 1.3.2.1. Quan niệm của Vũ Trọng Phụng về con người "tha hóa, biến chất"…....20 1.3.2.2. Quan niệm củaVũ Trọng Phụng về con người bản năng tính dục……....24 TIỂU KẾT……………………………………………………………………….27 CHƯƠNG 2: CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG QUA “GIÔNG TỐ”, “SỐ ĐỎ” ,” LÀM ĐĨ”……………….29 2.1. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng…………………...29 2.1.1. Đặc điểm của nhân vật trong tiểu thuyết…………………………………..29 2.1.2. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng…………………31 2.2. Các kiểu nhân vật…………………………………………………………….34
  3. 2.2.1. Nhân vật Âu hóa…………………………………………………………...34 2.2.2. Nhân vật tiêu cực…………………………………………………………..45 2.2.3. Nhân vật tích cực……………………………………….…………...……..49 2.2.4. Nhân vật tha hóa, biến chất………………………………………….…….51 2.3 So sánh cách thức xây dựng hệ thống nhân vật trong ba tiểu thuyết (Giông Tố, Số Đỏ, Làm Đĩ) của Vũ Trọng Phụng với cách thức xây dựng hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết của một số nhà văn cùng thời…………………………………....62 TIỂU KẾT……………………………………………………………………..….68 CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG QUA “GIÔNG TỐ”, “SỐ ĐỎ”, “LÀM ĐĨ”………….69 3.1. Xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình………………………………….69 3.2. Xây dựng nhân vật qua miêu tả hành động………………………………….72 3.3. Xây dựng ngôn ngữ nhân vật………………………………………………...75 3.3.1. Ngôn ngữ đối thoại………………………………………………………...75 3.3.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm………………………………………………..79 3.4. Giọng điệu trong xây dựng tính cách nhân vật………………………………83 3.5. So sánh nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng với nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của một số nhà văn cùng thời..86 TIỂU KẾT……………………………………………………………………….91 KẾT LUẬN………………………………………………………………………92 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………94
  4. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Giai đoạn 1930-1945 là thời kì phát triển mạnh mẽ và đa dạng của văn học dân tộc với sự ra đời của nhiều trào lưu gắn liền với các tên tuổi của các nhà văn. Vũ Trọng Phụng được xem là cây bút tiêu biểu, có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ngòi bút Vũ Trọng Phụng có sức sáng tạo mãnh liệt, tung hoành trên nhiều thể loại như kịch, truyện ngắn, phóng sự, tiểu thuyết,… .Vũ Trọng Phụng đã để lại một di sản văn học đồ sộ với nhiều kiệt tác bất hủ cho đời và được dư luận báo chí suy tôn “vua phóng sự đất Bắc”. Tài năng của Vũ Trọng Phụng không chỉ thể hiện qua những thiên phóng sự đặc sắc mà còn được thể hiện tập trung nhất, kết tinh nhất trong tiểu thuyết. Ông viết hàng chục cuốn tiểu thuyết như Dứt tình (1934), Giông tố (1936), Vỡ đê (1936), Số đỏ (1936), Làm đĩ (1936), Lấy nhau vì tình (1937), Trúng số độc đắc (1938). Những tiểu thuyết lớn có tầm khái quát cao và giàu chất sống thực tế như Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, đã nâng cao tầm vóc giá trị của tiểu thuyết hiện thực.Với tài năng sáng tạo nhà văn đã xây dựng được nhiều nhân vật điển hình, sinh động và có bản sắc riêng, có sức sống lâu bền với thời gian. Các nhân vật của Vũ Trọng Phụng thể hiện rất rõ lịch sử giai đoạn tiếp nhận, tiếp biến, cả sự thay đổi, chuyển biến xã hội từ Á sang Âu, từ xã hội Nho giáo sang xã hội hiện đại tư bản. Nói cách khác, bước chuyển từ mô hình xã hội này sang một hình thái xã hội khác đã biểu hiện rõ nét trong các hệ thống nhân vật của Vũ Trọng Phụng. Đó là những biểu hiện qua hình ảnh, cách nhìn nhận của nhân vật, cách mô tả với các sắc thái khác nhau của các quan niệm, tư tưởng, thái độ của tác giả và ý tưởng tiềm ẩn trong các mô tả hành vi, ngôn ngữ nhân vật. Ba cuốn tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ là những cuốn tiểu thuyết “tả chân đặc sắc” giàu giá trị hiện thực.Tiểu thuyết Giông tố là bước nhảy vọt, là một trong những đỉnh cao nhất của sự nghiệp sáng tác của nhà văn đồng thời là một thành tựu xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực 1930 - 1945, quả đúng là“ như một quả bom lớn giữa làng văn khi đó” (Phạm Thế Ngũ). Tiểu thuyết Số đỏ là một cuốn tiểu thuyết “vô tiền khoáng hậu”, kết tinh tư tưởng và tài năng trào phúng bậc thầy của nhà văn. Trương Tửu nhận xét: Số đỏ là cuốn tiểu thuyết “tả chân đến tàn
