intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nghiên cứu tự đánh giá của sinh viên Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh về phẩm chất nghề nghiệp

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:68

112
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nghiên cứu tự đánh giá của sinh viên Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh về phẩm chất nghề nghiệp khảo sát thực trạng tự đánh giá của sinh viên Đại học Kinh tế về phẩm chất nghề nghiệp và một số yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành các phẩm chất nghề nghiệp, từ đó đề xuất một số biện pháp để hình thành một số phẩm chất nghề nghiệp cho sinh viên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học: Nghiên cứu tự đánh giá của sinh viên Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh về phẩm chất nghề nghiệp

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH _________________ NGUYỄN THỊ MỸ LINH NGHIÊN CỨU TỰ ĐÁNH GIÁ CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỀ PHẨM CHẤT NGHỀ NGHIỆP Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 60 31 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. ĐOÀN VĂN ĐIỀU Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
  2. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong xu thế toàn cầu hoá, Việt Nam đã mở rộng quan hệ đối ngoại theo nền kinh tế thị trường, đồng thời đang từng bước gia nhập vào nền kinh tế thế giới. Mặt khác, sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đã đặt ra yêu cầu xã hội cần có một đội ngũ nhân lực trí tuệ để hội nhập nền kinh tế quốc tế. Muốn đạt được mục tiêu đó bước đầu của khâu đào tạo là cung cấp được nguồn nhân lực có trình độ đáp ứng được nhu cầu phát triển các mặt của xã hội. Trong hoạt động của con người, để thực hiện có hiệu quả công việc con người cần có một số phẩm chất tâm lý đặc trưng phù hợp với hoạt động nghề nghiệp của mình. Như vậy, vấn đề đặt ra đối với các cơ sở đào tạo, nhất là đối với các trường đại học – nơi đào tạo các chuyên gia trong những lĩnh vực khoa học công nghệ cần tổ chức chương trình đào tạo phát triển năng lực nghề nghiệp của mỗi ngành nghề cụ thể. Có như vậy, sinh viên ra trường mới có những phẩm chất nghề nghiệp phù hợp và đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của thị trường lao động xã hội. Cùng với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh không ngừng phát triển với nhiều đóng góp lớn lao vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân cũng như đã đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế xã hội. Với vị trí là một trường đại học đào tạo đa ngành thuộc lĩnh vực kinh tế, quy mô đào tạo rất lớn, hơn 45.000 sinh viên hàng năm (chính quy và không chính quy), vì vậy, vấn đề nghiên cứu tìm hiểu những phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên trường Đại học Kinh tế là cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Với ý nghĩa nêu trên, chúng tôi thấy đề tài “Nghiên cứu tự đánh giá của sinh viên trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh về phẩm chất nghề nghiệp” cần được thực hiện. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng tự đánh giá của sinh viên Đại học Kinh tế về phẩm chất nghề nghiệp và một số yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành các phẩm chất nghề nghiệp, từ đó đề xuất một số biện pháp để hình thành một số phẩm chất nghề nghiệp cho sinh viên.
  3. 3. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu tài liệu để xác định một số vấn đề lý luận về đặc điểm tâm lý của sinh viên và phẩm chất nghề nghiệp - Khảo sát thực trạng tự đánh giá của sinh viên trường Đại học Kinh tế về phẩm chất nghề nghiệp của ngành kinh tế. - Đề xuất một số giải pháp nhằm tổ chức nội dung giáo dục phẩm chất nghề nghiệp cho sinh viên trường Đại học Kinh tế 4. KHÁCH THỂ – ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU - Khách thể: Sinh viên trường Đại học Kinh tế TP.HCM - Đối tượng: Sự tự đánh giá một số phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên 5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU Mặc dù đa số sinh viên tự đánh giá về các phẩm chất nghề nghiệp một cách tích cực và các yếu tố như giới tính, nơi cư trú và việc đi làm thêm có ảnh hưởng đến kết quả tự đánh giá, nhưng các phẩm chất nghề nghiệp trên cơ sở tự đánh giá của sinh viên vẫn khác so với yêu cầu mục tiêu đào tạo của trường. 6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Các phương pháp dưới đây được sử dụng: 6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: đọc sách, tham khảo tài liệu và các vấn đề có liên quan, phục vụ cho việc viết cơ sở lý luận. 6.2. Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi, gồm: - 1 phiếu thăm dò mở nhằm tìm hiểu nhận thức của sinh viên về các phẩm chất nghề nghiệp, được xây dựng trên cơ sở kết quả điều tra sơ bộ ban đầu qua trao đổi với sinh viên, giáo viên và tham khảo tài liệu - 1 phiếu thăm dò kín (thang đo) nhằm tìm hiểu mức độ tự đánh giá của sinh viên về các phẩm chất nghề nghiệp. 6.3. Phương pháp thống kê: phục vụ cho việc xử lý kết quả thu được từ bảng phỏng vấn, thang đo, bao gồm: - Thống kê tần số (Frequency) - Tính điểm trung bình (Mean) - Phân tích biến lượng (Anova) - So sánh trung bình (F - test)
  4. trong phần mềm SPSS for Win 11.0 7. GIỚI HẠN VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu nội dung tự đánh giá của sinh viên qua các khía cạnh đặc biệt chiếm vị trí quan trọng đối với sự phát triển nhân cách của lứa tuổi này là những phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề nghiệp tương lai của họ như: đạo đức, học tập, giao tiếp xã hội, ý chí, đặc điểm cá nhân, xu hướng nhân cách và cảm xúc. Sinh viên được chọn là những người đang chuẩn bị vào Giai đoạn chuyên ngành (Sinh viên năm thứ 2). 8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài nội dung của phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm 2 chương sau: Chương 1. Cơ sở lý luận của đề tài. Chương 2. Thực trạng tự đánh giá về phẩm chất nghề nghiệp của sinh viên trường Đại học Kinh tế TP.HCM.
