
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Bầu không khí tâm lý một số lớp học tại Trường Đại học Sư phạm TP. HCM và biện pháp cải thiện
lượt xem 17
download

Dưới đây là luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Bầu không khí tâm lý một số lớp học tại Trường Đại học Sư phạm TP. HCM và biện pháp cải thiện. Mục đích của luận văn này là nhằm tìm hiểu thực trạng về bầu không khí tâm lý một số lớp học tại trường và đề xuất các biện pháp cải thiện bầu không khí tâm lý lớp học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Bầu không khí tâm lý một số lớp học tại Trường Đại học Sư phạm TP. HCM và biện pháp cải thiện
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu BẦU KHÔNG KHÍ TÂM LÝ MỘT SỐ LỚP HỌC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM VÀ BIỆN PHÁP CẢI THIỆN LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
- LỜI CẢM ƠN Để thực hiện được đề tài nghiên cứu này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Quý Thầy Cô khoa Tâm lý Giáo dục – trường Đại học Sư phạm Tp.HCM đã hướng dẫn tôi trong suốt thời gian học tập đại học, xin chân thành cảm ơn Quý Thầy Cô đã giảng dạy cho lớp cao học Tâm lý học K18 - trường Đại học Sư phạm Tp.HCM , xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Thị Tứ đã hướng dẫn, động viên và tạo điều kiện thuận lợi nhất trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Xin cảm ơn các anh chị cùng khóa học đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như thực hiện luận văn này. Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu
- DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT KÝ HIỆU Ý NGHĨA BKKTL : Bầu không khí tâm lý ĐLC : Độ lệch chuẩn GV : Giảng viên HĐ : Hoạt động P-N-T : Pháp – Nga – Trung R : Hệ số tương quan R.luyện : Rèn luyện Sig : Mức ý nghĩa TB : Trung bình THĐỘ Đ/V : Thái độ đối với TN : Thực nghiệm T-Test : Kiểm nghiệm T Tukey : Kiểm nghiệm Tukey Dấu “.” nằm trong mỗi số liệu : Dấu cách thập phân Dấu “.” trước đầu mỗi số liệu : “0.”
- MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Mục đích cuối cùng của khoa học là nhằm phục vụ cho cuộc sống. Việc nghiên cứu Tâm lý học cũng không nằm ngoài mục đích chung đó. Là một ngành khoa học có tiềm năng ứng dụng hết sức rộng rãi trong mọi ngõ ngách của đời sống xã hội, tâm lý học đang ngày càng được quan tâm nghiên cứu theo hướng do thực tiễn, bởi thực tiễn và vì thực tiễn. Hiện tại, tâm lý học đã được nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực quản lý, kinh doanh, chăm sóc sức khỏe, truyền thông,… và đặc biệt là ứng dụng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo con người. Tại Việt Nam, một trong những yêu cầu lớn và bức thiết của xã hội ngày nay là đổi mới nền giáo dục. Để thực hiện được sự nghiệp đổi mới này, nền giáo dục phải huy động và vận dụng thành tựu nghiên cứu của rất nhiều ngành khoa học khác nhau, từ các ngành khoa học tự nhiên đến những ngành khoa học xã hội và các ngành khoa học đặc thù. Trong đó, một trong những ngành khoa học mà sự nghiệp đổi mới nền giáo dục cần thiết vào bậc nhất chính là tâm lý học. Đây là khoa học nghiên cứu về đời sống tinh thần con người, là đối tượng tác động chính của công tác giáo dục. Muốn góp phần thực hiện được điều đó, tâm lý học phải tìm ra những con đường ứng dụng các thành tựu của mình để phục vụ công cuộc đổi mới ấy. Trong hệ thống giáo dục phổ thông cũng như chuyên nghiệp, tổ chức tế bào quan trọng bậc nhất chính là lớp học – một nhóm xã hội có trình độ tổ chức cao – còn gọi là tập thể lớp học. Trong tập thể đó, rất nhiều hiện tượng tâm lý chung nảy sinh như: trí tuệ tập thể, ý thức tập thể, truyền thống tập thể, dư luận trong tập thể và đặc biệt là bầu không khí tâm lý tập thể. Bầu không khí tâm lý này được nảy sinh từ trong quá trình hoạt động chung của tập thể và khi đã hình thành, nó chi phối ngược lại tính tích cực của mỗi thành viên trong quá trình hoạt động. Vì vậy, việc nghiên cứu những điểm mạnh, những hạn chế và những yếu tố chi phối bầu không khí tâm lý tại một lớp học nào đó sẽ giúp cho người giáo viên cũng như nhà quản lý giáo dục tại nơi đó có thể phát huy hay điều chỉnh nó theo hướng tích cực hơn. Bên cạnh đó, nếu có thể tìm ra hệ thống biện pháp xây dựng bầu không khí tâm lý lớp học thuận lợi thì sẽ kích thích được tinh thần học tập và rèn luyện của từng học sinh – sinh viên, mang đến những hiệu quả rõ rệt cho quá trình dạy học và giáo dục. Hiện tại, đã có một số đề tài nghiên cứu về hiện tượng bầu không khí tâm lý tập thể trong nhiều môi trường khác nhau, đặc biệt là trong các xí nghiệp sản xuất. Tuy nhiên, nghiên cứu về
- bầu không khí tâm lý trong lớp học thì hiện tại chỉ có một vài công trình, nghiên cứu về bầu không khí tâm lý lớp học tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh thì chưa có công trình nào. Song song đó, trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đang thực hiện sứ mạng xây dựng trường trở thành một trong hai trường đại học sư phạm trọng điểm của cả nước, là một trong những ngọn cờ đầu để đào tạo nên những giáo viên có chất lượng nhằm phục vụ quá trình đổi mới giáo dục. Xuất phát từ nhiệm vụ thực tiễn của trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn nghiên cứu khoa học là chưa có công trình nào nghiên cứu về bầu không khí tâm lý lớp học tại cơ sở giáo dục này, người nghiên cứu mạnh dạn lựa chọn đề tài “Bầu không khí tâm lý một số lớp học tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh và biện pháp cải thiện”. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Tìm hiểu thực trạng về bầu không khí tâm lý một số lớp học tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Đề xuất các biện pháp cải thiện bầu không khí tâm lý lớp học. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU: 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Bầu không khí tâm lý một số lớp học tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Các biện pháp cải thiện bầu không khí tâm lý lớp học. 3.2. Khách thể nghiên cứu: 306 sinh viên trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU: 4.1. Bầu không khí tâm lý mỗi lớp học có những nét đặc trưng riêng, tồn tại một số đặc điểm tích cực lẫn tiêu cực do các nguyên nhân bên ngoài và bên trong ảnh hưởng, trong đó, nguyên nhân bên trong là quyết định. 4.2. Bầu không khí tâm lý lớp học có thể cải thiện thông qua việc tác động đến những yếu tố ảnh hưởng đến bầu không khí tâm lý đó.