  5. 2 ác”, “trào phúng đến chua xót” (Tao đàn số đặc biệt,12 -1939). Nguyễn Quang Sáng cho rằng: Số đỏ là “lời nguyền rủa chua cay độc địa cái xã hội thối nát” còn Nguyễn Khải cũng đánh giá rất cao tiểu thuyết này, coi đây là một trong những “cuốn sách ghê gớm” “có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học”. Làm đĩ là một trong số những tiểu thuyết gây ra nhiều cuộc tranh luận trong hơn suốt nửa thế kỷ qua. Đó là một tác phẩm mang nhiều giá trị - nó vừa là một thiên "tả chân tiểu thuyết" như tác giả tự giới thiệu, vừa thấm đẫm tinh thần nhân bản, nhân văn và xét từ góc độ nào đó, đây là cuốn sách giáo dục giới tính rất sâu sắc và khoa học.Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ là những tác phẩm tiêu biểu trong hệ thống sáng tác của Vũ Trọng Phụng đã nếm trải nhiều sóng gió của dư luận khác nhau và vị trí của các tác phẩm ấy đến nay đã được xác lập trong văn hóa, văn học nước nhà. Văn học là nhân học (M.Gorki).Văn học bao giờ cũng thể hiện cuộc sống con người. Nói đến nhân vật văn học là nói đến con người được nhà văn miêu tả thể hiện trong tác phẩm bằng phương tiện văn học [16]. Nhân vật giữ vai trò quan trọng, là hình tượng để khái quát những qui luật cuộc sống con người, thể hiện quan điểm, tư tưởng của nhà văn. Một tác phẩm văn học, việc sáng tạo nhân vật được xem như là yếu tố quan trọng hàng đầu. G.N Pospelov, Dẫn luận nghiên cứu văn học (2 tập), Nxb Giaó dục Hà Nội đã cho rằng nhân vật “là phương tiện tất yếu quan trọng nhất để thể hiện tư tưởng”, “là phương diện có tính thứ nhất trong hình thức của các tác phẩm ấy quyết định phần lớn vừa cốt truyện vừa lựa chọn chi tiết, vừa phương diện ngôn ngữ và thậm chí cả kết cấu nữa”[44]. Nhân vật làm nên phần quan trọng sức sống của tác phẩm và tên tuổi của nhà văn, điều đó hoàn toàn đúng với Vũ Trọng Phụng, một chân dung văn học tiêu biểu của thế kỉ XX đã cùng với nhân vật của mình “đi vào cõi bất diệt của văn xuôi Việt Nam”.Việc đi sâu tìm hiểu vấn đề “Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng qua“Giông tố”,“Số đỏ”,“Làm đĩ”” để có cái nhìn sâu về quan niệm và cách miêu tả con người của nhà văn, một trong những phương diện không thể thiếu khi tìm hiểu về thế giới nghệ thuật của tác giả và chỉ ra nhiều điều mới mẻ chỉ có trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Thực hiện đề tài “Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng qua“Giông tố”,“Số đỏ”,“Làm đĩ”” chúng tôi muốn nhìn nhận nhân vật từ nhiều
  6. 3 yếu tố, nhiều mặt để thấy được sự phong phú đa dạng trong việc xây dựng tính cách và hình tượng nhân vật, cũng như sự sáng tạo riêng của Vũ Trọng Phụng để từ đó có cái nhìn khách quan và toàn diện về những giá trị tinh thần của nhà văn. Đồng thời đặt trong sự so sánh với nhân vật của các tác giả khác hay của cả giai đoạn văn học đầy mới mẻ của một xã hội đang hiện đại hóa, đang thay đổi mạnh mẽ, từ đó nhìn thấy rõ nét hơn những đóng góp độc đáo và đặc sắc của tác giả Vũ Trọng Phụng. Đó cũng là góp thêm một cách tiếp cận mới về nghiên cứu tác phẩm giúp người đọc có cách hiểu sâu sắc hơn. Hơn nữa Vũ Trọng Phụng và các tác phẩm của ông được đưa vào trong chương trình giảng dạy, nên tiến hành nghiên cứu vấn đề hệ thống, đặc điểm nhân vật trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng sẽ ít nhiều góp phần phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập và giảng dạy ở trường phổ thông về tác giả này. 2. Lịch sử vấn đề Vũ Trọng Phụng được xem là cây bút tài ba nhưng phức tạp nhất của văn học Việt Nam thế kỉ XX. Nhân vật trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã được rất nhiều các nhà văn, nhà phê bình văn học nghiên cứu và quan tâm đến. Trong Phê bình - bình luận văn học, tác giả Vũ Tiến Quỳnh đã đưa ra ý kiến: “Các nhân vật trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đều có sự chuyển biến cương vị xã hội; từ đầu đến cuối tác phẩm không bao giờ một nhân vật chịu đứng yên ở một cương vị nhất định”[5]. Cũng trong cuốn này, tác giả Trương Chính nhận xét: “Nhân vật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng được cá thể hóa cao độ, đa dạng, phong phú về mặt thẩm mỹ, những con người đang đuổi theo những dục vọng cá nhân.”[5]. Do mối quan hệ giữa các nhân vật trong tiểu thuyết được bộc lộ một cách sinh động, chân thật đến tàn nhẫn nên đã để lại trong lòng người đọc không chỉ về ý nghĩa về xã hội mà còn cho chúng tôi thấy được tài năng xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của ông. Trương Chính (Dưới mắt tôi, Hà Nội,1939), sau khi nhắc tới một loạt nhân vật trong Giông tố như Long “thất vọng vì tình”, Tuyết “phóng đãng, lẳng lơ”,Vạn Tóc Mai “đểu giả, trụy lạc”, Hải Vân “một người phong trần, có chí khí lớn, hoài bão lớn” đã khái quát được tài năng và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Vũ Trọng Phụng: “lần lượt diễn ra trên màn ảnh tất các hạng người thuộc về các giai cấp, địa
  7. 4 vị khác nhau. Mỗi nhân vật có những cử chỉ riêng, một vẻ mặt thích hợp. Ông Vũ Trọng Phụng là một tiểu thuyết gia có óc quan sát và nhiều kinh nghiệm” [4]. Lan Khai (Phê bình các nhân vật hiện thời, NXB Minh Phương, Hà Nội 1941) đã chỉ ra một đặc điểm nổi bật của nhà văn: “Khi đọc các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng , ta thấy lúc nhúc một nhân vật đen tối, ngu xuẩn, ích kỉ, tàn nhẫn và dâm dật một cách vô cùng lố bịch” “sự thật các vai truyện do anh tạo ra đều chín phần mười là những kẻ đa dâm có khi rất quái ác” [28]. Trong Vũ Trọng Phụng con người và tác phẩm của Nguyễn Hoành Khung - Lại Nguyên Ân, NXB Hội văn học, Hà Nội, 1994, lời giới thiệu nhận xét tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng của Hoàng Cầm ông nhận thấy “Đọc đi đọc lại Số Đỏ, đối chiếu với cuộc sống thành thị lúc bấy giờ, tôi tìm ra rất nhiều nhân vật ấy trong thực tế: những Xuân Tóc Đỏ, những bà Phó Đoan, những thầy Min-Đơ, Min-Toa nhan nhản trên hè phố, trong tiệm nhảy và trong những chỗ sâu kín, tối tăm nhất của xã hội thuộc địa, phong kiến” [28]. Năm 1957, trong bài viết “Người thư ký” của thời đại của tác giả Văn Tâm đã có những nhận xét: “Những nhân vật trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng hoạt động trên một địa bàn rất rộng, bao gồm thành thị và nông thôn; từ những dinh cơ đồ sộ của địa chủ, quan lại, tới nơi nhà tranh vách đất; từ những biệt thự tối tân muôn hồng nghìn tía của tư sản đến những mảnh đất ngập ngụa rác rưởi của hạng người cùng khổ…”(…) “Dưới ngòi bút của Vũ Trọng Phụng, những nhân vật nằm trong cảnh thế sự thăng trầm này hầu hết lại xuất thân từ thành phần tiểu tư sản. Vũ Trọng Phụng đã thấy được rằng trong lúc giai cấp tiểu tư sản bong ra từng mảng, ba con đường đã vạch sẵn trước mắt nó: tư sản hóa, vô sản hóa, lưu manh hóa.”[63]. Qua nhân vật Vũ Trọng Phụng muốn phản ánh tầng lớp tiểu tư sản. Thứ hai, Vũ Trọng Phụng sử dụng nhân vật phản diện để phản ánh hiện thực xã hội. Nguyễn Tuân trong lời giới thiệu Giông tố cũng đề cao tài năng xây dựng nhân vật, đặc biệt là nhân vật Nghị Hách của Vũ Trọng Phụng, ông hết lời khen chương XXIX của tác phẩm. Ông cho rằng :“Đọc đến đây thấy sợ Vũ Trọng Phụng” [66]. Nhóm Lê Qúy Đôn trong “ Lược thảo lịch sử văn học” các tác giả nhận xét nhân vật Nghị Hách trong Giông Tố “Vũ Trọng Phụng chú ý đến những tay tư bản, Nghị Hách trong Giông Tố không phải là một ông Nghị gật tầm thường,
  8. 5 không phải Nghị Quế của Ngô Tất Tố trong Tắt Đèn, Nghị Lại của Nguyễn Công Hoan trong Bước Đường cùng (..) Nghị Hách lại sắp ứng cử ghế nghị trưởng, sắp có Bắc đẩu bội tinh. Nói tóm lại hắn là một nhân vật quan trọng trong xã hội ngày trước”.Về nhân vật Mịch các tác giả viết:“Đối với Mịch, nạn nhân trong Giông Tố, ngòi bút của Vũ Trọng Phụng cũng không đều. Đoạn đầu ông tả Thị Mịch là một cô gái quê hiền lành, chất phác, giản dị, chung tình và bị Nghị Hách làm nhục, ông có một chút thương hại nhưng về sau dưới ngòi bút của ông, Thị Mịch trở thành một nhân vật dâm đãng và có những cử chỉ vô duyên đáng ghét của một người đang ở cảnh nghèo khổ bỗng được sống trong cảnh giàu có phong lưu”[15]. Phan Cự Đệ trong Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (tập I-1994) đã từ góc độ phương pháp sáng tác cố gắng đi sâu lí giải những thành công của Vũ Trọng Phụng trong việc xây dựng các nhân vật điển hình. Ông đánh giá cao giá trị điển hình của nhiều hình tượng nhân vật :“Qua Nghị Hách, Vũ Trọng Phụng đã làm nổi bật tính chất đa dạng của một tính cách điển hình hiện thực chủ nghĩa” [10]. “Xuân Tóc Đỏ đã trở thành một con người sống lừng lẫy trong tác phẩm.Vũ Trọng Phụng phải phục tùng sự phát triển hợp logic nội tại của nó (....). Xuân Tóc Đỏ là một điển hình khá sinh động có cá tính riêng biệt có một sự phát triển hợp logic nội tại” [10]. Nguyễn Hoành Khung viết Số Đỏ và các nhân vật trong tác phẩm này cũng được đánh giá thật chính xác “Số Đỏ đã đưa ra một loạt chân dung biếm họa rất sinh động về gần đủ loại nhân vật tiêu biểu cho cái xã hội tư sản nhố nhăng.Với trình độ tiểu thuyết già dặn, bút pháp châm biếm đặc biệt sắc sảo, Số Đỏ là một trong những thành tựu nghệ thuật đặc sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại, nhất là trong thể loại tiểu thuyết trào phúng”[27]. Nguyễn Đăng Mạnh trong Tuyển tập Vũ Trọng Phụng có nhận xét “nhân vật trong Giông Tố không chỉ toàn những người vô nghĩa lí, lẻ tẻ thấy xuất hiện trong tác phẩm một số nhân vật được tác giả miêu tả như những con người biết sống có nghĩa lí”, Nguyễn Đăng Mạnh nhấn mạnh sự đa dạng trong hệ thống nhân vật đồng thời cho thấy tài năng của Vũ Trọng Phụng trong việc miêu tả khắc họa hình tượng nhân vật. Năm 1990, trên tạp chí văn học số 2, trong bài viết Đọc lại Giông Tố của Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đăng Mạnh có nhận xét:“cho đến nay, có thể nói chưa có một nhân vật địa chủ tư sản nào trong văn học Việt Nam địch nổi nhân vật Nghị
  9. 6 Hách, một con quỷ dâm ô, độc ác, đểu giả, trắng trợn cỡ bạo chúa”. Như vậy Vũ Trọng Phụng thành công nổi bật đã khắc họa nhân vật địa chủ phản diện điển hình. Năm 1996, trên báo Nhân Dân, trong bài viết Đọc lại truyện Giông Tố, Nguyễn Tuân nhận xét “Tiểu thuyết Giông Tố gồm nhiều thứ người:thôn quê, thành thị và cả những nhân vật từ quê ra tỉnh. Có người là thôn nữ bị bán làm lẽ thứ 12 cho nhà giàu, có người lại là thư kí, có người là du thủ du thực, có người là gái tân thời, có người là đốc học, có người làm cách mạng”[66]. Như vậy Nguyễn Tuân đã nói tới sự đa dạng trong thế giới nhân vật, đó là sự sáng tạo của Vũ Trọng Phụng trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Năm 1999, trong cuốn Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường, Vũ Dương Quỹ có nhận xét: “Nhân vật trong tiểu thuyết Giông tố là những con người ở thành thị (Hà Nội, Hải Phòng), ở nông thôn, ở vùng mỏ,….thuộc đủ mọi tầng lớp: bọn tư sản mại bản kiêm chính khách rởm hợm, trụy lạc, bất nhân, vô học, lũ lưu manh” (Giông tố, Số đỏ); những người nông dân đói khát hoặc bị tha hóa, vài ba tri thức tiến bộ nhưng lúng túng (Vỡ đê); những cô gái con nhà lành bị sa ngã (Làm đĩ); mấy nhà cách mạng bí hiểm,…”[51]. Nhận xét trên của Vũ Dương Qũy giúp ta phần nào nhận thấy một khía cạnh quan trọng ở nhân vật của Vũ Trọng Phụng, đó là thế giới nhân vật đông đúc, đa dạng như một thế giới con người thật của xã hội. Nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu cho rằng: Vũ Trọng Phụng sáng tạo một loại tiểu thuyết mới, tiểu thuyết cười, tiểu thuyết đa thanh, đa âm, đa sắc diện. Số đỏ là một siêu tiểu thuyết và nhân vật Xuân Tóc Đỏ là một siêu nhân vật. Nhân vật Xuân Tóc Đỏ đã vượt khỏi giới hạn của một hoàn cảnh, một thành thị mà trở thành một nhân vật phiêu lưu, có mặt ở nhiều cảnh ngộ. Năm 2008, cuốn Đặc sắc văn chương Vũ Trọng Phụng của tác giả Trần Đăng Thao đã nói về nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng như sau: “Nhân vật của Vũ Trọng Phụng trước hết là nhân vật của thời đại. Họ là những con người cụ thể bằng xương, bằng thịt, tắm gội trong bầu không khí cụ thể của lịch sử Việt Nam đúng vào cái thời điểm của những năm 30, họ là hiện thân, là sản phẩm tiêu biểu của xã hội thành thị dưới chế độ thực dân phong kiến bạo tàn.”[59]… “Tiểu thuyết phóng sự của Vũ Trọng Phụng thường được xây dựng có quy mô lớn, vì vậy kéo theo một hệ quả tất yếu là bao hàm trong đó một thế giới nhân vật đông đúc, những nhân vật ấy có thể có những mối liên quan trực tiếp, song đều thống nhất với nhau
  10. 7 chịu sự chi phối chặt chẽ của thế giới nghệ thuật trong tác phẩm với tư cách là một chỉnh thể ”[59]. Năm 2012, trong bài viết “Vũ Trọng Phụng - tài năng và thời cuộc”, Hà Minh Đức nhận xét: “Nói đến tiểu thuyết phải nói đến nhân vật, Vũ Trọng Phụng có tài khắc họa nhân vật. (…), mỗi nhân vật có một vóc dáng riêng, tính cách riêng, từ những tên gọi như bà Phó Đoan mà không đoan chính; ông Văn Minh nhưng thực sự là thụ động, bế tắc;các tên cảnh sát Min Đơ, Min Toa; rồi ông Lang Tỳ, Lang Phế cho đến em Chã, cụ cố Hồng... Mỗi người đều có những đặc điểm độc đáo. Vũ Trọng Phụng am hiểu xã hội, các loại người đến chân tơ kẽ tóc để góp phần tạo dựng nhân vật.”[11]. Qua đây, cho thấy thành công của Vũ Trọng Phụng trong việc xây dựng tính cách của nhân vật đạt đến mức điển hình ở xã hội 1930-1945 mà còn đến hôm nay vẫn còn quanh quẩn đâu đây. Nhìn chung, Vũ Trọng Phụng về con người, cuộc đời cũng như tiểu thuyết của ông luôn là đề tài cho các nhà nghiên cứu phải đào sâu tìm tòi, khám phá vì những mâu thuẫn, những hình tượng độc đáo. Người ta từng phủ nhận rồi lại khẳng định tài năng của ông vì ông chuyên viết về những chuyện ăn chơi trụy lạc, lưu manh, gái điếm, tha hóa,…để qua đó chúng tôi thấy được cách xây dựng tính cách nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng một tính cách phong phú, đa dạng mà không lẫn lộn với bất kì tính cách của nhân vật nào khác. Công trình nghiên cứu khá sâu sắc về nhân vật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, đó là luận án Nhân vật trong tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng của Đinh Trí Dũng năm 1999, trường ĐHSP Hà Nội I. Đinh Trí Dũng có nhận xét như sau: “Với các tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, người đọc không thể quên được thế giới nhân vật độc đáo của ông, một thế giới đông đúc với đủ kiểu người, đủ các khuôn mặt, chen chúc, ồn ào, náo loạn trong bối cảnh xã hội thăng trầm, điên đảo.”[9] “...trong thế giới nhân vật đông đúc đó, ngòi bút Vũ Trọng Phụng đặc biệt thành công trong việc khắc họa các nhân vật phản diện.”[9]. Phạm vi nghiên cứu khá rộng, toàn diện các nhân vật đa dạng, phức tạp của tiểu thuyết. Đồng thời luận án đã đi sâu tìm hiểu quan niệm về con người của nhà văn như một nhân tố quyết định, chi phối trực tiếp các nhân vật của ông và khái quát hóa những điểm mạnh, điểm yếu và hạn chế
  11. 8 trong bút pháp xây dựng nhân vật, đặt trong tiến trình hiện đại hóa của tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1930-1945. Ngoài ra còn có luận văn thạc sĩ của Trần Thị Lệ Thanh với đề tài “Hai hình tượng Long, Mịch trong tiểu thuyết Giông Tố của Vũ Trọng Phụng”, Trường ĐHSP Hà Nội I, 1995. Luận án của Trần Đăng Thao “Đóng góp của Vũ Trọng Phụng đối với lịch sử văn học Việt Nam hiện đại qua hai thể loại phóng sự và tiểu thuyết”. Qua các ý kiến đánh giá và nhận định với nhiều cách tiếp cận khác nhau của nhiều công trình nghiên cứu đi trước, nhân vật trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng thật phong phú và đa dạng nhưng một số nhân vật chưa được quan tâm, phân tích sâu sắc để thấy được từng “cung bậc” đểu giả, tha hóa của một kiểu nhân