  5. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1. LỊCH SỬ CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Từ lâu trong xã hội đã chú trọng đến việc đảm bảo cho lao động nghề có được những phẩm chất phù hợp với nghề. Để xác định những phẩm chất tâm lý phù hợp với đặc điểm nghề nghiệp cá nhân, cần phải tính đến những thiên hướng và năng lực của bản thân; phải biết những phẩm chất cá nhân có phù hợp với những yêu cầu mà nghề đó quy định hay không; trong đó phải xét đến các khả năng về thể chất, đặc điểm tính cách, hứng thú, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,… và bao hàm cả lĩnh vực tình cảm và ý chí. Để đảm bảo cho con người tham gia vào hoat động nghề nghiệp có được các phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề cao, người ta đã quan tâm ngay từ khâu tuyển chọn. Năm 1883, nhà Tâm lý học Anh F.Galton đã dùng test chẩn đoán nhân cách để phục vụ cho việc tư vấn nghề; năm 1908, nhà Tâm lý học Mỹ F.Parsons cũng dùng test và angket để nghiên cứu năng lực học sinh nhằm mục đích hướng nghiệp; năm 1912, giáo sư G.Munsterberg – Giám đốc phòng thí nghiệm trường Đại học tổng hợp Harward- đã soạn thảo bảng hướng dẫn tuyển chọn về mặt tâm lý những người làm nghề điện thoại viên. Ơ Liên Xô đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, từ những năm 20 của thế kỷ XX, việc nghiên cứu tâm lý phục vụ cho tuyển chọn, tư vấn và đào tạo nghề rất được chú trọng. Năm 1921, phòng thí nghiệm tâm lý chuyên nghiên cứu nhân cách học sinh phục vụ hướng nghiệp được thành lập trong Viện nghiên cứu lao động trung ương và Viện nghiên cứu lao động toàn Ucraina; năm 1927, Hội nghị toàn liên bang về tâm sinh lý lao động và tuyển chọn nghề được tổ chức ở Mátxcơva, nhiều nhà tâm lý học nổi tiếng như E.A.Climôp, V.I.Segurôva… đã đi sâu nghiên cứu về xu hướng, về hứng thú nghề nghiệp như là phẩm chất quyết định hiệu quả hoạt động nghề [23, tr.52]; ngoài ra còn có nghiên cứu về mặt tâm lý của một loạt các nghề phổ biến và xây dựng những phương pháp xác định sự phù hợp nghề nghiệp của con người. Những nghiên cứu này được tiến hành cho học sinh trước khi bước vào chọn nghề, để tránh sự lãng phí trong đào tạo khi các em lựa chọn nghề không đúng với hoàn cảnh thực tế của mình. Từ năm 1970 ở các trường Lêningrat, tiến hành nghiên cứu nhân cách của học sinh lớn bằng cách phát hiện thiên hướng nghề nghiệp của các em với sự giúp đỡ của Viện bồi dưỡng Giáo viên,…
  6. Riêng đối với ngành sư phạm, tác giả Ph.N.Gôlôbin có công trình nghiên cứu về “Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên”, ông đã vạch ra được những phẩm chất tâm lý chủ yếu quyết định sự thành công trong công tác của người giáo viên, qua đó đề ra những yêu cầu nghề nghiệp làm cơ sở giúp cho sinh viên, giáo viên rèn luyện và phát triển năng lực sư phạm phù hợp. Đề tài nghiên cứu “Mối quan hệ giữa khuynh hướng, hứng thú nghề nghiệp và kết quả học tập của sinh viên học viện Quân y” của tác giả Nguyễn Sinh Phúc được đăng trên Tạp chí Tâm lý học 5/1999, bàn về mối quan hệ giữa phẩm chất nghề nghiệp và kết quả học tập. Tác giả tập trung khảo sát mối quan hệ giữa 3 yếu tố khuynh hướng nghề, hứng thú nghề và kết quả học tập. Tuy nhiên phần tìm hiểu xu hướng nghề nghiệp trên sinh viên của tác giả khá đơn giản, chỉ điều tra bằng những câu hỏi về mức độ yêu thích đối với nghề nghiệp chớ không bàn gì đến các phẩm chất nghề nghiệp. Đề tài “Nghiên cứu mức độ phù hợp của kỳ thi tuyển sinh vào trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí minh với kết quả học tập của học sinh ở lớp 12 và kỳ thi tú tài” do tác giả Đoàn Văn Điều làm chủ nhiệm. Đây là đề tài cấp cơ sở mã số 2000- 06, ĐHSP TPHCM, 2001, do một số giảng viên khoa Tâm lý – Giáo dục của trường Đại học Sư phạm thực hiện, cũng đề cập đến sự tự đánh giá của sinh viên về xu hướng nghề nghiệp và kết quả học tập. Công trình tập trung nghiên cứu những vấn đề xoay quanh đầu vào của sinh viên trúng tuyển vào Đại học Sư phạm năm 2000, trong đó có vấn đề “tự đánh giá phù hợp với nghề”, “tự đánh giá các phẩm chất sư phạm” của sinh viên và chỉ số tương quan giữa các yếu tố trên với kết quả học tập bậc phổ thông và kết quả tuyển sinh đại học. Do khách thể nghiên cứu của đề tài là những sinh viên năm thứ nhất, nên những đánh giá cũng chưa khái quát cao về các phẩm chất đặc trưng của nghề sư phạm. Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số B91-38-06, Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục năm 1993, tác giả Mạc Văn Trang có nghiên cứu những yêu cầu tâm lý cơ bản đối với một số nghề và nghiên cứu trắc đạc tâm lý của cá nhân phù hợp nghề. Đi từ phân tích hoạt động nghề nghiệp đến những yêu cầu tâm sinh lý của cá nhân, để đáp ứng đòi hỏi của nghề cần vận dụng nghiên cứu phẩm chất tâm lý phù hợp nghề. Người lao động phù hợp nghề có ý nghĩa kinh tế và nhân văn to lớn mà trong thực tế nhiều khi cả xã hội lẫn cá nhân đều chưa ý thức được tầm quan trọng
  7. của nó. Phù hợp nghề sẽ giúp cho giáo dục đào tạo nghề đạt hiệu quả hơn; cá nhân có phẩm chất tâm lý phù hợp nghề sẽ làm việc với chất lượng, năng suất lao động cao, người lao động cảm thấy hứng thú, sáng tạo và gắn bó với nghề hơn. Dưới góc độ nghiên cứu khoa học giáo dục, tác giả Nguyễn Bá Huy nhận thấy rằng: Quá trình đào tạo học viên sư phạm ở các nhà trường quân đội hiện nay, cần tập trung giáo dục những phẩm chất cơ bản sau: Thế giới quan khoa học và niềm tin cộng sản chủ nghĩa, phẩm chất trí tuệ; phẩm chất xúc cảm, tình cảm; phẩm chất ý chí, phẩm chất tổ chức kỷ luật và đề ra một số biện pháp giáo dục phẩm chất nghề nghiệp nhằm góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo toàn diện đội ngũ giáo viên cũng như hình thành các phẩm chất nghề nghiệp cho giáo viên trong các nhà trường quân đội hiện nay [17]. Tác giả Đỗ Văn Thọ, Học viện Cảnh sát nhân dân, trong nghiên cứu “Nâng cao những phẩm chất tâm lý phù hợp nghề cho sinh viên bằng tác động trực tiếp trong quá trình giảng dạy-tổ chức học tập” trên tạp chí Tâm lý học số 6/2006, ông nhận xét rằng nếu tạo được sự thống nhất đồng bộ trong giảng dạy các môn học và trong tổ chức các hoạt động của sinh viên, thì hiệu quả nâng cao các phẩm chất tâm lý phù hợp nghề cho sinh viên sẽ cao hơn nhiều. Mặc dù phẩm chất nghề nghiệp đặc trưng cho từng ngành, từng nghề rất quan trọng và cần thiết để làm cơ sở cho việc giáo dục và đào tạo nhưng trên thực tế rất ít các đề tài nghiên cứu về vấn đề này, riêng với lĩnh vực ngành nghề kinh tế hầu như chưa được nghiên cứu. Chính vì vậy, qua đề tài này tác giả muốn góp phần xác định những phẩm chất tâm lý phù hợp với ngành nghề kinh tế, để tạo điều kiện trong công tác giáo dục đào tạo nghề đáp ứng được những yêu cầu thực tiễn trong giai đoạn hiện nay. 1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 1.2.1. Khái niệm đánh giá và tự đánh giá Để tìm hiểu khái niệm tự đánh giá, trước hết cần phải định nghĩa đánh giá là gì? Đánh giá có nghĩa là nhận xét, bình phẩm về giá trị của một sự vật, một sự việc hay một người nào đó [30, tr.589]. Như vậy, nội dung của đánh giá là làm rõ giá trị của một người hay một sự vật. Theo giáo sư Trần Bá Hoành, “đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết quả của công việc, dựa vào sự phân
