intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Quan hệ quốc tế: Chiến lược an ninh quốc gia Liên Bang Nga dưới chính quyền Tổng Thống V.Putin 2000 – 2008

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:103

41
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu có cấu trúc gồm 3 chương trình bày những nhân tố tác động tới việc hình thành Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin 2000 - 2008; nội dung cơ bản của Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin 2000 - 2008; thực thi Chiến lƣợc an ninh quốc gia Liên bang Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin 2000 - 2008

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Quan hệ quốc tế: Chiến lược an ninh quốc gia Liên Bang Nga dưới chính quyền Tổng Thống V.Putin 2000 – 2008

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ MINH PHƯỢNG CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC GIA LIÊN BANG NGA DƯỚI CHÍNH QUYỀN TỔNG THỐNG V.PUTIN 2000 - 2008 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ HÀ NỘI - 2010
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ MINH PHƯỢNG CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC GIA LIÊN BANG NGA DƯỚI CHÍNH QUYỀN TỔNG THỐNG V.PUTIN 2000 - 2008 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ MÃ SỐ: 60.31.40 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS NGUYỄN QUỐC HÙNG HÀ NỘI - 2010
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 1 Lý do lựa chọn đề tài 3 2 Tình hình nghiên cứu đề tài 5 3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8 4 Phương pháp nghiên cứu 8 5 Kết cấu luận văn 9 CHƢƠNG 1 Những nhân tố tác động tới việc hình thành Chiến lƣợc 11 an ninh quốc gia Liên bang Nga dƣới chính quyền Tổng thống V.Putin 2000 - 2008 1.1 Tình hình thế giới 12 1.2 Những xung đột trong Cộng đồng các quốc gia độc lập 15 1.3 Khó khăn chồng chất trong nước 17 1.4 Sự xuất hiện của vị Tổng thống mới - V.Putin 27 CHƢƠNG 2 Nội dung cơ bản của Chiến lƣợc an ninh quốc gia Liên 30 bang Nga dƣới chính quyền Tổng thống V.Putin 2000 - 2008 2.1 Nước Nga trong cộng đồng thế giới 30 2.2 Các lợi ích quốc gia Liên bang Nga 33 2.3 Các nguy cơ đe dọa đối với an ninh quốc gia Liên bang Nga 35 2.3.1 Các nguy cơ trong nước 36 2.3.2 Các nguy cơ từ bên ngoài 39 2.4 Đảm bảo an ninh quốc gia của Liên bang Nga 41 2.4.1 Những nhiệm vụ chủ yếu nhằm đảm bảo an ninh quốc gia 41 1
  4. 2.4.2 Đảm bảo an ninh quốc gia trong lĩnh vực đối nội 43 2.4.2.1 Đảm bảo an ninh quốc gia trong hoạt động kinh tế đối nội 43 2.4.2.2 Đảm bảo ổn định chính trị - xã hội 46 2.4.2.3 Đảm bảo an ninh quốc gia trong một số lĩnh vực đối nội khác 48 2.4.3 Đảm bảo an ninh biên phòng, thông tin, quân sự và phòng 50 chống tội phạm quốc tế 2.4.4 Đảm bảo an ninh quốc gia trong lĩnh vực đối ngoại 54 2.4.5 Hệ thống đảm bảo an ninh quốc gia Liên bang Nga 56 CHƢƠNG 3 Thực thi Chiến lƣợc an ninh quốc gia Liên bang Nga 60 dƣới chính quyền Tổng thống V.Putin 2000 - 2008 3.1 Thực thi Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga trong 60 hai nhiệm kỳ của Tổng thống V.Putin 3.2 Đánh giá kết quả thực hiện 70 3.2.1 Thành công 71 3.2.2 Những vấn đề còn tồn tại 75 3.3 Tác động của việc thực thi Chiến lược an ninh quốc gia tới 80 mối quan hệ giữa Liên bang Nga với một số đối tác 3.4 Mối quan hệ Nga - Việt trong hai nhiệm kỳ của Tổng 87 thống V.Putin 3.5 Những điều chỉnh trong Chiến lược an ninh quốc gia Liên 90 bang Nga thời kỳ mới KẾT LUẬN 95 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 2
  5. MỞ ĐẦU Theo nguyên bản tiếng Nga, “Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga” là “Концепция национальной безопасности Российской Федерации”. Và từ “Концепция” trong tiếng Việt có nghĩa là quan điểm, quan niệm (Từ “Chiến lược” trong tiếng Nga là стратегия). Như vậy cũng hoàn toàn có thể dịch là “Quan điểm về an ninh quốc gia của Liên bang Nga”. Tuy nhiên, để tiếp nối những nghiên cứu liên quan đến văn kiện này đã có từ trước, học viên sử dụng thống nhất trong toàn luận văn là “Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga”. 