- 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: 5.1. Làm rõ cơ sở lý luận về: - Bầu không khí tâm lý lớp học. - Các yếu tố ảnh hưởng đến bầu không khí tâm lý lớp học. 5.2. Tìm hiểu thực trạng bầu không khí tâm lý một số lớp học tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 5.3. Đề xuất một số biện pháp nhằm cải thiện bầu không khí tâm lý trong lớp học trên cơ sở các yếu tố ảnh hưởng đến bầu không khí tâm lý trong lớp học đó. 5.4. Thực nghiệm để kiểm tra hiệu quả của một số biện pháp tiêu biểu. 6. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI: 6.1. Về đối tượng nghiên cứu Đề tài chỉ nghiên cứu bầu không khí tâm lý trong một số lớp học tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài không nghiên cứu bầu không khí tâm lý của tất cả các lớp học và không nghiên cứu bầu không khí tâm lý chung của cả trường. Việc đề xuất các biện pháp cải thiện bầu không khí tâm lý tích cực trong lớp học được giới hạn ở mức độ ý tưởng ban đầu, hạn chế về mức độ cụ thể hóa chuyên sâu chi tiết. Việc thực nghiệm chỉ tiến hành với 3 biện pháp tiêu biểu trong các biện pháp trên. 3 biện pháp này phải cụ thể hóa chi tiết. 6.2. Về khách thể nghiên cứu Khách thể nghiên cứu thực trạng: 306 sinh viên trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Việc thực nghiệm chỉ tiến hành mang tính bước đầu với khách thể thực nghiệm là 136 sinh viên trường đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 7. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI: Đề tài sẽ có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn như sau: 7.1. Về mặt lý luận: Làm rõ lý luận về bầu không khí tâm lý nói chung và bầu không khí tâm lý trong lớp học nói riêng.
- Phân tích và chứng minh mối quan hệ giữa các yếu tố ảnh hưởng và tính chất của bầu không khí tâm lý nhóm. 7.2. Về mặt thực tiễn: Góp phần đưa một nội dung quan trọng của tâm lý học xã hội ứng dụng vào thực tiễn giáo dục. Mô tả bức tranh về bầu không khí tâm lý trong một số lớp học tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Đóng góp một số biện pháp cải thiện bầu không khí tâm lý tích cực trong môi trường lớp học.
- CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Thuật ngữ “bầu không khí tâm lý” bắt đầu sử dụng rộng rãi trong tâm lý học xã hội từ những năm 30 của thế kỉ 20 khi các nhà tâm lý học bắt đầu quan tâm nghiên cứu hiện tượng này. Từ đó, thuật ngữ “bầu không khí tâm lý” bắt đầu đi vào nhiều hơn trong các lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là lĩnh vực quản lý, kinh doanh, tổ chức lao động, sư phạm, truyền thông… và được nghiên cứu dưới nhiều góc độ và mức độ khác nhau. Trong các lĩnh vực trên, mảng quản lý là lĩnh vực có nhiều nghiên cứu ứng dụng và tác phẩm viết về bầu không khí tâm lý nhất. Riêng trong lĩnh vực tâm lý học ứng dụng cho ngành sư phạm, các nghiên cứu còn ít và tương đối nhỏ lẻ. Sau đây là khái quát một số công trình nghiên cứu về bầu không khí tâm lý nói chung và bầu không khí tâm lý trong lớp học nói riêng được tiến hành trong và ngoài nước. 1.1.1. Trong nước a. Về nghiên cứu lý luận, các nhà nghiên cứu chủ yếu đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn trong các tác phẩm như: - “Tâm lý học quản lý dành cho người lãnh đạo” [3, tr. 203 – 207], tác giả Nguyễn Bá Dương. Trong tác phẩm này, tác giả đã đưa ra những yếu tố quy định bầu không khí tâm lý tập thể. Đó là: + Môi trường tự nhiên tạo nên chỗ ở, chỗ làm việc + Môi trường tâm lý: mối quan hệ giữa các thành viên trong tập thể. Để tạo một môi trường tâm lý tốt, người quản lý cần phải: + Làm cho các thành viên trong nhóm thấu hiểu nhau. + Hình thành tinh thần tự tôn tập thể, ý thức về nhóm chung. + Hạn chế và giải quyết kịp thời các xung đột trong nội bộ nhóm. - Trong cuốn “Tâm lý học lao động” [35, tr. 86] và cuốn “Tâm lý học quản lý” [33, tr. 13 – 94], tác giả Trần Trọng Thủy đã nghiên cứu theo hướng phân tích các biện pháp nhằm xây dựng