  8. tích những thông tin thu được đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đã đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc [1, tr.5]. Tác giả Văn Thị Kim Cúc (2003), trong nghiên cứu “Tìm hiểu sự đánh giá bản thân ở trẻ 10-15 tuổi” ở Tạp chí Tâm lý học, số 7, 7/2003 cho rằng Tự đánh giá của cá nhân được xem như là “Ý thức về giá trị của cái Tôi” [5, tr.19] Việc tự đánh giá của con người thích hợp và khách quan đến mức nào và thuộc tính đó thay đổi ra sao theo lứa tuổi? Những khác biệt về đối tượng và phương thức đánh giá đã gây ra nhiều khó khăn cho việc kiểm tra tính thích hợp của các ý kiến tự đánh giá. Trong một số trường hợp sự tự đánh giá được kiểm tra bằng phương pháp so sánh mức độ kỳ vọng được biểu hiện trong đó với các kết quả hoạt động thực tế như những thành tích thi đấu thể thao, điểm số trong học tập, các số liệu trắc nghiệm,… Ở những trường hợp khác, sự tự đánh giá được đem đối chiếu với sự đánh giá của những người xung quanh (thầy cô giáo, cha mẹ,…) với tư cách là những giám định viên của cá nhân đó. Bản thân quá trình tự đánh giá đó có những chức năng khác nhau. Một mặt sự tự đánh giá là một quá trình nhận thức muốn đạt tới một hoạt động có kết quả, cá thể phải có những hiểu biết khách quan về mình và những phẩm chất của mình. Mặt khác, sự tự đánh giá thường được dùng làm phương tiện tự vệ tâm lý; nguyện vọng muốn có hình ảnh “cái Tôi” tích cực, thường kích thích con người cường điệu những ưu điểm của mình. Mối tương quan giữa hai chức năng này và động thái phát triển theo lứa tuổi vẫn còn là vấn đề các nhà hoa học rất quan tâm nghiên cứu. Nói chung, xét về toàn bộ từ tính phù hợp của tự đánh giá, rõ ràng là tăng theo lứa tuổi. Xét về đa số các chỉ số thì tự đánh giá của người lớn thực tế hơn, khách quan hơn thanh niên, còn thanh niên thì lại khách quan hơn thiếu niên. Ơ đây có dấu ấn của kinh nghiệm sống, của sự phát triển trí tuệ, tính ổn định của mức độ kỳ vọng. Mà thực tế những xu hướng này không đi theo đường thẳng, cần chú ý đến sự thay đổi của chính các tiêu chuẩn đánh giá theo lứa tuổi [3, tr.95]. Qua các định nghĩa trên, tác giả chấp nhận “tự đánh giá là sự đánh giá của cá nhân về các giá trị của bản thân với tư cách là một con người trong mối quan hệ với người khác; trên cơ sở tự đánh giá cá nhân sẽ biết rõ được các nhu cầu của bản thân,
  9. những điểm mạnh và điểm yếu đang tồn tại ở bản thân, những phán đoán rõ ràng về sự đúng sai, từ đó giúp cá nhân có thêm sức mạnh để duy trì trạng thái cân bằng tâm lý làm động lực để vươn lên trong mọi hoàn cảnh” 1.2.2. Quan hệ tự đánh giá với tự ý thức và cái Tôi Theo Đỗ Ngọc Khanh, tự đánh giá là một hình thức phát triển cao của sự tự ý thức, là sự đánh giá tổng thể của một cá nhân về cá giá trị bản thân với tư cách là một con người trong hoạt động và giao tiếp với những người khác [16, tr.33]. Như vậy, tự đánh giá là mức độ phát triển cao của tự ý thức; giữa tự đánh giá và tự ý thức có mối liên kết chặt chẽ. Tự đánh giá được hình thành trên cơ sở của tự ý thức. Tự ý thức là sự tri giác cái diễn ra trong tâm hồn con người. Ơ đây, tính dễ hiểu của kinh nghiệm đối với một cá nhân người trực tiếp trải nghiệm kinh nghiệm của mình trở nên rõ ràng. Chỉ có chính tôi và một mình tôi quan sát và tri giác các phản ứng thứ cấp của tôi – Còn được xem như là một quá trình tri giác bên trong nội quan cá nhân [28, tr.72]. Còn theo định nghĩa của Vưgotxki, tự ý thức là ý thức xã hội được chuyển vào bên trong [22, tr.182]. Tự ý thức còn được xem như là một quá trình ý thức về chính mình, về bản thân mình. Tự ý thức của cá nhân biểu hiện ra ở các dấu hiệu sau: - Tự nhận thức về mình: vẻ bề ngoài, nội dung tâm hồn, vị trí và các quan hệ xã hội của cá nhân,… - Có thái độ đối với mình như: tự phê bình, tự đánh giá, tự nhận định,… - Có dự định về đường đời của mình: chọn thần tượng, chọn mẫu người để bắt chước, có lý tưởng, chí hướng,… - Và có khả năng tự kiềm chế, tự thúc đẩy, tự kiểm tra,… Tất cả những biểu hiện đó được kết tinh lại ở hoạt động tự giáo dục của cá nhân [12, tr.82]. Ơ trình độ phát triển cao nhất của ý thức là tự ý thức; con người có khả năng tự biến đổi chính bản thân mình bằng việc tự điều chỉnh, tự điều khiển hoạt động bản thân để thích ứng với hoàn cảnh. Khi đã có ý thức về bản thân mình, chủ thể tự phản ánh bản thân mình theo một mẫu mực nhất định của cái Tôi và chỉ đạo hành động của mình theo khuôn mẫu ấy. Cũng theo những lý giải về nội dung tự ý thức, các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Văn Luỹ và Đinh Văn Vang, trong Giáo trình Tâm lý học đại cương đã khái quát “Tự ý thức là mức độ phát triển cao của ý thức. Tự ý thức là ý thức về mình, có nghĩa là khi bản thân trở thành đối tượng “mổ xẻ”, phân tích, lý