1. Lý do lựa chọn đề tài Trong cục diện của Trật tự thế giới hai cực thời kỳ Chiến tranh lạnh, Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (gọi tắt là Liên Xô) có vị thế quốc tế đặc biệt quan trọng. Sự tan rã của Liên Xô đã tác động lớn đến những thay đổi trong tương quan lực lượng trên thế giới, đồng thời tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ trong nền chính trị thế giới và quan hệ quốc tế của các nước cũng như các khu vực trên phạm vi toàn cầu. Liên bang Nga, khi còn là một trong mười lăm nước Cộng hòa thuộc Liên Xô, đã luôn có tiếng nói quyết định trong hầu hết các công việc nội trị và giữ vai trò quan trọng trên trường quốc tế. Từ sau năm 1991, bước lên vũ đài quốc tế với tư cách là một quốc gia độc lập, Liên bang Nga đã trải qua những giai đoạn khó khăn, thăng trầm và đang không ngừng cố gắng để lấy lại hình ảnh là một cường quốc thế giới - người kế tục Liên Xô. Đặc biệt, dưới chính quyền của Tổng thống Vladimir Putin (V.Putin) - vị Tổng thống thứ hai của Liên bang Nga (2000 - 2008), với tiềm năng sẵn có về địa lý tự nhiên, tài nguyên, dân số... và bằng hàng loạt các biện pháp cải cách được tiến hành trong mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội đến an ninh, quân sự, ngoại giao, Liên bang Nga đã từng bước tăng cường sức mạnh 3
  6. quốc gia và vị thế quốc tế của mình. Từ một nước Nga hỗn loạn với một nền kinh tế lạc hậu, nền chính trị rệu rã và quân sự bị thách thức nghiêm trọng, chính quyền Tổng thống V.Putin đã vực dậy Liên bang Nga để trở thành một nước Nga tự tin tiến bước trên con đường phát triển. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, để đạt được những thành công như vậy, chính quyền Tổng thống V.Putin đã có những bước điều chỉnh các chính sách của quốc gia một cách đúng đắn, kịp thời. Ngay sau khi trở thành quyền Tổng thống Liên bang Nga tháng 12 năm 1999, V.Putin ra chỉ thị số 24 ngày 10/01/2000 phê duyệt “Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga”. Văn kiện này là hệ thống các quan điểm chính trị cơ bản trong chính sách của nhà nước Liên bang Nga về bảo đảm an ninh cho cá nhân, xã hội và nhà nước, bảo vệ đất nước trước những mối đe dọa từ bên ngoài và bên trong trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga năm 2000 đã được sử dụng làm cơ sở hoạch định chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước Liên bang Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin nhằm nâng cao nội lực cũng như ảnh hưởng của Liên bang Nga trên trường quốc tế khi bước vào thế kỷ XXI. Cũng trong giai đoạn Tổng thống V.Putin lãnh đạo nước Nga, quan hệ hợp tác giữa Liên bang Nga với Việt Nam đã có những thay đổi tích cực. Sau một thời kỳ ngưng trệ do hậu quả của việc Liên Xô tan rã, với những điều chỉnh trong các chính sách của chính quyền Tổng thống V.Putin, quan hệ với Việt Nam đã dần phục hồi và có những bước phát triển tốt đẹp. Trước nhiều biến động phức tạp của tình hình thế giới, hai nước đều đang tiếp tục tiến hành các biện pháp cải cách trên mọi lĩnh vực cả đối nội và đối ngoại. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường quan hệ đối tác chiến lược đã được khẳng định vào năm 2001 có ý nghĩa quan trọng đối với cả Liên bang Nga và Việt Nam góp phần vào việc duy trì môi trường hòa bình, ồn định nhằm củng cố, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. 4
  7. Xuất phát từ vị trí quốc tế của Liên bang Nga trong quá khứ, hiện tại và tương lai, từ ý nghĩa của mối quan hệ Việt - Nga cùng với mong muốn tiếp tục phát triển mối quan hệ ấy, việc nghiên cứu tình hình, chính sách đối nội và đối ngoại cũng như những thay đổi lớn lao của đất nước này, đặc biệt dưới chính quyền Tổng thống V.Putin 2000 - 2008 có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đối với Việt Nam. Nghiên cứu về nước Nga sẽ góp phần nhận thức đúng đắn những thay đổi trong tình hình mọi mặt của Liên bang Nga, chính sách qua các thời kỳ Tổng thống cũng như tìm hiểu và xác định những cơ sở từ việc thực thi các chính sách của Liên bang Nga nhằm thúc đẩy mối quan hệ hợp tác với Việt Nam trong những năm tới. Với những lý do trên, tôi đã quyết định lựa chọn đề tài “Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin 2000 - 2008” - văn kiện bao gồm những đường hướng quan trọng nhất