- bầu không khí tâm lý lành mạnh. Trong đó, biện pháp cốt lõi là tích cực ngăn ngừa các xung đột xảy ra giữa các thành viên. Để thực hiện được điều đó, người có trách nhiệm phải: + Lựa chọn các thành viên có phẩm chất đạo đức, có sự tương đồng tâm lý vào cùng một nhóm, đặc biệt là về mục đích làm việc và tính cách cá nhân. + Song song đó, phải sắp xếp cán bộ một cách chính xác, người lãnh đạo cần có cấp phó và người giúp việc phù hợp, vì xung đột hiển nhiên sẽ xảy ra nếu nhưng không có sự nhất trí cao trong phương pháp lãnh đạo. Những xung đột trong bộ máy quản lý sẽ nhanh chóng lâu lan sang tập thể, bởi khi xung đột mỗi người sẽ tìm đến một nhóm người nào đó trong tập thể làm chỗ dựa để ủng hộ quan điểm của mình. + Không chỉ sắp xếp con người, tác giả cũng lưu ý về mặt tổ chức công việc sao cho hợp lý – rõ ràng – có nguyên tắc. Công việc trôi chảy, phối hợp nhịp nhàng, tiền lương tốt thì xung đột ít có điều kiện xảy ra. - Tác giả Lê Ngọc Lan trong tác phẩm “Bầu không khí tâm lý gia đình và việc giáo dục trẻ em” [16, tr. 4] đã khẳng định: Một bầu không khí tâm lý tích cực tạo điều kiện thuận lợi để trẻ em sống trong môi trường đó có một nhận thức lành mạnh – thái độ tốt và thói quen tích cực đối với những người xung quanh. - Ngoài ra, khái niệm về bầu không khí tâm lý cũng được phân tích và mô tả trong các tài liệu chuyên khảo về Tâm lý học xã hội như: + Tâm lý học xã hội [2] của tác giả Vũ Dũng + Tâm lý học xã hội [3] của tác giả Nguyễn Đình Chỉnh, Phạm Ngọc Uyển + Tâm lý học xã hội – những vấn đề lý luận [4] của tác giả Trần Hiệp (chủ biên) cùng một số tác phẩm khác. Trong những tài liệu này, các tác giả đã đúc kết về định nghĩa – cấu trúc cũng như một số yếu tố chi phối đến sự hình thành và phát triển của một bầu không khí tâm lý tập thể. Tuy nhiên, các nội dung còn mang tính chất tổng hợp kinh nghiệm bước đầu, phân tích dưới góc độ như là một trong rất nhiều những hiện tượng tâm lý xã hội. Do đó, chưa có tài liệu phân tích mang tính chuyên sâu và toàn diện. Nhìn chung, đã có những nghiên cứu lý luận trong nước đề cập đến khái niệm bầu không khí tâm lý tập thể. Tuy nhiên, chưa có những nghiên cứu lý luận bài bản, hệ thống và chuyên sâu. b. Về nghiên cứu thực trạng, một số đề tài đã mô tả đặc điểm bầu không khí tâm lý của nhiều nhóm đối tượng mà trong đó đa phần là sinh viên. Chẳng hạn như:
- - Từ năm 1983, tác giả Đỗ Thị Hường đã nghiên cứu “Bầu không khí tâm lý tập thể sinh viên sư phạm mẫu giáo và ảnh hưởng của nó tới tâm trạng cá nhân” [27]. Trong đề tài này, tác giả đã đưa ra khái niệm về bầu không khí tâm lý tập thể và sự tương quan của nó với tâm trạng của từng thành viên trong tập thể đó. Tuy nhiên, đề tài chưa đưa ra các tiêu chí đánh giá một cách toàn diện về bầu không khí tâm lý và mối tương quan giữa bầu không khí chung và tâm trạng riêng của cá nhân chưa thể hiện rõ nét. - Sau đó, trong đề tài tương tự nghiên cứu về “Bầu không khí tâm lý tập thể sinh viên sư phạm mẫu giáo và ảnh hưởng của nó tới tâm trạng cá nhân” [23], tác giả Lê Thị Hân đã khắc phục các khuyết điểm trên và có một cái nhìn tương đối đầy đủ về bầu không khí tâm lý. - Với đề tài “Nghiên cứu bầu không khí tâm lý tập thể ở sinh viên trường cao đẳng sư phạm Ninh Bình” [25], tác giả Trần Đức Hội tiếp cận bầu không khí tâm lý tập thể dưới góc độ xem đó là tổ hợp xu hướng và cảm xúc chung của từng thành viên riêng lẻ trong tập thể. Cách tiếp cận này chưa được toàn diện và hệ thống. Tuy nhiên, đề tài đã đóng góp cho những nhà nghiên cứu một cái nhìn rõ hơn về mối quan hệ giữa cảm xúc và các yếu tố khác trong cấu trúc của một bầu không khí tâm lý tập thể. - Nằm trong nhóm đề tài tìm hiểu về các yếu tố chi phối đến bầu không khí tâm lý tập thể, đề tài “Tìm hiểu ảnh hưởng của phong cách lãnh đạo của hiệu trưởng đối với bầu không khí tâm lý tập thể sư phạm một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh” [5] đã làm sáng rõ mối tương quan nhân quả giữa yếu tố thủ lĩnh – lãnh đạo đối với tâm trạng của từng thành viên và của chung tập thể. Tuy nhiên, do giới hạn nghiên cứu của đề tài, sự ảnh hưởng của người lãnh đạo chưa đặt trong mối quan hệ với rất nhiều các yếu tố ảnh hưởng khác nhằm kiểm soát các yếu tố gây nhiễu lên bầu không khí tâm lý tập thể. - Nghiên cứu một cách toàn diện hơn về các yếu tố chi phối đến tâm trạng chung của tập thể, tác giả Hoàng Đình Châu đã tìm hiểu phương pháp “Xây dựng bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể khoa giáo viên trong các trường đào tạo sĩ quan” [6]. Đề tài đã nêu ra những đặc trưng về hoạt động đào tạo và con người tại khoa giáo viên trong nhà trường quân đội, từ đó phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến bầu không khí tâm lý nói chung và biện pháp tác động đến bầu không khí này. Tuy nhiên, do nghiên cứu trong môi trường quân đội, đề tài quá thiên về yếu tố tuân thủ điều lệnh, chấp hành mối quan hệ cấp trên - cấp dưới mà xem nhẹ yếu tố tình cảm và giao tiếp thân thiện giữa các thành viên.
- - Tương tự, đề tài “Nghiên cứu bầu không khí tâm lý tích cực trong tập thể học viên các trường đào tạo sĩ quan quân đội” [1] của tác giả Trần Đức Long vẫn còn mang nặng tính kỉ luật quân đội, lãnh đạo – cấp dưới trong việc hình thành bầu không khí tâm lý trong tập thể học viên. Tuy nhiên, đề tài có ưu điểm là đã tách bạch được cấu trúc của bầu không khí tâm lý thành hai yếu tố: yếu tố nhận thức và yếu tố thái độ - cảm xúc để khảo sát và phân tích. Nhìn chung, các đề tài nghiên cứu về bầu không khí tâm lý đều được tiến hành trên những đối tượng thuộc hai nhóm môi trường: sư phạm và quân đội. Trong đó, các nghiên cứu trong môi trường sư phạm được đặt dưới góc nhìn mang tính toàn diện hơn, các nghiên cứu trong môi trường quân đội có những đặc trưng riêng. Tuy nhiên, tất cả các đề tài đều chưa đưa ra một hệ thống các yếu tố ảnh hưởng đến bầu không khí tâm lý một cách đầy đủ và cấu trúc. Song song đó, các biện pháp để cải thiện bầu không khí tâm lý còn tương đối ít, mang tính kinh nghiệm và chưa có cách tiếp cận bài bản cũng như việc thực nghiệm còn hạn chế. 1.1.2. Ngoài nước a. Trong tâm lý học phương Tây, hiện tượng “bầu không khí tâm lý tập thể” được nghiên cứu rộng rãi trong các lĩnh vực tâm lý học như: Tâm lý học xã hội, tâm lý học quản lý, tâm lý học kinh doanh, tâm lý học công nghiệp, khoa học hành vi tổ chức… Do đó, nền tâm lý học phương Tây cũng đã tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức nghiên cứu và ứng dụng các kiến thức vào trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Một trong những nghiên cứu đầu tiên được tiến hành trong khoảng thời gian 1924 – 1932, hai nhà tâm lý học người Mỹ là E. Mayo và F. Roethlisberger đã tiến hành nghiên cứu các quan hệ không chính thức và ảnh hưởng của nó đến hiệu quả sản xuất tại các nhóm lao động. Mặc dù chưa đề cập đến bầu không khí tâm lý một cách chính thức nhưng đề tài đã đề cập đến khá nhiều khía cạnh của hiện tượng này, đặc biệt là hệ thống thái độ cảm xúc giữa các thành viên, đó là một cơ sở quan trọng trong cấu trúc bầu không khí tâm lý nhóm. Cũng trong những năm 30 của thế kỉ 20, K. Lewin đã cho ra đời tác phẩm “Một lý thuyết động lực về nhân cách”. Trong tác phẩm này, K. Lewin đã tập trung nghiên cứu quan hệ bên trong nhóm và vai trò của người lãnh đạo, quản lý đối với bầu không khí tâm lý nhóm ở các thời điểm khác nhau. Ông đã chỉ ra tính quy định của phong cách lãnh đạo trong việc tạo ra bầu không khí tâm lý tích cực hoặc tiêu cực trong các nhóm nhỏ và chính K. Lewin là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ bầu không khí tâm lý mà tâm lý học phương Tây hiện nay đang dùng. Như vậy, K. Lewin được xem như người khởi đầu những nghiên cứu chính thức về bầu không
- khí tâm lý của tổ chức và người đầu tiên phát hiện ra quy luật tâm lý về việc phụ thuộc hành vi các nhân vào các mối quan hệ tác động qua lại giữa môi trường hoàn cảnh với tâm lý cá nhân. Các nghiên cứu về bầu không khí tâm lý bắt đầu nở rộ trong tâm lý học phương Tây từ những năm 50 của thế kỉ 20 như công trình của L. Festinger, S. Schater [43], K. W. Back [43], B. E. Colins, B. Raven [43]. Các nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào việc làm rõ ảnh hưởng của bầu không khí tâm lý tập thể đối với hiệu quả sản xuất của tập thể đó. G. Forehand đã nhận định về các nghiên cứu bầu không khí tâm lý của tổ chức là: làm rõ những chỉ số về nhân cách tạo ra bầu không khí tâm lý của tổ chức, tìm ra các phương pháp nghiên cứu thực nghiệm bầu không khí tâm lý của tổ chức; một số nghiên cứu khác hướng vào mối quan hệ phụ thuộc của hành vi vào các yếu tố tâm lý nhân cách và các yếu tố tâm lý nhóm [45, tr 363]. Hiện nay, các nghiên cứu về bầu không khí tâm lý trong tâm lý học phương Tây đang rất phát triển và được tiến hành dưới nhiều góc độ và nhiều hướng ứng dụng như một bộ phận của tâm lý học xã hội, tâm lý học công nghiệp, tâm lý học quản lý… Với các hướng nghiên cứu chủ yếu này, tâm lý học phương Tây đã đưa ra các tiêu chí đánh giá mức độ hình thành, phát triển bầu không khí tâm lý của tổ chức. Các chỉ số sau đây được hầu hết các nhà nghiên cứu sử dụng để lượng hóa bầu không khí tâm lý: + Cơ cấu tổ chức + Khen thưởng trong tổ chức + Sự quan tâm của lãnh đạo đối với thành viên + Giao tiếp thân thiện trong tổ chức + Quan hệ liên nhân cách trong tổ chức + Quan hệ chỉ huy, phục tùng trong tổ chức Hiện tại, bầu không khí tâm lý được nhìn dưới ba góc độ: - Xem bầu không khí tâm lý của tổ chức như là kết quả của sự tác động phức hợp qua lại của các yếu tố trong tổ chức đó. - Xem bầu không khí tâm lý của tổ chức như là yếu tố mang tính nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất. - Xem bầu không khí tâm lý của tổ chức như là yếu tố điều chỉnh, điều khiển hành vi của cá nhân, của nhóm.