  10. giải,… thì lúc đó con người đang tự ý thức. Tự ý thức biểu hiện ở những mặt sau: Chủ thể tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội dung tâm hồn, đến vị thế và các quan hệ xã hội, trên cơ sở đó tự nhận xét, tự đánh giá. Từ đó có thái độ rõ ràng đối với bản thân, tự điều chỉnh, tự điều khiển hành vi theo mục đích tự giác, qua đó chủ thể có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện mình. Trong Tâm lý học nhân cách, cái Tôi được nghiên cứu như một thành phần quan trọng của nhân cách. Để hình thành một con người như một chỉnh thể trọn vẹn có cá tính, giúp cá nhân phân biệt với những người khác nhờ cái Tôi của mình, vì vậy quá trình hình thành nhân cách bao gồm cả việc hình thành hình ảnh “cái Tôi” tương đối bền vững, tức là một quan niệm toàn vẹn về bản thân mình. Hình ảnh “cái Tôi” (đôi khi còn đươc gọi là “khái niệm cái Tôi” hoặc là “cái Tôi quan điểm”), đó là một hiện tượng tâm lý phức tạp, không chỉ quy vào việc hiểu một cách đơn giản những phẩm chất của mình hoặc toàn bộ những ý kiến của sự tự đánh giá. Hình ảnh cái Tôi đó không đơn giản là sự phản ánh “dưới hình thức biểu tượng hoặc khái niệm” những thuộc tính đã có một cách khách quan nào đó và không phụ thuộc vào trình độ nhận thức của mình, mà còn là tâm thế xã hội, thái độ của cá nhân,… Theo quan điểm của Shibutani (S.L.Albrecht,1980), khi cá nhân tham dự vào một hoạt động xã hội, thì cái Tôi bao gồm năm khía cạnh: tính đồng nhất, quá trình tự ý thức, tính ổn định, tự đánh giá về bản thân và ý thức xã hội. Theo ông, tính đồng nhất là một nhân tố trong cấu trúc của cái Tôi. Nó thể hiện bản thân qua cách ứng xử. Tính đồng nhất của mỗi cá nhân là khác nhau. Điều này giúp chúng ta có thể nhận thấy được một cách chính xác hành vi đó là của ai và người đó sẽ xử sự ra sao [20, tr.141]. Xét theo phương diện phát triển lứa tuổi, hình ảnh cái Tôi cá nhân sẽ thay đổi theo lứa tuổi. Các công trình Tâm lý học nghiên cứu về vấn đề này đã đi theo một số hướng. Trước hết người ta nghiên cứu những chuyển biến trong nội dung hình ảnh cái Tôi và các bộ phận cấu thành của nó – những phẩm chất nào được nhận thức rõ nhất, mức độ và tiêu chuẩn tự đánh giá thay đổi như thế nào theo lứa tuổi, vẻ bề ngoài có ý nghĩa như thế nào, những phẩm chất trí tuệ, đạo đức có ý nghĩa như thế nào…. Tiếp theo người ta nghiên cứu mức độ tin cậy và tính chất khách quan của nó. Cuối cùng nghiên cứu sự thay đổi cấu trúc
  11. của hình ảnh cái Tôi nói chung, tức là nghiên cứu mức độ phân hoá của nó (tính phức tạp về mặt nhận thức), tính nhất quán bên trong (tính hoàn chỉnh), độ bền vững (tính ổn định theo thời gian), giá trị chủ quan, độ tương phản cũng như mức độ tự trọng. Xét theo tất cả các chỉ số nói trên, các độ tuổi khác nhau, hình ảnh cái Tôi cũng thay đổi khác nhau [3, tr.91]. Tuỳ thuộc vào sự giáo dục và lối sống của cá nhân, mà các phẩm chất của cái Tôi được xác định, cùng các khả năng tự điều chỉnh, các sức mạnh của bản thân được xác định. Nó là một cấu tạo tự ý thức của nhân cách. Từ các phân tích trên về các khái niệm Tự đánh giá, tự ý thức và cái Tôi, chúng ta thấy rằng giữa chúng có mối liên hệ với nhau; khi xem xét tự đánh giá, chúng ta không thể không xem xét vấn đề tự ý thức, bởi vì cá nhân muốn đánh giá chính xác về bản thân, trước hết họ phải tự nhận thức về mình, tức là tự ý thức về chính bản thân mình, hay nói cách khác là có khái niệm rõ ràng về bản thân (cái Tôi). 