trong chính sách của nhà nước Liên bang Nga giai đoạn 2000 - 2008 - làm luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, kể từ khi V.Putin xuất hiện trên chính trường nước Nga với tư cách là vị Tổng thống thứ hai, Liên bang Nga đã khoác lên mình một diện mạo mới, nhiều đổi thay về mọi mặt. Cũng từ thời điểm này, có rất nhiều nghiên cứu xoay quanh nhân vật V.Putin - vị Tổng thống được người dân Nga và thế giới nhìn nhận là đã góp phần quan trọng làm nên những thay đổi đó. Những học giả ở nhiều nước trên thế giới, bằng nhiều thứ tiếng khác nhau đã nghiên cứu về tiểu sử của V.Putin, về con đường đến với cương vị Tổng thống Liên bang Nga, về các chính sách của nhà nước giai đoạn những năm ông cầm quyền và thành quả của những chính sách đó… Ở Việt Nam, những nghiên cứu về Liên bang Nga không phải là mới mẻ. Đây là đề tài mà các nhà nghiên cứu Việt Nam luôn quan tâm, nghiên cứu, phân tích xuất phát từ vị thế của Liên bang Nga trên trường quốc tế cũng như từ vị trí của 5
  8. mối quan hệ Việt - Nga, Nga - Việt trong chính sách của hai nước. Đặc biệt, những năm đầu thế kỷ XXI, trước những thay đổi của nước Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin, các nhà nghiên cứu đã tiếp tục lựa chọn đề tài về nước Nga giai đoạn này và con người của V.Putin nhằm bổ sung thêm vào kho kiến thức về Liên bang Nga qua các thời kỳ lịch sử. Có thể chia những nghiên cứu xoay quanh nhân vật V.Putin theo hai nhóm: Nhóm thứ nhất là những nghiên cứu về Tổng thống V.Putin như các cuốn sách Putin - Sự trỗi dậy của một con người của Trương Dự (2006), Bản lĩnh Putin của Đường Anh Hào - Triệu Anh Ba (2008), Các đời Tổng thống Nga của Leonid Mlechin (2008)… Những tác phẩm này tìm hiểu về tiểu sử của V.Putin, về con đường từ một nhà tình báo KGB đến với cương vị Thủ tướng rồi Tổng thống Liên bang Nga và cũng đề cập đến một số chính sách quan trọng trong những năm lãnh đạo đất nước của Tổng thống V.Putin. Các nghiên cứu đã cho chúng ta thấy được con người từ tính cách, sở thích, bản lĩnh đến con đường sự nghiệp của V.Putin. Nhóm thứ hai là những nghiên cứu về các chính sách của Liên bang Nga và về tình hình mọi mặt của nước Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin. Có thể kể đến các cuốn sách: Nước Nga trước thềm thế kỷ XXI của A.P. Côchétcốp (2004), Chuyển đổi kinh tế thị trường của Liên bang Nga những năm đầu thế kỷ XXI của Nguyễn Đình Hương (2005), Nước Nga trên trường quốc tế hôm qua, hôm nay và ngày mai của Hà Mỹ Hương (2006), Chiến lược đối ngoại của các nước lớn và quan hệ với Việt Nam của Nguyễn Xuân Sơn - Nguyễn Văn Du (đồng chủ biên) (2006), Liên bang Nga trên con đường phát triển những năm đầu thế kỷ XXI của Nguyễn An Hà (chủ biên) (2008), Kinh tế - xã hội Liên bang Nga thời kỳ hậu Xô viết của Nguyễn Thị Huyền Sâm (2009),.. Ngoài ra còn rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí của Nga cũng như trên các tạp chí của Việt Nam: Россия 2004 của Примаков Е., Русская Газета (№ 17/1 - 2005), Россия в 2000 - 2004 годах на пути к государственному капитализму của Радыгин А., Вопросы экономики 6
  9. (№ 4 - 2004), Российские интересы в АТР của М. Титаренко, Азия и Африка (№ 4 - 2005), Kinh tế Liên bang Nga hai thập niên đầu thế kỷ XXI của Nguyễn Văn Tâm, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (Số 44 - 2004), Liên bang Nga những năm đầu thế kỷ XXI: thực trạng và triển vọng của Nguyễn Quang Thuấn, Tạp chí Thông tin đối ngoại (Số 3 - 2006),… Đây là mảng đề tài rất rộng được nhiều nhà nghiên cứu đi sâu phân tích tìm hiểu về các chính sách của Liên bang Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin trong nhiều lĩnh vực, cả đối nội, đối ngoại, từ kinh tế, đến chính trị, ngoại giao… và nêu lên những thay đổi trong các chính sách đó so với các giai đoạn trước. Đồng thời các nghiên cứu cũng nhằm mục đích phác họa bức tranh mọi mặt của đất nước Liên bang Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin để từ đó cho thấy các yếu tố cấu thành nên nội lực quốc gia cũng như vị thế quốc tế của đất nước này trong giai đoạn 2000 - 2008. Có thể thấy rằng đã có rất nhiều nghiên cứu về Liên bang Nga và về Tổng thống V.Putin. Tuy có khác nhau về