- Tóm lại, tâm lý học phương Tây đã có khá nhiều kết quả trong nghiên cứu bầu không khí tâm lý của tổ chức. Các công trình nghiên cứu không những chỉ ra các yếu tố quy định bầu không khí tâm lý của tổ chức mà còn xác định vai trò của bầu không khí tâm lý đối với việc thực hiện các chức năng của tổ chức. Đặc biệt, tâm lý học phương Tây đã có nhiều cố gắng trong việc xác định hệ thống phương pháp nghiên cứu bầu không khí tâm lý của nhóm, tổ chức trong các đơn vị sản xuất cụ thể. Tuy nhiên, do các nghiên cứu xuất phát từ nhiều quan điểm lý luận khác nhau, phương pháp khác nhau nên kết quả nghiên cứu thu được có nhiều mâu thuẫn. b. Trong tâm lý học Mác-xít, các nhà tâm lý học Xô-viết đặc biệt quan tâm đến việc nghiên cứu các hiện tượng tâm lý xã hội từ sau Cách mạng tháng Mười Nga. Nội dung tìm hiểu chính của các công trình là làm rõ nguồn gốc, bản chất, vai trò của những hiện tượng tâm lý xã hội - trong đó có hiện tượng bầu không khí tâm lý tập thể - đối với hoạt động của cá nhân cũng như của nhóm và tập thể nhằm mục đích xây dựng tập thể lao động xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhân cách con người trong chế độ mới. - Năm 1963, ba nhà tâm lý học là E.V.Xô-rô-khô-va, N.C.Man-xu-nốp, K.K.Pla-tô-nốp đã trình bày những kết quả nghiên cứu ban đầu về mối quan hệ qua lại giữa các thành viên trong một tập thể - làm cơ sở cho việc nghiên cứu bầu không khí tâm lý tập thể. - Năm 1966, thuật ngữ “Bầu không khí tâm lý” lần đầu tiên được N.C. Man-xu-rốp sử dụng. Ông đã chỉ ra trong các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động có bầu không khí tâm lý tập thể. N.C. Man-xu-rốp cũng chỉ ra một số con đường để xây dựng một bầu không khí tâm lý tập thể tích cực như tổ chức một môi trường làm việc tốt, chăm sóc đời sống tinh thần cho người lao động, chăm lo đời sống vật chất cho người lao động, sử dụng các biện pháp kích thích động cơ làm việc của tập thể [21, tr. 8]. - Năm 1969, V.M.Sêpel là người đầu tiên đưa ra định nghĩa bầu không khí tâm lý tập thể: “Bầu không khí tâm lý là sắc thái xúc cảm giữa các thành viên trong tập thể. Nó xuất hiện trên cơ sở có sự gần gũi thiện cảm giống nhau về mặt tính cách, hứng thú, xu hướng” [28, tr. 18]. - Những năm kế tiếp, các nhà tâm lý học Xô-viết như E.X.Cu-đơ-min, J.P.Vôn-cốp, O.I.Zô- tô-va, B.V.Sô-rô-khô-va tiếp tục đi sâu nghiên cứu bầu không khí tâm lý tập thể và đạt được nhiều thành tựu [95]. Nhìn chung, các nhà tâm lý học Xô-viết tập trung vào các vấn đề sau:
- - Bản chất của bầu không khí tâm lý tập thể (phản ánh các điều kiện của đời sống tập thể, phản ánh tính chất các mối quan hệ qua lại trong tập thể) - Hình thức biểu hiện (thể hiện thông qua hành vi cư xử, thái độ giao tiếp) - Quá trình hình thành (qua con đường hoạt động và giao tiếp chung) - Những ảnh hưởng trong các lĩnh vực của cuộc sống (lao động sản xuất, giáo dục…) Tóm lại, tâm lý học mác-xít do các nhà tâm lý học Xô-viết nghiên cứu đã có những đóng góp quan trọng trong việc lý giải một cách khá toàn diện hiện tượng bầu không khí tâm lý tập thể trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là đã chỉ ra được đúng bản chất của bầu không khí tâm lý tập thể. 1.2. Cơ sở lý luận 1.2.1. Tập thể: Nghiên cứu tập thể chiếm vị trí quan trọng trong tâm lý học mác-xít vì tập thể là khâu trung gian giữa xã hội và cá nhân. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã xác định rõ: “Thông qua quá trình xây dựng kinh tế xã hội mà đào tạo, rèn luyện con người mới. Muốn tạo nên một tập thể vững mạnh, phải xây dựng từng con người, quan tâm phát triển và bồi dưỡng nhân tài” [4, tr.113]. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phân biệt giữa nhóm và tập thể. Nhóm là một khái niệm rộng hơn tập thể, không phải bất cứ nhóm nào cũng là tập thể. Khi nghiên cứu về nhóm, J.P Chaplin cho rằng: “Nhóm (nhóm xã hội) là sự tập hợp các cá nhân mà ở đó họ có một số đặc điểm chung hoặc cùng theo đuổi một mục đích giống nhau” [41, tr.462]. Tác giả còn nhấn mạnh, nhóm có thể là hai hoặc một số cá nhân mà giữa họ có sự tương hợp với nhau. Theo E.H. Chein: “Nhóm là một cộng đồng của con người mà ở đó các thành viên có sự tương tác lẫn nhau, có sự hiểu biết lẫn nhau và tự ý thức về nhóm của mình” [42, tr.67]. Theo Chein, những đặc điểm quan trọng của nhóm là khả năng tương tác lẫn nhau và khả năng hiểu biết lẫn nhau. Tác giả Nguyễn Đình Chính, Phạm Ngọc Uyển cho rằng: “Nhóm là một cộng đồng người sẽ luôn được thống nhất với nhau về một số dấu hiệu chung, cùng tham gia thực hiện những mục tiêu cụ thể một cách trực tiếp hay gián tiếp theo vai trò của mình và có một thủ lĩnh xác định” [1, tr.85].
- Qua các khái niệm trên, nhìn chung, các nhà tâm lý học xã hội hiểu nhóm là một tập hợp người có quan hệ với nhau, cùng theo đuổi một mục đích chung và có những chức năng, nhiệm vụ khác nhau trong nhóm. Khi nghiên cứu về tập thể, A.G. Côvaliốp cho rằng: Tập thể là một khối cộng đồng người nhằm thực hiện những mục đích có ý nghĩa xã hội. Những mục đích này có thể có tính chất hành chính – Nhà nước, tính chất sản xuất, khoa học, học tập, thể thao v.v. [12, tr148]. Theo tác giả Trần Trọng Thủy: “Tập thể là một nhóm người, một bộ phận xã hội thống nhất bằng những mục đích chung trong sự hoạt động phối hợp cùng nhau. Tập thể chỉ có được với điều kiện là nó thống nhất được mọi người trên những nhiệm vụ hoạt động và hoạt động ấy phải có ích cho xã hội” [35, tr84]. Trong cuốn: “Những khía cạnh tâm lý của công tác cán bộ”, tác giả Nguyễn Hải Khoát viết: “Tập thể là một nhóm người có tổ chức chặt chẽ, thống nhất theo một mục