vật, thông qua tiến trình sáng tác của ông. Ví dụ như kiểu con người tha hóa, biến chất của các cặp nhân vật như: Mịch - Huyền; Long - Xuân Tóc Đỏ… trong tiểu thuyết của ông. Chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu chi tiết đặc điểm nhân vật trong ba tác phẩm “Giông tố”, “Số đỏ”, “Làm đĩ” của Vũ Trọng Phụng để chỉ ra những điểm nổi bật, cái chung và cái riêng trong việc xây dựng hình tượng từng nhân vật của Vũ Trọng Phụng cũng như miêu tả chi tiết, tỉ mỉ chân dung nhân vật. Điều đó, dù có sự kế thừa những thành tựu người đi trước, dù các nhà nghiên cứu các tác phẩm khá nhiều và sâu sắc về Vũ Trọng Phụng thì đặc điểm nhân vật qua ba tác phẩm “Giông tố”, “Số đỏ”, “Làm đĩ” vẫn là đề tài mới và có ý nghĩa sâu sắc. Chúng tôi triển khai đề tài “Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng” mong muốn góp phần nhỏ vào việc đánh giá chung để cùng khẳng định tài năng và những sáng tạo, đóng góp của tác giả trong nền văn học Việt Nam. 3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Chúng tôi hướng đến đối tượng là các nhân vật với những đặc điểm của nó trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Trong đó tập trung cao nhất vào các kiểu nhân vật được phản ánh trong ba tác phẩm Giông Tố, Số Đỏ, Làm Đĩ của Vũ Trọng Phụng. 3.2. Mục đích nghiên cứu - Khảo sát và nghiên cứu đặc điểm nhân vật trong ba tác phẩm Giông Tố, Số Đỏ, Làm Đĩ của Vũ Trọng Phụng nhằm thấy rõ được cách lựa chọn các vấn đề của
  12. 9 thời đại, của xã hội thông qua đặc điểm nhân vật mà nhà văn thiết lập, đồng thời thấy được sự tha hóa biến chất trong từng nhân vật và cả trong xã hội Âu hóa. Bức tranh hiện thực về con người đó, thể hiện rõ trong xã hội Việt Nam qua các nhân vật thông qua sự sáng tạo của nhà văn. - So sánh với cách tiếp cận, cách thức xây dựng tính cách nhân vật của Vũ Trọng Phụng với các nhà văn khác cùng thời và với các nhà viết tiểu thuyết hiện nay để thấy được thế giới quan sáng tác độc đáo của Vũ Trọng Phụng và tài năng xây dựng hình tượng nhân vật của ông. - Chỉ ra những đóng góp của Vũ Trọng Phụng về cách thức xây dựng nhân vật cũng như giá trị tác phẩm được khảo sát của ông trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của ông và trong mảng văn học hiện thực phê phán Việt Nam lúc bấy giờ. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu - Khảo sát toàn diện, thống kê đầy đủ và phân tích sâu về hệ thống nhân vật - tầng, lớp người được thể hiện trong ba tác phẩm: Giông Tố, Số Đỏ, Làm Đĩ của Vũ Trọng Phụng. - Tìm hiểu thế giới quan sáng tác, cách tiếp cận, các hình thức thể hiện con người trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp tiểu sử tác giả: sử dụng phương pháp này, đặt đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ với cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng, đặc biệt là quan điểm sáng tác để tìm hiểu chiếm lĩnh được nhân vật trong tác phẩm của ông. - Phương pháp phân loại - thống kê: khi đi vào hệ thống nhân vật, chúng tôi phân loại để khảo sát, thống kê tần số xuất hiện của từng nhân vật, ngôn ngữ độc thoại, đối thoại để nghiên cứu thêm xác đáng hơn. - Phương pháp phân tích- tổng hợp: phân tích một số nhân vật tiêu biểu trong ba tác phẩm từ đó chỉ ra đặc điểm của thế giới nhân vật và biểu hiện nghệ thuật xây dựng nhân vật. Trên cơ sở đó đúc kết những đặc điểm nổi bật về nhân vật trong tác phẩm của nhà văn.
  13. 10 - Phương pháp so sánh: tiến hành so sánh nhân vật trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng với các nhân vật trong một số tác phẩm của các nhà văn cùng thời hay những giai đoạn trước để làm sáng tỏ vấn đề. 5. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào ba tác phẩm tiểu thuyết: Giông Tố, Số Đỏ, Làm Đĩ. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn được tổ chức thành ba chương. Chương 1: Thế giới quan sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Chương 2: Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng qua“Giông tố”, “Số đỏ”, “Làm đĩ”. Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng qua “Giông tố”,“Số đỏ”,“Làm đĩ” 7. Đóng góp của luận văn Đề tài “Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng qua “Giông tố”, “Số đỏ”, “Làm đĩ” ” nghiên cứu toàn diện, có hệ thống, nhằm qua đó nhận thấy cái quan tâm có tính tư tưởng, có tính quan niệm của nhà văn về xã hội, về thời đại mà nhà văn sống, một xã hội và thời đại phát triển gấp gáp sang hướng hiện đại, chuyển đổi từ xã hội truyền thống sang một hệ thống chính trị xã hội khác lạ. Qua nghiên cứu đặc điểm các nhân vật mà mỗi loại nhân vật là một đại diện thời đại, đại diện điển hình xã hội sẽ làm bộc lộ rõ nét nhất tầm nhìn, cách nhìn của một nhà văn tiêu biểu, một nhà văn có nhiều đóng góp quan trọng cho văn học đương thời và cho tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Nghiên cứu đề tài này có thể vận dụng trong giảng dạy và học tập và góp phần làm tư liệu cho các nhà nghiên cứu và những người yêu văn học.