quy mô công trình, phạm vi nghiên cứu nhưng các nhà khoa học đều thống nhất rằng các chính sách của chính quyền Tổng thống V.Putin đã giúp Liên bang Nga có những thay đổi tích cực về mọi mặt và mặc dù còn rất nhiều khó khăn nhưng nước Nga ngày nay đang ngày càng lấy lại được ảnh hưởng đối với thế giới và khu vực. Liên quan đến văn kiện “Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga” năm 2000, các nhà nghiên cứu phân tích Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga nhằm mục đích làm rõ các chính sách cụ thể trong từng lĩnh vực khác nhau để đi đến khẳng định vai trò quan trọng của văn kiện là cơ sở hoạch định các chính sách của nhà nước dưới chính quyền Tổng thống V.Putin. Luận văn mong muốn bổ sung những nghiên cứu toàn diện về Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga, việc thực thi và những thành quả cũng như những vấn đề còn tồn tại dưới chính quyền Tổng thống V.Putin 2000 - 2008. 7
  10. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga dưới Chính quyền Tổng thống V.Putin. Luận văn sẽ trình bày, phân tích các nội dung sau: - Những nhân tố tác động tới việc hình thành Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga năm 2000. - Nội dung văn kiện “Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga” được công bố kèm theo chỉ thị số 24 ngày 10/01/2000, với các nội dung cơ bản như: vị thế quốc tế và các lợi ích quốc gia của Liên bang Nga; những mối đe dọa đối với an ninh quốc gia cùng các chính sách của nhà nước và việc thiết lập hệ thống thực hiện các chính sách đó nhằm đảm bảo an ninh quốc gia Liên bang Nga. - Việc thực thi và đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược an ninh quốc gia dưới chính quyền Tổng thống V.Putin cũng như những điều chỉnh trong thời kỳ Tổng thống kế nhiệm - Dmitri Medvedev (D.Medvedev). Đồng thời, luận văn cũng phân tích tác động của việc thực thi Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga tới mối quan hệ giữa Liên bang Nga với một số đối tác và quan hệ với Việt Nam trong hai nhiệm kỳ của Tổng thống V.Putin. Về phạm vi nghiên cứu, luận văn tìm hiểu Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin 2000 - 2008. Tuy nhiên để làm rõ hơn Chiến lược an ninh quốc gia trong giai đoạn này, luận văn sẽ phân tích tình hình thế giới, khu vực và Liên bang Nga từ những năm cuối thế kỷ XX. Từ những phân tích trên, luận văn mong muốn trả lời câu hỏi: Nước Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin đã có những thành công và hạn chế gì trong việc bảo vệ an ninh quốc gia để góp phần quan trọng vào việc nâng cao nội lực cũng như vị thế trên trường quốc tế? 8
  11. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Từ các nguồn tài liệu sưu tầm được, luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp logic, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp, hệ thống….Trong đó, phương pháp lịch sử và phương pháp so sánh là chủ yếu. Bằng các phương pháp nghiên cứu, luận văn đã luận giải về sự hình thành, quá trình thực thi và đánh giá kết quả thực hiện Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin, góp phần làm sáng tỏ những điều chỉnh về chiến lược, chính sách và những thay đổi tích cực cũng như những vấn đề còn tồn tại của nước Nga trong những năm đầu thế kỷ XXI. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, luận văn gồm ba chương: * Chƣơng 1 trình bày những nhân tố tác động tới việc hình thành Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin 2000 - 2008. Chương này tập trung phân tích những nhân tố từ tình hình thế giới, tình hình khu vực và nước Nga vào những năm cuối của thế kỷ XX. Đồng thời, cũng đề cập đến nhân tố cá nhân nhà lãnh đạo - Tổng thống V.Putin trong việc hình thành Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga. * Chƣơng 2 giới thiệu những nội dung cơ bản trong văn kiện “Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga” được công bố kèm theo chỉ thị số 24 ngày 10/01/2000 của Tổng thống V.Putin. * Chƣơng 3 phân tích các chính sách cụ thể trong từng lĩnh vực nhằm thực thi Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga và đánh giá về thành tựu, thách thức trong quá trình thực thi đó cũng như tác động tới mối quan hệ giữa Liên bang Nga với một số đối tác, khu vực. Ngoài ra, cũng trình bày về mối quan hệ Nga - Việt trong giai đoạn 2000 - 2008, dưới chính quyền Tổng thống V.Putin. Phần cuối cung 9