đích chung và đang hoạt động, phục vụ xã hội” [11, tr.176]. Cuốn “Một số vấn đề tâm lý học trong quản lý sản xuất” đưa ra khái niệm cụ thể về tập thể lao động và cho rằng: “Tập thể lao động là một tập hợp nhiều người lao động trong một tổ chức chặt chẽ nhằm những mục đích chung, có những mục tiêu và nhiệm vụ thống nhất, có sự nhất trí về tư tưởng, chính trị và đạo đức, có kỷ luật lao động tập thể, tự giác, có sự lãnh đạo thống nhất từ trên xuống dưới, có sự quản lý chặt chẽ về mọi mặt lao động sản xuất và sinh hoạt tập thể” [39, tr.63]. Đồng ý với tác giả Trần Trọng Thủy, người nghiên cứu đưa ra định nghĩa về tập thể như sau: Tập thể là một nhóm người có tổ chức chặt chẽ, quan hệ với nhau nhằm thực hiện mục đích chung, cùng thống nhất trong hoạt động nhằm mang lại lợi ích cho xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích của mỗi người. Tập thể có những chức năng cơ bản là chức năng nghiệp vụ, chức năng xã hội – chính trị, và chức năng giáo dục và có những đặc trưng cơ bản như sau: a. Mục đích hoạt động của tập thể mang ý nghĩa xã hội. Tập thể là những nhóm người có tổ chức tương đối ổn định, bền vững , được hình thành trên cơ sở xã hội quy định. Những nhóm xã hội chỉ trở thành tập thể khi nó không bó mình lại vì mình mà đem hoạt động của mình phục vụ những mục đích và lợi ích cộng đồng, xã hội. Tuy nhiên, muốn trở thành mộ tập thể chân chính, phát huy được sức mạnh sáng tạo, sáng kiến và
- năng lực của mỗi thành viên để phấn đấu vì lợi ích có ý nghĩa xã hội thì những mục tiêu của tập thể đặt ra phải được từng thành viên lĩnh hội, tạo nên sự thống nhất với nhau về mục đích chung, giữa lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân. b. Có tổ chức chặt chẽ, hoạt động mang tính kế hoạch cao Với tư cách là một tổ chức, hoạt động của tập thể không diễn ra một cách tùy tiện, mù quáng mà nó đòi hỏi có tính kế hoạch cao, có mối lien hệ hữu cơ, sự phối hợp chặt chẽ giữa các thành viên trong tập thể. Muốn đạt được điều đó, trong tập thể phải có người lãnh đạo. Thông qua hoạt động của người lãnh đạo mà hướng sự nỗ lực của mọi người vào việc thực hiện các mục tiêu của tập thể, tạo điều kiện vật chất, tinh thần để thực hiện kế hoạch, đồng thời đưa hoạt động của tập thể đi vào nề nếp. c. Trong tập thể phải có kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh. Kỷ luật là một điều kiện cơ bản để xây dựng tập thể và để cho nó tồn tại. kỷ luật tạo ra một trật tự nhất định trong hoạt động của mọi người. Trình độ kỷ luật của một tập thể không chỉ đơn giản là sự tuân thủ tuyệt đối của người dưới quyền mà nền tảng của nó là sự ý thức về nghĩa vụ đối với xã hội, tinh thần trách nhiệm trước tập thể, thói quen thực hiện nghiêm túc những quy định của tập thể ở mỗi thành viên. d. Quan hệ của mỗi thành viên được xây dựng trên tinh thần đồng đội, sự phục thuộc lẫn nhau về trách nhiệm xã hội. Nét nổi lên trong quan hệ giữa các thành viên là tinh thần đoàn kết, hiệp đồng, sự quan tâm lẫn nhau, đòi hỏi cao ở nhau nhằm thực hiện tốt mục đích hoạt động của tập thể và đảm bảo cho sự phát triển toàn diện của của mỗi thành viên. “Quan hệ tập thể là sự phối hợp hiệp đồng tạo ra những khả năng và sức mạnh mới vượt xa sức mạnh của tất cả các thành viên cộng lại. quan hệ tập thể được biểu hiện tập trung ở bầu không khí chính trị, đạo đức và tâm lý lành mạnh, ở tính chất dân chủ nội bộ và tín nhiệm của người chỉ huy, lãnh đạo. thành công của công tác giáo dục chính trị phần lớn phụ thuộc vào chỗ, những quan hệ nào đang hình thành trong tập thể, bầu không khí nào đang ngự trị trong đó” [55, tr.320] e. Trong lòng tập thể có sự nảy sinh và phát triển những hiện tượng tâm lý xã hội đặc trưng. Mỗi tập thể đều được đặc trưng bởi một loạt đặc điểm tâm lý của mình. Tâm lý tập thể là một mặt đời sống tinh thần của tập thể, do vậy, một mặt nó phản ánh những điều kiện sống
- chung, mặt khác nó phản ánh những điều kiện sống và hoạt động riêng của tập thể, phong cách lãnh đạo… Đặc trưng tâm lý của mỗi tập thể được biểu hiện tập trung ở tâm trạng xã hội của tập thể, dư luận tập thể, truyền thống tập thể và nhìn chung là bầu không khí tâm lý tập thể. Các tập thể không xuất hiện ngay mà phải qua một quá trình hình thành và phát triển. Điều này có nghĩa là tập thể không dừng tại chỗ, chúng vận động, phát triển, trưởng thành phụ thuộc vào những điều kiện bên ngoài và những điều kiện bên trong, vào hoàn cảnh khách quan và chủ quan của tập thể. Khi nghiên cứu sự phát triển của tập thể, các nhà tâm lý học đều xuất phát từ nguyên lý phát triển của triết học Mác – Lênin: Đó là quá trình vận động từ đơn giản đến phức tạp, quá trình có những biến đổi về chất và là quá trình luôn giải quyết mâu thuẫn nội tại. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về giai đoạn và trình độ phát triển của tập thể. Quan niệm thứ nhất, chia sự phát triển của tập thể thành ba giai đoạn. Tiêu biểu cho quan niệm này là các tác giả cuốn “Tâm lý học quân sự” [14, tr.259-260]. Mai Hữu Khuê [11, tr.97- 98]. Quan niệm thứ hai, người đại diện là A.B. Pêtrốpxki [(dẫn theo) 26, tr.44], ông đã dựa trên “ Quan điểm tầng bậc của tính tích cực nhóm”. Theo quan điểm này nhóm gồm có ba tầng, mỗi tầng được đặc trưng bởi một nguyên tắc xác định, trong đó các mối quan hệ giữa các thành viên được hình thành. Quan niệm thứ ba, phân chia sự phát triển của tập thể ra làm bốn giai đoạn. Đại diện cho quan niệm này là A.G. Kôvaliov và trong nước là Bùi Văn Huệ: giai đoạn thứ nhất là giai đoạn tổng hợp sơ cấp hoàn thành việc lựa chọn các thành viên, bố trí họ vào các vị trí công tác; giai đoạn hai là cấu trúc hóa hay phân hóa; giai đoạn ba là giai đoạn tổng hợp thật sự hay hợp nhất mọi người vào trong tập thể, giai đoạn bốn là giai đoạn yêu cầu tối đa đối với bản thân mỗi người trên nền tảng yêu cầu của tập thể. Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về giai đoạn phát triển của tập thể, tuy nhiên sự phân chia này chỉ mang tính chất ước lệ vì sự phát triển của tập thể là sự phát triển liên tục. Mỗi giai đoạn đánh dấu sự chin muồi của các quan hệ xã hội, trình độ phát triển, mức độ đoàn kết và trình độ tổ chức khoa học của tập thể. Nghiên cứu các giai đoạn phát triển của tập thể giúp chúng ta thấy được đặc điểm ở từng giai đoạn, từ đó có một phương pháp lãnh đạo, quản lý thích hợp. Đặc