  14. 11 NỘI DUNG CHƯƠNG 1: THẾ GIỚI QUAN SÁNG TÁC CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG. 1.1. Một số khái niệm liên quan 1.1.1 Khái niệm: Thế giới quan sáng tác Theo từ điển Tiếng Việt: Thế giới quan là định hướng nhận thức cơ bản của một cá nhân hay xã hội bao gồm toàn bộ kiến thức và quan điểm của các cá nhân hay xã hội. Thế giới quan có thể bao gồm triết học tự nhiên; định đề cơ bản, hiện sinh, và quy chuẩn; hoặc các chủ đề, các giá trị, cảm xúc và đạo đức. Văn học là sản phẩm sáng tạo của con người.Tuy nhiên để sáng tạo ra được một tác phẩm văn học là một điều không hề đơn giản. Người nghệ sĩ phải có những phẩm chất, tài năng và những quan điểm sáng tạo riêng biệt mới có thể tạo ra được một sản phẩm văn học giá trị. Thế giới quan sáng tác chính là quan điểm, biểu hiện của cách nhìn của nhà văn bao quát (bức tranh) đối với thế giới bao gồm cả thế giới bên ngoài, cả con người và cả mối quan hệ của người – thế giới (tức là mối quan hệ của người đối với thế giới). Nó quy định thái độ của con người đối với thế giới và là kim chỉ nam cho hành động của con người, qua cách nhìn cụ thể đó sẽ chi phối đến toàn bộ quá trình sáng tác của nhà văn: tư tưởng, quan niệm, tâm hồn, tình cảm thị hiếu, vốn sống, kinh nghiệm, tài nghệ của người nghệ sĩ. 1.1.2. Khái niệm: Quan niệm con người trong văn học. Văn học là nhân học, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Con người là đối tượng chủ yếu của văn học. Nhân vật là hình thức cơ bản để miêu tả con người trong văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù quan trọng, là khái niệm cơ bản nhằm thể hiện khả năng khám phá, sáng tạo trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con người của nhà văn. Mỗi nhà văn ở mỗi thời đại lại có những quan niệm khác nhau về con người, chi phối đến cách xây dựng và thể hiện tính cách nhân vật trong tác phẩm văn học. Khái niệm quan niệm về con người vẫn còn nhiều cách định nghĩa và diễn đạt khác nhau. Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: "Quan niệm nghệ thuật về con người là một cách cắt nghĩa, lí giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình”[12; tr 15]. Giáo sư Huỳnh Như Phương nhận xét:
  15. 12 “Quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện tầm nhìn của nhà văn và chiều sâu triết lí của tác phẩm”. Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa như sau: “Quan niệm nghệ thuật là hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác phẩm. Nó gắn với các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách của nhà văn, làm thành thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ thuật.” [17; tr 275]. Quan niệm nghệ thuật về con người là hình thức đặc thù thể hiện con người trong văn hoc, đó là những nguyên tắc cảm thấy, hiểu biết và miêu tả con người trong văn học, được hiểu là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ, cách cắt nghĩa lí giải của nhà văn về con người. Đó là quan niệm mà nhà văn thể hiện trong từng tác phẩm. Quan niệm ấy bao giờ cũng gắn liền với cách cảm thụ và biểu hiện chủ quan sáng tạo của chủ thể. Như vậy, trung tâm của văn học là con người nên con người cũng là đối tượng thẩm mĩ để tác giả thể hiện quan niệm của mình về cuộc sống. Chủ thể sáng tác sẽ là người vận động và suy nghĩ về con người, cho con người, nêu ra những tư tưởng mới để hiểu về con người. Như vậy quan niệm nghệ thuật về con người là một yếu tố vô cùng cần thiết và quan trọng, từ đó ta hiểu được bản chất phản ánh của nghệ thuật, những yêu cầu sáng tạo thẩm mĩ về nghệ thuật, nội dung phản ánh và nghệ thuật biểu hiện tới sự vận động của con người trong văn học. 1.2 Khái lược về thế giới quan sáng tác và quan niệm về con người trong văn học hiện đại Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám 1945. 1.2.1 Khái lược về thế giới quan sáng tác của các nhà văn đương thời Mỗi một tác phẩm văn học đều chứa đựng một nội dung tư tưởng nào đó và không bao giờ là sự lý giải dửng dưng mà là phải gắn liền với một cảm xúc mãnh liệt, đó có thể là những tình cảm khẳng định: là niềm say mê khẳng định chân lý, lý tưởng ngợi ca, vui sướng, biết ơn, yêu thương hay có thể là những tình cảm phủ định giả dối và mọi hiện tượng xấu xa, tiêu cực, châm biếm, mỉa mai…vv, là thái độ ngợi ca đồng tình với nhân vật chính diện, là sự phê phán tố cáo thế lực đen tối, các hiện tượng tầm thường.Đồng thời tác phẩm phải mang ý nghĩa xã hội khi nó đẩy lên được những cảm xúc về cõi nhân sinh, về con người, về cuộc đời mãnh liệt và sâu
  16. 13 sắc thì mới rung động được lòng người và tạo nên giá trị tư tưởng nghệ thuật cho tác phẩm. Thế giới quan của nhà văn được thể hiện ở việc lựa chọn sự việc miêu tả (đứng trước những hiện thực cuộc sống phức tạp muôn vẻ, nhà văn phải biết chú ý đến hiện tượng nào và cho đó là có ý nghĩa nhất) hay ở việc đánh giá những hiện tượng, ở thái độ và khuynh hướng giải quyết những vấn đề đặt ra trong tác phẩm và việc xây dựng hình thức nghệ thuật. Trong giai đoạn 1930- 1945 các nhà văn lãng mạn tiêu cực chỉ ý niệm xung quanh “ cái tôi” nhỏ bé hoặc cái ta viển vông thì các nhà văn hiện thực lại thiên về miêu tả hiện thực đời sống thống khổ của nhân dân và tầng lớp dân nghèo thành thị còn các nhà văn cách mạng lại đề cập đến vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc, hình ảnh những người chiến sĩ kiên cường. Trong giai đoạn 1930 – 1945 là giai đoạn đất nước ta đương đầu với nhiều biến động to lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội rõ nét. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nước ta rơi vào khủng hoảng trầm trọng mà đỉnh điểm là nạn đói 1945 khiến cho hàng triệu đồng bào bị thiệt mạng. Bằng ngòi bút sắc bén của mình, các nhà văn hiện thực tài năng đã khắc họa sống động và phê phán một cách sâu sắc con người, chế độ và cuộc sống bấy giờ.Với hoàn cảnh đất nước như vậy, thế giới quan sáng tác của các nhà văn vô cùng phong phú và đa dạng, họ luôn có cái nhìn đa chiều, đa diện về xã hội đặc biệt mỗi nhà văn lại có những đề tài mới mẻ để gửi gắm qua những trang viết của mình và nói lên những suy nghĩ trăn trở và thông điệp, tình cảm nào đó thông qua tác phẩm văn học. Chúng tôi sơ lược qua một vài quan điểm sáng tác của một số nhà văn hiện thực giai đoạn này để thấy những đặc sắc, mới mẻ trong thế giới quan sáng tác của mỗi nhà văn. Nguyễn Công Hoan là nhà văn hàng đầu của nền văn học hiện thực phê phán Việt Nam.Ngòi bút của ông vô cùng sắc sảo, mang tính đột phá, bất ngờ với những quan điểm nhìn nhận trong thế giới xã hội hiện thực đầy biến động đó là quan điểm giàu nghèo và quan điểm luân lí đạo đức là hai quan điểm cốt lõi trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan xuất phát từ thực tế cuộc sống mà ông đã trải qua và chứng kiến. Vốn hiểu biết về cuộc sống nơi quan trường hay nỗi long đong của nghề giáo khiến ông có điều kiện tiếp xúc với đủ hạng người giàu nghèo sang hèn trong xã hội, sống ở nhiều vùng đất, chứng kiến nhiều cảnh đời tạo nên một vốn sống vô
  17. 14 cùng phong phú và là chất liệu cho sáng tác của mình.Trong thời buổi Tây, Tàu nhố nhăng, đứng trên lập trường của lớp quan lại lỗi thời, Nguyễn Công Hoan đả kích bọn quan lại vô liêm sỉ, bọn tư sản chạy theo lối “Âu hóa” nhố nhăng đồi bại, nhà văn căm ghét xã hội thực dân tư bản, những kẻ có tiền, có quyền hà hiếp dân lành. Bản tính đùa cợt, tinh nghịch và năng khiếu trào phúng bẩm sinh, cá tính sáng tạo được phát huy trong bối cảnh xã hội có nhiều cái đáng phê phán và đáng cười chi phối đến tính chủ quan trong sáng tác của Nguyễn Công Hoan để tạo ra được tiểu thuyết “ Những cảnh khốn nạn”, “Tắt lửa lòng”, “ Lá ngọc cành vàng”, “Ông chủ”, “Bà chủ”, “Bước đường cùng”….vv sâu sắc trong lòng người đọc. Ông luôn đứng về phía người nghèo, bênh vực họ đồng thời lên án, tố cáo bọn có tiền, có quyền bất nhân bất nghĩa. Nam Cao một nhà văn hiện thực kiệt xuất có tư tưởng nhân đạo phong phú và sâu sắc, mà còn là nhà văn có quan điểm sáng tác nghệ thuật tiến bộ và nhất quán. Suốt cuộc đời cầm bút của mình, Nam Cao luôn luôn suy nghĩ về “Sống” và “Viết”. Ban đầu, ông chịu ảnh hưởng sâu nặng của thứ nghệ thuật lãng mạn thoát li thi vị hóa hiện thực, ông đã sáng tác những bài thơ, truyện tình tâm lí, dễ dãi. Nhưng vốn là một nghệ sĩ chân chính, giàu tình thương yêu quần chúng lao khổ, Nam Cao đã sớm nhận ra thứ văn chương thơm tho đó xa lạ với đời sống lầm than của đông đảo quần chúng nghèo khổ xung quanh. Và ông đã đoạn tuyệt với nó, để tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực chân chính, “nghệ thuật vị nhân sinh”. Theo Nam Cao, người cầm bút chân chính không được “trốn tránh” sự thực mà “cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của cuộc đời…”. Nam Cao chủ trương văn học phải chứa đựng nội dung nhân đạo. Tác phẩm văn học có giá trị không chỉ phản ánh sự thực đời sống mà còn phải có giá trị nhân đạo sâu sắc. Chủ trương văn chương phải miêu tả được hiện thực, phải diễn tả được tiếng lòng đau khổ của quần chúng.Từ những quan niệm nghệ thuật thấm đẫm vị nhân sinh đó nên các tác phẩm của nhà văn tập trung vào hai mảng đề tài lớn đó là đề tài nông thôn, nông dân nghèo và đề tài tiểu tư sản như Chí Phèo, Sống Mòn, Đời Thừa, Giăng sáng, Nghèo, Một bữa no....vv. Tất cả tác phẩm đều mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Chính sự phát hiện và lý giải hiện thực của các nhà văn đã cho thấy nhiều điều mới mẻ trong tư tưởng tác phẩm của mình. Sự vang động xã hội của tác phẩm
  18. 15 không chỉ phụ thuộc vào vào chiều rộng hoặc chiều sâu hiện thực phản ánh mà còn phụ thuộc vào việc nhà văn nói lên những tư tưởng xã hội nào, thể hiện trung thực đến đâu, những nguyện vọng tâm tư nhân dân, yêu cầu của xã hội và thời đại, luôn có cái nhìn thế giới quan sâu rộng gắn liền với thời đại và xã hội mình đang sống. 1.2.2 Khái lược quan niệm về con người trong văn học hiện đại Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám 1945. Cuộc sống luôn vận động theo từng giai đoạn lịch sử nên văn học ở mỗi giai đoạn khác nhau sẽ thể hiện con người với những đặc điểm riêng biệt. Nếu như trong văn học dân gian, con người được thể hiện là sản phẩm của tự nhiên gồm cả yếu tố bản năng và ý thức: vừa có vẻ đẹp về thể xác, vừa có vẻ đẹp về tâm hồn, trí tuệ. Ngoài những nhu cầu bản năng, con người còn có ý thức, có khả năng thăng hoa những nhu cầu ấy thành chất Người. Con người thăng hoa nhu cầu ăn uống thành văn hoá ẩm thực, thăng hoa nhu cầu tình dục thành tình yêu. Con người ham sống nhưng không sống bằng mọi giá. Họ hiểu sống phải có vật chất nhưng còn hiểu sống cần có cả những cái cao hơn vật chất, đó là tinh thần, là tình thương và danh dự. Trong văn học trung đại Việt Nam, quan niệm về con người chi phối cả một thời kì văn học là quan niệm con người vũ trụ, con người đạo đức, luân lí, con người của chí khí, tỏ chí và tỏ lòng, con người đấng bậc. Đến thời kì hiện đại, từ đầu thế kỉ XX, khi điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội có nhiều đổi khác thì quan niệm về con người trong văn học cũng thay đổi theo. Con người tự nhiên, bản năng từng được thể hiện trong văn học dân gian, bị bó hẹp bởi những quy định khắt khe của văn học Nho giáo thời trung đại. Con người cá nhân từng được ghi dấu trong văn học trung đại giai đoạn cuối đến thời kì hiện đại đã được khẳng định rõ nét. Sự vận động nội tại của văn học gặp luồng gió văn hóa phương Tây đầu thế kỉ XX đã tạo nên sự thể hiện con người cá nhân trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám 1945. Trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến trước Cách mạng tháng Tám 1945 có những hiện tượng văn học lớn với những quan niệm về con người đáng chú ý. Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã thể hiện một quan niệm con người mới làm nền tảng cho việc xây dựng cốt truyện và miêu tả nhân vật trong tác phẩm. Đó là con