1.2.3. Các khía cạnh của tự đánh giá. Như trên đã phân tích, nội dung tự đánh giá ở các lứa tuổi là khác nhau. Nghiên cứu này tập trung vào tuổi thanh niên sinh viên, nên chúng tôi chỉ nêu lên những quan điểm về nội dung tự đánh giá của lứa tuổi này. Nội dung tự đánh giá chính là đánh giá về cái Tôi của cá nhân. Đối với sinh viên, hoạt động học tập, hoạt động xã hội và môi trường sống của sinh viên có những nét đặc trưng và đòi hỏi khác về chất so với các lứa tuổi trước đó. Cuộc sống của các em bị chi phối mạnh mẽ những nhiệm vụ đầu tư và chuẩn bị nghề nghiệp tương lai. Nội dung tự đánh giá bao gồm: - Những hình ảnh chung về bản thân của cá nhân, họ so sánh mình với người khác qua các đặc điểm bên ngoài, nhận biết những đặc điểm của hình thức thân thể, dần dần sinh viên hiểu mình rõ hơn, đánh giá bản thân chính xác hơn; thông qua những cuộc trao đổi thông tin, các đánh giá về các hiện tượng mà họ quan tâm có liên quan đến bản thân. Thường thường biểu tượng về cái Tôi được hình thành theo hướng các thuộc tính tâm lý của con người như một cá thể được nhận biết sớm hơn các thuộc tính của nhân cách.
  12. - Hình ảnh chung về bản thân được xét cụ thể trên các mặt: học tập, giao tiếp xã hội, thể chất, cảm xúc, đạo đức… các đặc điểm của nhân cách như ý chí, tình cảm, trí tuệ, năng lực, mục đích sống,… ngày càng có ý nghĩa đối với bản thân họ, tạo nên một hình ảnh cái Tôi có chiều sâu, có hệ thống, chính xác và đầy đủ hơn. - Hình ảnh chi tiết hơn, ý thức về cái Tôi rõ ràng và đầy đủ hơn đã vạch cho họ các lựa chọn các kế hoạch tiếp theo trên đường đời của mình, đặt ra vấn đề tự khẳng định mình và tìm kiếm vị trí cho riêng mình trong cuộc sống. 1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA THANH NIÊN SINH VIÊN. 1.3.1. Đặc điểm lứa tuổi của thanh niên sinh viên Thời kỳ sinh viên thường nằm trong độ tuổi thanh niên, được xác định khoảng từ 18 đến 25 tuổi nên còn được gọi là thanh niên sinh viên. Sở dĩ lấy khoảng độ tuổi sinh viên từ 18 đến 25, vì đây là độ tuổi quy định trong tuyển sinh vào đại học của Bộ Giáo dục – Đào tạo. Mặt khác, vì mốc bắt đầu của tuổi sinh viên là 18, nên sinh viên được xếp vào tuổi thanh niên muộn hay còn được xem là sự bắt đầu của tuổi người lớn [3, tr.62]. Tuổi sinh viên là độ tuổi trưởng thành về mặt sinh học cũng như cả về mặt xã hội. Ơ lứa tuổi này hoạt động, cấu trúc và vai trò nhân cách đã mang những phẩm chất mới được xem như là dấu hiệu của người trưởng thành. Sự phát triển thể chất: Do sinh viên ở trong độ tuổi chuyển tiếp từ giai đoạn cuối tuổi thanh niên sang đầu giai đoạn tuổi trưởng thành, nên có thể nói rằng đây là giai đoạn phát triển ổn định; mặt khác đến 24, 25 tuổi thì con người đã hoàn tất sự phát triển về thể chất (nữ sớm hơn nam 1,2 năm). Đến 25 tuổi cũng là năm kết thúc giai đoạn đào tạo dài nhất ở đại học. Trong quá trình phát triển này, quá trình chín muồi sinh học cơ bản đã được hoàn thiện đến mức có thể coi là chu trình người trưởng thành như: Sự phát triển ổn định, đồng đều về hệ xương, cơ bắp tạo ra nét đẹp hoàn mỹ ở người thanh niên. Các tố chất về thể lực như sức nhanh, sức bền bỉ, dẻo dai, linh hoạt đều phát triển mạnh nhờ sự phát triển ổn định của các tuyến nội tiết cũng như sự tăng cường các hooc- môn nam và nữ; hệ thống tim mạch, thần kinh mang tính ổn định và hoạt động theo nhịp bình thường thuộc chu kỳ người lớn. Sự phát triển tâm lý: Bước sang tuổi sinh viên, các chức năng tâm lý cũng có nhiều thay đổi, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển trí tuệ, khả năng tư duy. Các nghiên