  12. cấp một số điều chỉnh của Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga trong giai đoạn sau khi kết thúc nhiệm kỳ Tổng thống của V.Putin. *** Với tất cả những nghiên cứu, phân tích được trình bày, luận văn “Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga dưới chính quyền Tổng thống V.Putin 2000 - 2008” mong muốn trở thành một tài liệu tham khảo cho bạn đọc rộng rãi có quan tâm tới Liên bang Nga cũng như tới mối quan hệ hợp tác giữa hai quốc gia Việt Nam và Liên bang Nga trong quá khứ, hiện tại và tương lai. 10
  13. CHƢƠNG 1 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI VIỆC HÌNH THÀNH CHIẾN LƢỢC AN NINH QUỐC GIA LIÊN BANG NGA DƢỚI CHÍNH QUYỀN TỔNG THỐNG V.PUTIN 2000 - 2008 Chiến lược an ninh quốc gia phản ánh lợi ích của quốc gia - dân tộc đồng thời là công cụ bảo vệ lợi ích đó, là đường lối chỉ đạo việc huy động và phối hợp mọi nguồn lực quốc gia, mọi điều kiện khách quan bên trong và bên ngoài để bảo vệ lợi ích quốc gia, chủ yếu là đảm bảo an ninh, môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển, bảo đảm khẳng định và nâng cao địa vị của nước đó trên trường quốc tế. Để hình thành chiến lược an ninh quốc gia, bất kỳ một quốc gia nào cũng phải xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực cũng như dựa trên thực lực của đất nước và quan điểm lãnh đạo của giới cầm quyền. Tháng 12 năm 1997, Tổng thống B.Yeltsin đã phê duyệt “Học thuyết an ninh quốc gia Liên bang Nga” với nội dung bao gồm các định hướng, nguyên tắc chính của nền chính trị quốc gia, làm cơ sở cho việc tổ chức triển khai các kế hoạch thuộc lĩnh vực bảo đảm an ninh quốc gia. Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước, quốc tế lúc bấy giờ cùng với sự suy giảm uy tín của Tổng thống B.Yeltsin và Chính phủ của ông, văn kiện này đã mất đi vai trò là văn kiện chủ đạo trong việc lãnh đạo đất nước thoát khỏi khó khăn về mọi mặt và tìm lại vị trí xứng đáng trong cộng đồng quốc tế. “Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga” được Tổng thống V.Putin phê duyệt vào tháng 1 năm 2000 có nghĩa là chỉ hơn 2 năm sau khi “Học thuyết an ninh quốc gia Liên bang Nga” của Tổng thống B.Yeltsin được thông qua. Mặc dù vậy, nếu xem xét những nhân tố tác động tới việc hình thành Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga (2000) cần phải xuất phát từ tình hình thế giới, khu vực và tình 11
  14. hình Liên bang Nga suốt thập niên cuối cùng của thế kỷ XX - từ sau khi Liên Xô tan rã. 1.1 Tình hình thế giới Tình hình thế giới những năm cuối thế kỷ XX có nhiều diễn biến phức tạp. Cuối năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, tƣơng quan lực lƣợng quốc tế và trật tự thế giới đã thay đổi căn bản. Cuộc chiến tranh lạnh kéo dài trong nhiều năm giữa hai phe đứng đầu là Liên Xô và Mỹ đại diện cho hai chế độ xã hội khác nhau, một bên là Xã hội chủ nghĩa và một bên là Tư bản chủ nghĩa đã chấm dứt. Một môi trường quốc tế mới được mở ra vừa tạo những cơ hội, vừa tạo những thách thức đối với các nước trên thế giới cũng như đối với Liên bang Nga. Trước hết, chiến tranh lạnh chấm dứt cho thấy xu hướng đối thoại, hợp tác đang thay thế dần xu hướng đối đầu trước kia. Đây là điều kiện thuận lợi để Liên bang Nga cũng như nhiều nước trên thế giới thuộc phe xã hội chủ nghĩa trước đây và các nước đang phát triển hay chậm phát triển mở rộng quan hệ hợp tác trên mọi lĩnh vực với tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, chiến tranh lạnh kết thúc đánh dấu khởi điểm thế giới bước vào một quá trình hình thành trật tự thế giới mới chưa xác định rõ ràng với sự nổi trội của Mỹ. Sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ có cơ hội thực hiện mưu đồ chi phối và bá chủ thế giới. Mỹ tiến hành điều chỉnh các chiến lược quốc gia, chính sách đối nội cũng như đối ngoại nhằm củng cố vị trí siêu cường duy nhất của mình. Với chiến lược toàn cầu, Mỹ đã cho thấy tham vọng mở rộng bá quyền khắp thế giới, từ Âu sang Á nhằm xây dựng một trật tự thế giới mới do Mỹ đứng đầu. Bên cạnh một siêu cường - nước Mỹ, vũ đài chính trị quốc tế còn ghi nhận sự nổi lên của một Liên minh Châu Âu (EU) với cố gắng ổn định và đẩy mạnh liên kết 12