  19. 16 người cá nhân với khát vọng tìm cách thoát ly mọi quan hệ xã hội để thỏa mãn tự do bản năng. Con người cá nhân không chịu gò mình trong khuôn khổ lễ giáo phong kiến, muốn vượt ra ngoài vòng cương tỏa để hướng đến quyền tự do quyết định hạnh phúc.Đặc biệt là tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã mở đầu cách miêu tả thế giới nội tâm con người, chú ý trình bày thế giới cảm giác của con người với môi trường xung quanh, đối với người khác và đối với chính mình. Nội dung tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là thay đổi cách nhìn về con người. Nhà văn đưa con người ra đấu tranh trực diện với xã hội cũ. Thơ mới là thơ phát hiện cái tôi cá nhân thành thực, thầm kín của mỗi người. Thơ mới, thuộc khuynh hướng văn học lãng mạn xuất hiện mang theo một quan niệm mới mẻ về con người, là con người cá nhân với tất cả những biểu hiện trần thế nhất, là cái Tôi riêng “Tôi chỉ là một khách tình si”, “Tôi là kẻ bộ hành phiêu lãng”, “Tôi là con chim đến từ núi lạ”, “Tôi là con nai bị chiều đánh lưới”…Cái Tôi cá nhân như đứng giữa cuộc đời để khẳng định sự xuất hiện của mình, thể hiện những xúc cảm sâu sắc và chân thành. Cái Tôi thi sĩ tự nhìn thấu tâm hồn mình và thể hiện trên trang thơ những cảm xúc chân thực, sâu sắc nhất của tâm hồn trước cuộc đời. Văn xuôi hiện thực nhìn xã hội trong quan hệ với số phận và ứng xử cá nhân.Văn học hiện thực xem con người là sản phẩm của hoàn cảnh, là tiêu bản của hoàn cảnh. Nhà văn mổ xẻ con người chính là khám phá tác động hoàn cảnh lên con người.Các nhà văn tiêu biểu giai đoạn này như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Ngô Tất Tố.....Chúng tôi chỉ điểm qua vài nét về quan niêm con người của một số nhà văn. Đối với Nguyễn Công Hoan, mỗi con người là một diễn viên đóng vai trong tấn trò đời, vì "Đời là sân khấu hài kịch. Khi mọi người đều đóng trò, đều diễn thì ta có một xã hội giả dối, đánh mất bản chất chân thật. Con người bị tha hoá, không còn chung thuỷ, không còn hiếu, không còn tình, không còn vui, thích thật nữa! Bề ngoài cái gì nó cũng có, mà bên trong thì không có gì cả, bên trong một đằng bên ngoài một nẻo. Quan niệm về con người của Nguyễn Công Hoan còn có điểm mới, ông miêu tả con người bị vật hoá: ngựa người, người ngựa, người tranh cơm với chó, người biến thành cây thịt, bộ xương,... Bằng quan niệm con người làm trò và con người bị vật hoá, Nguyễn Công Hoan đã cười vào cái xã hội giả dối, phi nhân
  20. 17 tính trong thực tại. Nguyễn Công Hoan đã đề cập đến một khía cạnh sâu sắc nhất trong xã hội đồng tiền: sức mạnh của đồng tiền đã biến con người thành hàng hóa, thành đồ vật. Đó là cái hiện thực tất nhiên, là hậu quả của xã hội tư sản. Nam Cao là nhà văn tập đại thành của văn xuôi hiện đại trước Cách mạng tháng Tám 1945. Ông tiếp thu quan niệm con người cảm giác, ông chấp nhận con người bị tha hoá, dị dạng trước những tác động của hoàn cảnh nhưng ông cũng thấy con người ở nơi sâu thẳm vẫn còn giữ được tính người. Vì vậy tác phẩm của Nam Cao vừa đau đớn, vừa mạnh mẽ, nhức nhối. Nam Cao là nhà văn đặt ra được những vấn đề con người bức xúc nhất, sâu sắc nhất, nan giải nhất. Nếu hiểu tiểu thuyết là hình thức nghệ thuật cung cấp những giải pháp thẩm mỹ cho những vấn đề con người chưa được giải quyết trong hiện thực xã hội, lịch sử thì quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao đã mang chất tiểu thuyết sâu sắc nhất. Như vậy, sự xuất hiện của văn xuôi lãng mạn Tự lực văn đoàn, Thơ mới và văn xuôi hiện thực với những cây bút xuất sắc trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 đã thể hiện quan niệm mới mẻ về con người, khác biệt với quan niệm về con người trong văn học dân gian và văn học trung đại. Sự thay đổi trong quan niệm về con người phù hợp với hoàn cảnh thời đại có ý nghĩa quan trọng, giúp văn học thực hiện được chức năng của nó là phản ánh chân thực bộ mặt của xã hội mới với những con người mới, tâm tư, tình cảm mới. Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi, cũng vì thế được kế thừa thành quả của quá trình hiện đại hóa văn học đã diễn ra và phát triển từ những năm 30 của thế kỉ XX, trong đó có quan niệm mới mẻ về con người.Tiểu thuyết khám phá con người ở góc độ cái Tôi cá nhân, thể hiện đặc điểm tính cách của từng lớp người cụ thể, cá tính của từng con người cụ thể được phản ánh. Trong một xã hội có sự giao thoa giữa hai luồng văn hóa Đông – Tây, con người với những mong muốn, sở thích của cá nhân, dám sống thật với bản chất con người của chính mình chứ không phải uốn mình theo khuôn phép lễ giáo phong kiến. Các tác giả trong giai đoạn này cũng đã lắng nghe và thể hiện trên trang viết những suy nghĩ, thái độ, xúc cảm riêng tư của con người, 1.3. Thế giới quan sáng tác của Vũ Trọng Phụng. 1.3.1. Vài nét về tiểu sử và con người Vũ Trọng Phụng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2