- biệt là từ mõi giai đoạn phát triển của tập thể sẽ thấy được bầu không khí tâm lý thể ứng với mỗi giai đoạn đó. 1.2.2. Tập thể lớp học Lớp học là một dạng tập thể học viên trong nhà trường, được tập hợp và tổ chức theo một tiêu chí nhất định và các thành viên có mối quan hệ với nhau nhằm thực hiện mục đích học tập và rèn luyện, mang lại lợi ích cho xã hội, lợi ích chung cho lớp học và lợi ích cho từng học viên. Tập thể lớp học có những đặc trưng cơ bản như sau: a. Lớp học hoạt động vì mục đích chung: học tập và rèn luyện Lớp học là những nhóm học viên có tổ chức tương đối ổn định, bền vững, được hình thành theo tiêu chí độ tuổi, trình độ học vấn, chuyên ngành.v.v.. Lớp học được xã hội hình thành với mục đích rèn luyện các phẩm chất và năng lực cho học viên nhằm phục vụ cho các nhu cầu chung của xã hội. Mục đích học tập đó được cả lớp học lĩnh hội, tạo nên sự thống nhất với nhau về mục đích chung, giữa lợi ích lớp học và lợi ích học viên. b. Lớp học có tổ chức chặt chẽ, hoạt động mang tính kế hoạch cao Thành viên của lớp học mang tính ổn định, hoạt động có tính kế hoạch cao, giữa các thành viên có sự phối hợp trong việc hoàn thành các nhiệm vụ học tập và rèn luyện. Ngoài ra, trong tập thể lớp học có người chịu trách nhiệm tổ chức lớp – tức ban cán sự. Ngoài ra, còn có các thủ lĩnh không chính thức, các tổ chức đoàn thể như Chi Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chi Hội Sinh viên Việt Nam. Thông qua hoạt động của các cá nhân hoặc ban lãnh đạo mà tập thể hướng sự nỗ lực của các thành viên vào việc thực hiện các mục tiêu học tập và rèn luyện, đưa hoạt động của lớp học đi vào nề nếp. Lớp học có sự đồng nhất tương đối về lứa tuổi, trình độ học vấn, vốn kinh nghiệm sống… tồn tại cùng nhau một cách liên tục và khá ổn định. Do đặc điểm này mà lớp học được tổ chức một cách hệ thống, có nội dung thiết thực và hiệu quả. c. Lớp học có nội quy, kỷ luật của lớp Dựa trên các chuẩn mực của tập thể (kỉ luật, nề nếp, truyền thống) thành văn hoặc bất thành văn, dựa trên mục đích hoạt động chung, tập thể lớp học đưa ra các đánh giá, thái độ chung đối với các hành vi, hành động của mỗi người. Thông qua đó, tập thể lớp học điều chỉnh hành vi của
- mỗi học viên đồng thời nó giúp cho các thành viên hiểu biết nhau hơn, tạo điều kiện cho việc thống nhất nhận thức, tình cảm và ý chí trong tập thể. Tiếp thu từ nội quy nhà trường, tập thể lớp học tuân theo các quy định về những hoạt động diễn ra trong lớp học. Trong đó, các nội quy chủ yếu quy định nhiệm vụ và quyền lợi của từng thành viên về thái độ học tập - rèn luyện, ứng xử đối với giáo viên và ứng xử với nhau… tạo ra một trật tự nhất định trong hoạt động của mọi người. Trình độ kỷ luật của một lớp học phụ thuộc vào nền tảng ý thức của mỗi người và về nghĩa vụ đối với tập thể, tinh thần trách nhiệm trước cả lớp, thói quen thực hiện nghiêm túc những quy định của nhà trường và lớp học ở mỗi thành viên. d. Quan hệ của mỗi học viên được xây dựng trên tinh thần đồng đội, sự phụ thuộc lẫn nhau về trách nhiệm học tập và rèn luyện Nét nổi lên trong quan hệ giữa các thành viên chính là tình bạn đồng môn, song song đó là tinh thần đoàn kết trong lớp học luôn được đề cao. Ngoài ra, sự đòi hỏi cao ở nhau nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ mà nhà trường - thầy cô hoặc đoàn thể cấp trên giao phó càng làm cho các thành viên gắn kết với nhau hơn. Quan hệ tập thể lớp học còn được biểu hiện ở tính chất dân chủ nội bộ, sự phân công nhiệm vụ và sự giúp đỡ lẫn nhau, sự tín nhiệm các thủ lĩnh hoặc người lãnh đạo và có truyền thống riêng của từng lớp học. e. Trong lòng lớp học có những hiện tượng tâm lý xã hội đặc thù Lớp học là một nhóm xã hội có tổ chức cao. Do đó, những hiện tượng tâm lý diễn ra trong lớp học sẽ tuân theo các quy luật tâm lý nhóm. Song song đó, mỗi lớp học có một đặc trưng riêng trong nhận thức – thái độ và ý chí hành động đối với các sự kiện, hoạt động diễn ra trong lớp học, phản ánh tính cách, trình độ, xu hướng, phong cách lãnh đạo… trong lớp học đó. Những đặc trưng tâm lý này được biểu hiện trong tâm trạng của lớp học, truyền thống lớp học hay dư luận trong lớp học và thể hiện tập trung ở bầu không khí tâm lý lớp học. Sự phát triển của lớp học diễn ra theo các giai đoạn sau: Giai đoạn các học viên bắt đầu tập hợp theo những tiêu chí nhất định như độ tuổi, trình độ học vấn, , ở giai đoạn này những đòi hỏi về nội dung, hoạt động, kế hoạch làm việc, những yêu cầu về kỷ luật, đạo đức căn bản đều xuất phát từ người lãnh đạo – là người giảng viên đứng lớp, là giáo viên chủ nhiệm hoặc người được nhà trường phân công quản lý. Do ảnh hưởng của những yêu cầu này, trong lớp học chỉ mới hình thành được mối quan hệ bên ngoài giữa các