  13. cứu tâm lý học cho thấy rằng ở tuổi này, các hoạt động tư duy của thanh niên sinh viên rất tích cực và có tính độc lập, tư duy lý luận phát triển mạnh, có khả năng khái quát các vấn đề, nhờ đó mà tự mình phát hiện ra cái mới. Sự phát triển mạnh của tư duy lý luận liên quan chặt chẽ với khả năng sáng tạo. 1.3.2. Các hoạt động cơ bản của thanh niên sinh viên 1.3.2.1. Đặc điểm hoạt động học tập Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục đại học nhằm bồi dưỡng nhân tài, tạo nguồn nhân lực chuyên môn cao cấp ở các lĩnh vực nghề nghiệp. Vì vậy, những đặc điểm chung trong hoạt động học tập của sinh viên như sau: Hoạt động học tập của sinh viên hướng vào việc hình thành và phát triển hoàn thiện nhân cách người chuyên gia trong các lĩnh vực nghề nghiệp tương ứng, vì vậy học tập của sinh viên mang tính đặc trưng của hoạt động nghề nghiệp tương lai. Trình độ học vấn của sinh viên được xác định là trình độ chuyên môn nghề nghiệp, do đó việc học tập trong trường đại học có một ý nghĩa rõ rệt, có thể xem như một dạng hoạt động lao động. Mục đích học tập chuyên nghiệp của sinh viên là chiếm lĩnh hệ thống các kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp, nhằm hình thành những phẩm chất của người chuyên gia tương lai. Vì vậy trong quá trình học tập, sinh viên phải xây dựng cho mình vốn hành trang trí tuệ và nhân cách đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp sau này. Tính độc lập cao trong học tập: Do yêu cầu của việc đào tạo người chuyên gia tương lai, nên việc học tập của sinh viên đòi hỏi mức độ độc lập trí tuệ cao. Sinh viên phải tự ý thức đầy đủ về hoạt động học tập của bản thân, đó là sự giác ngộ bản thân về việc xác định mục đích cũng như định hướng rõ rệt về vị trí của mình trong thế giới người lớn; do đó sinh viên phải là chủ thể của hoạt động học tập, là người tổ chức, định hướng và kiểm tra quá trình học tập đồng thời cũng là một chủ thể có trách nhiệm của các hoạt động xã hội với tư cách là một công dân. Quá trình học tập của sinh viên nhằm xây dựng phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học độc lập, tự chủ. Sở dĩ sinh viên có khả năng độc lập cao trong hoạt động học tập là do kết quả phát triển tương đối hoàn thiện của các chức năng tâm sinh lý của lứa tuổi này. Sự trưởng thành về trí lực, tư duy logic, thế giới quan và nhân sinh quan là cơ sở quan trọng của sự phát triển tính độc lập cao ở lứa tuổi sinh viên.
  14. Tính sáng tạo: Ở đại học, sinh viên phải lĩnh hội khối lượng kiến thức rất lớn bao gồm các kiến thức về lĩnh vực chuyên môn, chuyên ngành và các kiến thức khoa học cơ bản, nên đòi hỏi rất cao ở tính sáng tạo của sinh viên. Sinh viên phải tự chủ trong việc tổ chức các hoạt động tự học, tự nghiên cứu của mình cũng như hình thành cho mình các phương pháp học tập tích cực sáng tạo để chiếm lĩnh tri thức và kinh nghiệm làm hành trang cho tương lai khi gia nhập vào hoạt động nghề nghiệp. Hoạt động học tập của sinh viên hiện nay đã được đặt ở một vị trí rất quan trọng theo yêu cầu của Luật Giáo dục “Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” [21, tr.9]. Tính thực tiễn: Trong bối cảnh xã hội hiện nay, những yêu cầu của giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên, đã tạo cho sinh viên có thái độ học tập với tính năng động, sáng tạo cao; mặt khác, để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, sinh viên phải chủ động nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học,… để trang bị kiến thức làm hành trang cho nghề nghiệp tương lai. Ơ trường đại học, mục tiêu học tập của sinh viên là học cách học, mà quan trọng là làm chủ quá trình học của bản thân như tự học, nghiên cứu khoa học,… làm cơ sở tiền đề của việc học suốt đời của mỗi cá nhân. Trong xu thế thời đại ngày nay, sinh viên thực sự học tập vì cuộc sống, vì nghề nghiệp tương lai của bản thân. Sinh viên tự điều khiển quá trình học tập, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, biết kết hợp quá trình cá nhân hoá với quá trình xã hội hoá trong học tập của bản thân nhằm đạt tới việc đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp. Ngoài ra sinh viên cần phải rèn luyện khả năng tạo nghiệp, nhạy bén với thị trường, chủ động gia nhập vào các tổ chức hoạt động nghề nghiệp xã hội, bước đầu đối với