  15. để phát triển, một Đông Á với Nhật Bản vẫn tiếp tục phát triển, Trung Quốc, Hàn Quốc đang trên đà đi lên như vũ bão, Ấn Độ như một ẩn số khó dự đoán… và một nước Nga với rất nhiều kế thừa và cả gánh nặng từ Liên Xô đang từng bước khắc phục những khó khăn để cố gắng vươn mình tìm lại vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, quan hệ lợi ích và sự nảy sinh mâu thuẫn lợi ích giữa các nước lớn diễn biến đầy phức tạp: Quan hệ Trung - Mỹ nhiều lúc căng thẳng, có lúc dịu đi xung quanh vấn đề Đài Loan; quan hệ Nga - Nhật về tranh chấp quần đảo Kurin; thái độ khác nhau của các nước lớn về vấn đề hai miền Triều Tiên và vấn đề hạt nhân ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên; vấn đề tranh chấp Biển Đông,.v.v. [23, tr. 35]. Mặt khác, các nước lớn lại cần hợp tác với nhau. Các quan hệ tay đôi như Mỹ - Trung, Mỹ - Nga, Nga - Trung, Trung - Nhật, Nhật - Nga, Trung - Ấn, Mỹ - Ấn, Ấn - Nga, các quan hệ tay ba như Mỹ - Nhật - Trung, Mỹ - Nhật - Nga,…đan xen nhau, trong đó có những quan hệ đồng minh, đối tác và đối thủ, hợp tác và cạnh tranh, kiềm chế và tiếp xúc. Với bối cảnh chính trị thế giới như vậy, hầu như các nước, đặc biệt là các nước lớn đều có sự thay đổi căn bản hoặc điều chỉnh với mức độ lớn các chiến lược, chính sách quốc gia của mình. Đây cũng chính là việc mà Tổng thống V.Putin đã làm với nước Nga trước những biến động chung của thời đại. Việc hoạch định chiến lược của các quốc gia còn chịu sự chi phối bởi những xu hướng phát triển của kinh tế thế giới và các khu vực. Những xu hướng lớn của nền kinh tế thế giới từ cuối thế kỷ XX là toàn cầu hóa kinh tế, tự do hóa thƣơng mại, những tiến bộ vƣợt bậc về khoa học và công nghệ và tác động của chúng đối với kinh tế thế giới hay sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức. Hiện nay, với các xu hướng này, các quốc gia có thể nhanh chóng hội nhập và tiếp cận thị trường thế giới, tiếp cận được những thành quả sáng tạo về khoa học công nghệ, về tổ chức quản lý, về sản xuất và kinh doanh nhằm thúc đẩy cải cách sâu 13
  16. rộng nền kinh tế quốc gia và sự hợp tác khu vực, nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, các nước đều hiểu rằng với những xu hướng đó không chỉ tạo ra những khả năng, địa bàn rộng lớn cho sự phát triển kinh tế mà còn dẫn đến những mâu thuẫn, xung đột, những cạnh tranh gay gắt, những biến động về thị trường, về cung cấp nguyên vật liệu, năng lượng hay những thay đổi đột ngột về tương quan lực lượng kinh tế trên thế giới. Trên bản đồ kinh tế thế giới sau chiến tranh lạnh không thể không nhắc đến nhân tố Mỹ với vị trí đứng đầu thế giới về kinh tế, dẫn đầu trong lĩnh vực khoa học - công nghệ cao. Mỹ vừa là đối tác lớn nhất, thị trường lớn nhất và cũng là đối thủ cạnh tranh lớn nhất của các nước lớn. Giờ đây, sức mạnh kinh tế của Mỹ đang bị cạnh tranh bởi EU, Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ. EU là một siêu cường kinh tế, không thua kém Mỹ về tổng sản phẩm quốc nội (GDP), chỉ số xuất nhập khẩu…, nhưng về vốn vẫn thua kém Mỹ và nhiều mặt quan trọng khác, đặc biệt về khoa học - công nghệ [23, tr. 32]. Trung Quốc - xét riêng trên lĩnh vực kinh tế - có một vị trí rất quan trọng, là một thị trường lớn với khoảng 1,3 tỷ dân, là nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới trong hàng chục năm qua. Nhật Bản vẫn là một người khổng lồ về kinh tế, là một trong ba trụ cột của kinh tế thế giới. Ấn Độ cũng đang có những bước phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là phát triển dịch vụ trong lĩnh vực công nghệ thông tin và các dịch vụ hiện đại. Những trung tâm này đang đe dọa tới vị trí đứng đầu của Mỹ trong nền kinh tế thế giới đồng thời cũng đang cạnh tranh với nhau để củng cố vị thế của mình. Trong cục diện kinh tế thế giới như vậy, để hoạch định được các chiến lược quốc gia, các nước lớn đều nỗ lực tối đa trong việc dự báo những biến động của kinh tế thế giới và những diễn biến về tương quan lực lượng giữa các cường quốc, các khối trong lĩnh vực kinh tế. Trên bản đồ kinh tế thế giới đó, nước Nga chưa thể khắc phục được hết khó khăn để trở thành siêu cường kinh tế song với việc hình thành Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga, Tổng thống V.Putin hướng tới 14