- thành viên và vì vậy nó chưa biến thành nhu cầu riêng của mỗi cá nhân. Các thành viên có mức độ sẵn sàng khác nhau trong việc thực hiện chức năng của mình. Tuy nhiên số người có ý thức đầy đủ sẽ sớm nhận thức và ủng hộ yêu cầu của người lãnh đạo và từ đó sẽ ảnh hưởng đến các học viên khác dẫn đến hiện tượng lây lan thái độ thiện chí đối với hoạt động học tập và rèn luyện, tạo điều kiện cho lớp học chuyển sang giai đoạn sau. Giai đoạn thứ hai, do ảnh hưởng từ các yêu cầu của người giảng viên hoặc người tổ chức lớp, lớp học mới hình thành sẽ phân hóa thành một số phân nhóm khác nhau như: nhóm tích cực chủ động, gồm những người ý thức nhất liên kết thành đội ngũ cán sự hoặc thủ lĩnh của lớp. Họ ủng hộ các yêu cầu của giảng viên, tích cực thực hiện nó và còn đòi hỏi những người khác thực hiện nhiệm vụ hoạt động của lớp học. Bênh cạnh đó là nhóm thụ động lành mạnh, các học viên này sẵn sàng thực hiện các yêu cầu đề ra, nhưng bản thân không tỏ ra có sáng kiến mà luôn ở tâm thế thụ động chờ đợi. Kế tiếp là nhóm thụ động tiêu cực, các học viên này dửng dưng với lợi ích của lớp học, tỏ ra thờ ơ với các mục tiêu và nhiệm vụ của lớp học, với yêu cầu của giảng viên hay ban cán sự lớp. Họ thường có tâm thế lảng tránh nhiệm vụ, trốn tránh trách nhiệm. Cuối cùng là nhóm tiêu cực chống đối, nhóm này gồm các học viên tích cực chống đống các yêu cầu của giảng viên hay cán sự lớp, chủ động lôi kéo các thành viên khác vào hàng ngũ chống đối. Trong giai đoạn này, thái độ đối với nhiệm vụ lớp học là chỉ số xác định các phân nhóm. Nhóm cốt cán nòng cốt đóng vai trò ngày càng lớn trong việc hình thành những dư luận xã hội của lớp học, trong việc ủng hộ những hoạt động của người lãnh đạo, thúc đẩy lớp học phát triển. Giảng viên hoặc người quản lý lớp phải biết cách dựa vào đội ngũ cốt cán, những người chủ động tích cực ủng hộ những yêu cầu của mình để tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm lành mạnh chuyển hóa thành nhóm tích cực chủ động. Với nhóm tiêu cực thì phải có biện pháp xử lý mạnh mẽ để làm họ chuyển hóa từ tâm trạng đối lập sang chiều hướng hòa đồng. Tóm lại giai đoạn này người giảng viên hoặc quản lớp phải có cách sử dụng khác nhau đối với mỗi thành viên tùy theo chỗ con người đó đang thuộc phân nhóm nào. Trên cơ sở đó sẽ giúp cho lớp học chuyển hóa sang giai đoạn phát triển mới. Giai đoạn thứ ba, tuyệt đại đa số đều có thái độ tích cực đối với các nhiệm vụ học tập và rèn luyện của lớp học, quan hệ giữa các học viên cũng trở nên tích cực và chủ động hơn, giảm bớt sự cách biệt rõ giữa các nhóm, “phe phái”. Trogn giai đoạn này, bầu không khí tâm lý đạo đức lành mạnh đã được hình thành, những ý kiến xã hội bắt đầu thiể hiện những yêu cầu cơ bản của lớp học đối với từng cá nhân. Toàn bộ lớp học đều đề ra và thống nhất các yêu cầu, giữa

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Cách thức ứng phó trước những khó khăn tâm lý của học sinh trung học phổ thông thành phố Hồ Chí Minh
78 p |
402 |
100
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhu cầu tham vấn tâm lí của học sinh THPT huyện Xuyên Mộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
92 p |
525 |
98
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Khó khăn tâm lý trong công tác tham vấn học đường tại thành phố Hồ Chí Minh
82 p |
524 |
82
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
107 p |
459 |
79
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhu cầu tham vấn tâm lý của nhân viên văn phòng tại doanh nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh
119 p |
365 |
54
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhận thức và thái độ của người lao động về vấn đề tư vấn tâm lý trong doanh nghiệp
93 p |
345 |
51
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Áp lực tâm lý và cách ứng phó của trẻ lao động sớm tại một số quận nội thành thành phố Hồ Chí Minh
197 p |
302 |
49
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên năm thứ nhất trường Sĩ quan Lục quân 2
133 p |
321 |
46
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Bầu không khí tâm lý của lớp học tại trường Đại học An ninh Nhân dân
178 p |
241 |
43
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhu cầu tham vấn tâm lý của công nhân khu chế xuất Tân Thuận tại TP. Hồ Chí Minh
106 p |
176 |
39
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Một số phẩm chất tâm lý cơ bản của hướng dẫn viên du lịch
103 p |
201 |
33
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nhận thức, thái độ về an toàn tình dục của nữ thanh niên công nhân khu công nghiệp Sóng Thần tỉnh Bình Dương
143 p |
194 |
30
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: So sánh một số khái niệm trong Tâm lý học và Duy thức học
67 p |
176 |
30
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Một số khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của học viên Phân viện miền Nam, Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam
103 p |
180 |
25
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Một số phẩm chất tâm lý cơ bản của chuyên viên nhân sự
124 p |
178 |
22
-
Luân văn Thạc sĩ Tâm lý học: Kỹ năng sử dụng Internet trong học tập môn Tâm lý học của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Bà Rịa- Vũng Tàu
115 p |
170 |
19
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Năng lực quản lý nhân sự của giám đốc doanh nghiệp nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh
104 p |
156 |
19
-
Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Kỹ năng tự đánh giá của thiếu niên đang sống tại các Trung tâm Bảo trợ Xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
117 p |
136 |
15


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