  17. ổn định an ninh kinh tế, ngày càng nâng cao địa vị kinh tế của nước Nga trong tương quan giữa các nước lớn. Trong quá trình hoạch định chiến lược quốc gia, các quốc gia còn phải chú trọng tới các nhân tố như tài nguyên thiên nhiên (đặc biệt là dầu mỏ), tài nguyên chất xám.v.v. Từ những năm cuối thế kỷ XX và trong nhiều thập niên tới, cuộc cạnh tranh để giành giật tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên chất xám còn diễn ra và ngày càng gay gắt hơn. Bên cạnh đó, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ còn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày càng tăng và khó dự đoán. Cục diện thế giới là bất ổn, không thái bình, căng thẳng, luôn xáo trộn với sự bùng nổ của các cuộc chiến tranh, xung đột cục bộ dưới nhiều hình thức, cả về an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống [32, tr. 64]. Đồng thời, thế giới cũng phải đối diện với nhiều nguy cơ gây bất ổn khác. Chủ nghĩa thực dân cũ đã bị sụp đổ lại gia tăng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa ly khai dân tộc, phân biệt chủng tộc và cực kỳ dã man là chủ nghĩa phát xít mới, chủ nghĩa khủng bố. Nạn buôn lậu vũ khí, các tổ chức maphia và tội phạm quốc tế, nạn ô nhiễm môi trƣờng và các dịch bệnh lạ.v.v cũng ngày càng gia tăng trên phạm vi toàn cầu. Những nguy cơ này đang trở thành mối đe dọa lớn đối với hòa bình, an ninh và sự phát triển bền vững của toàn nhân loại. Những đặc điểm tình hình thế giới như vậy có tác động tới tất cả các quốc gia trên thế giới, đòi hỏi các quốc gia đều phải có sự điều chỉnh các chiến lược, chính sách cho phù hợp với tình hình mới. V.Putin phê duyệt Chiến lược an ninh quốc gia Liên bang Nga với mục đích đưa đất nước từng bước khắc phục khó khăn, ổn định tình hình trong nước và hướng tới vị trí xứng đáng trong một trật tự thế giới mới. 1.2 Những xung đột trong Cộng đồng các quốc gia độc lập Ra đời tháng 12 năm 1991, Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) gồm nhiều nước cộng hòa thuộc Liên Xô trước đây được coi như là sự cứu vãn việc sụp 15
  18. đổ của Liên bang Xô viết. Cùng với thời gian, SNG đã có những bước phát triển mới với sự liên kết chặt chẽ hơn, nhất là về kinh tế và an ninh quốc phòng. Tuy nhiên, trong quan hệ giữa các nước SNG vẫn còn tồn tại các cuộc xung đột - tranh chấp phức tạp trên nhiều lĩnh vực. Trước hết phải kể đến vấn đề người Nga ở các nước “cận ngoại biên”. Vấn đề quyền của các dân tộc thiểu số nói chung, người Nga nói riêng ở các nước “cận ngoại biên” đã trở thành nguyên nhân hoặc là một trong những nhuồn gốc quan trọng nhất của phần lớn các cuộc xung đột trong không gian hậu Xô Viết. Nước Nga luôn quan tâm sâu sắc tới vấn đề quyền công dân của những người nói tiếng Nga trong SNG. Do chịu sự phân biệt đối xử ở một số nước SNG, nhiều người Nga đã hồi hương về nước. Chỉ tính riêng năm 1994, dòng người hồi hương đã lên đến gần ba triệu người [10, tr. 88]. Nước Nga mong muốn việc bảo vệ quyền con người và các dân tộc thiểu số trở thành một trong những hoạt động chủ yếu của SNG. Do vậy, đó cũng là một trong những ưu tiên cơ bản trong các chính sách của Nhà nước Liên bang Nga đặc biệt là chính sách đối ngoại. Vấn đề nổi cộm thứ hai tại khu vực này là tranh chấp giữa Nga và Ucraina. Đây là hai nước cộng hòa lớn thuộc Liên Xô, hơn hẳn các quốc gia mới khác về dân số, tiềm lực kinh tế và sức mạnh quân sự. Quan hệ giữa hai nước này chứa đựng nhiều yếu tố bất lợi nhất cho xu hướng liên kết SNG mà tập trung là vấn đề xử lý kho vũ khí hạt nhân ở Ucraina, vấn đề Krym với hạt nhân là cảng Sevastopol và hạm đội Biển Đen. Đây chính là ngòi nổ cho sự xung đột giữa hai quốc gia. Tuy nhiên, do những khó khăn về kinh tế, sự bất ổn về chính trị và nhiều vấn đề phức tạp khác trong tình hình khu vực đặc biệt là chiến lược mở rộng của Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO), các nước SNG nói chung, Nga và Ucraina nói riêng đã có những nhượng bộ nhất định trong chiến lược và chính sách của từng quốc gia hướng tới cải thiện mối quan hệ giữa các nước. 16
  19. Một điểm nóng nữa trong khu vực chính là vùng Kavkaz. Vì đây là địa bàn chiến lược quan trọng đối với cả Nga và các nước phần châu Á của Liên Xô, là cửa ngõ đi vào thế giới đạo Hồi, nên ở đây có nhiều nước tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào các xung đột (Ví dụ như xung đột giữa Azerbaijan và Armenia ở Nargonoi Karabakh, xung đột giữa Abkhazia đòi độc lập với Gruzia, giữa Chechnya muốn tách khỏi Liên bang Nga…). Do vậy, việc giải quyết xung đột ở khu vực này trở nên vô cùng phức tạp và luôn được sự quan tâm của các quốc gia. Sự mất ổn định trong SNG rõ ràng còn lâu dài và vai trò của Liên bang Nga thực sự quan trọng trong việc giảm thiểu phạm vi và kiềm chế xung đột trong những giới hạn nhất định. Đó cũng chính là mong muốn của nước Nga được thể hiện trong việc hoạch định các chiến lược quốc gia của mình với mục đích vì một nền hòa bình chung trong không gian hậu Xô Viết. 1.3 Khó khăn chồng chất trong nƣớc Sau khi Liên Xô sụp đổ, Liên bang Nga là quốc gia kế thừa chủ yếu Liên Xô với 70% lãnh thổ, 61% dân số, 70% ngoại thương, 60% công nghiệp, 90% dầu khí, 70% lực lượng quân sự, 80% kho vũ khí hạt nhân và 10/17 nhà máy điện hạt nhân [20, tr. 16]. Ngoài ra, Liên bang Nga còn nhanh chóng kế thừa quyền lợi và nghĩa vụ của Liên Xô trên tất cả các bình diện. Phương Tây và các nước lớn cũng tiếp nhận quy chế Liên bang Nga với tư cách là quốc gia kế tục Liên Xô, mà trước hết là chuyển giao cho nước Nga chiếc ghế Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Và chỉ đến tháng 1 năm 1992, tức là rất nhanh sau khi Liên Xô tan rã, đã có 131 nước trên thế giới công nhận nước Nga, còn các Đại sứ của Liên Xô được thừa nhận là Đại sứ Nga mà không cần chuyển giao đặc nhiệm - trao lại ủy nhiệm thư [22, tr. 10]. Tuy nhiên, trong thực tế, những năm cuối của thế kỷ XX, Liên bang Nga chỉ được biết đến với tư cách là một “quốc gia hạng hai” cùng hàng loạt các khó khăn chồng chất về nhiều mặt. 17
  20. * Về chính trị Nền chính trị Liên bang Nga vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XX có đặc điểm nổi bật là sự mất ổn định và sự đối đầu tranh giành quyền lực giữa các thế lực. Năm 1991, sau cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên, B.Yeltsin đã đắc cử Tổng thống với 57% số phiếu bầu. Và cũng từ đó, cuộc tranh giành quyền lực diễn ra gay gắt trong chính quyền mới của nước Nga. Mâu thuẫn giữa lực lượng của Tổng thống B.Yeltsin (chủ trương thiết lập thể chế nhà nước Cộng hòa tổng thống) với lực lượng do Chủ tịch Xô Viết tối cao R.Khasbulatov và Phó Tổng thống A.Ruskoi đứng đầu (chủ trương thiết lập thể chế Cộng hòa nghị viện), được đẩy đến đỉnh điểm là cuộc xung đột vũ trang vào tháng 9 năm 1993. Cuối cùng, phe nhóm của Tổng thống B.Yeltsin đã giành thắng lợi. Ngày 12 tháng 12 năm 1993, Tổng thống B.Yeltsin tổ chức trưng cầu dân ý, thông qua Hiến pháp và bầu Quốc hội mới. Với chế độ cộng hòa tổng thống và Quốc hội gồm hai viện là Thượng viện (Hội đồng liên bang) và Hạ viện (Đuma quốc gia), quyền lực tập trung chủ yếu trong tay Tổng thống, trực tiếp chỉ huy các Bộ Quốc phòng, An ninh, Ngoại giao, Nội vụ. B.Yeltsin đã dàn xếp với các lực lượng chính trị, ký kết thỏa ước cam kết không dùng vũ lực để giành chính quyền. Tổng thống tiến hành thay đổi, đưa một số người có quan điểm cải cách ôn hòa vào chính phủ để giảm bớt sức ép của phe đối lập đối với chính phủ và Tổng thống. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của tình hình kinh tế và việc đưa quân vào Chechnya (12- 1994), uy tín của Tổng thống và chính phủ sụt giảm nghiêm trọng. Trong nội bộ chính phủ và giữa các phe phái diễn ra sự phân hóa gay gắt. Tháng 6 năm 1995, Duma ra Nghị quyết bất tín nhiệm chính phủ Chernomyrdin. Để tránh đổ vỡ và một phần do tương quan lực lượng chưa đủ áp đảo, hai bên đã phải đi đến một sự thỏa hiệp. Tổng thống B.Yeltsin phải cách chức Bộ trưởng An ninh, Nội vụ và Bộ trưởng phụ trách các vấn đề dân tộc và chính sách khu vực, còn chính phủ Chernomyrdin được tiếp tục duy trì. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2