một số sinh viên có thể tiếp cận với một số hoạt động nghề nghiệp đơn giản như tham gia các công việc làm thêm để kiếm thu nhập, nhưng dần dần là để nâng cao hoạt động chuyên môn nghề nghiệp, tích luỹ kinh nghiệm gia nhập vào thị trường lao động trong tương lai. 1.3.2.2.Một số hoạt động khác của sinh viên: Hoạt động chính trị – xã hội: Đây là một hoạt động đặc trưng ở tuổi sinh viên. Sinh viên là những người có trí tuệ nhạy bén, mẫn cảm đối với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia, quốc tế. Về mặt tư cách của một công dân, họ có chính kiến đối với đường lối, chủ trương, chính sách của đảng chính trị và Nhà nước, do đó hoạt động chính trị – xã hội là nhu cầu, nguyện vọng của thanh niên sinh viên. Việc tham gia của họ vào các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội như Hội sinh viên, Đoàn
  15. thanh niên, … hay đối với những sinh viên ưu tú, được vinh dự đứng vào hàng ngũ Đảng, mang một ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển nhân cách toàn diện của họ. Bên cạnh những hoạt động có ý nghĩa chính trị – xã hội, sinh viên cũng là nhóm người tích cực tham gia vào các hoạt động khác mang tính chất giải trí, vui chơi phù hợp với năng khiếu và sở thích cá nhân như các câu lạc bộ văn học, nghệ thuật, thể dục thể thao, câu lạc bộ ngoại ngữ,… hay các cuộc thi về nghiệp vụ nghề nghiệp được Đoàn trường và các cơ quan tổ chức, cũng luôn hấp dẫn và lôi cuốn sự tham gia của nhiều sinh viên, để thoả mãn nhu cầu giao lưu phong phú cũng như nhu cầu rèn luyện toàn diện của họ. Bao trùm lên các hoạt động phong phú, đa dạng của sinh viên ở trường đại học là những quan hệ giao lưu, giao tiếp với hàng loạt mối quan hệ xã hội đan xen lẫn nhau. Những mối giao lưu này mang tính phức hợp giữa cá nhân người sinh viên với người lớn, với bạn bè cùng lứa, cùng giới, khác giới, các tổ chức, các nhóm xã hội trực tiếp hoặc gián tiếp (thông qua phương tiện thông tin truyền thông),…Các hoạt động giao lưu này chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển đời sống tâm lý, nhân cách của sinh viên. Vị thế xã hội của sinh viên có nhiều thay đổi so với lứa tuổi trước đó, các quan hệ xã hội của sinh viên được mở rộng. Chính những thay đổi trong vị thế xã hội của các em, những thách thức khách quan của cuộc sống dẫn đến sự xuất hiện ở lứa tuổi này những nhu cầu hiểu biết thế giới, hiểu biết xã hội và các chuẩn mực quan hệ người – người, hiểu mình và tự khẳng định mình trong đời sống xã hội. 1.3.2.3. Một số phẩm chất về nhân cách của sinh viên Sinh viên là lứa tuổi đẹp nhất trong đời người, có sức khoẻ, có khả năng sáng tạo và có tính độc lập cao; trong những năm theo học đại học được xem như là thời kỳ chuyển tiếp cho việc chuẩn bị độc lập tham gia vào các cộng đồng xã hội và hoạt động nghề nghiệp ổn định trong tương lai, do đó các em vẫn còn chịu sự tác động giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội; mặt khác, ở bản thân các em cũng cần có sự tự giáo dục và rèn luyện nhân cách bản thân để đáp ứng các yêu cầu nghề nghiệp trong tương lai. Sinh viên chưa có vị trí độc lập chính thức trong các tổ chức lao động xã hội, các em đang tích cực rèn luyện cả về phẩm chất và năng lực nghề nghiệp bằng cách tự rèn luyện, nỗ lực học tập dưới sự hướng dẫn của giảng viên và bước đầu các em cũng trải nghiệm qua hoạt động thực tiễn như tham gia các cuộc thi về nghiệp vụ
  16. chuyên môn, hoặc đi làm thêm để tiếp cận dần với nghề nghiệp qua công tác thực tế chớ không phải là chỉ dừng ở việc học lý thuyết suông. Nhân cách của sinh viên phát triển khá toàn diện và phong phú với những đặc điểm đặc trưng như sau: - Đặc điểm về tự đánh giá, tự ý thức, tự giáo dục của sinh viên Tự đánh giá là một trong những phẩm chất quan trọng, một trình độ phát triển cao của nhân cách. Tự đánh giá có ý nghĩa định hướng, điều chỉnh hoạt động, hành vi của chủ thể nhằm đạt mục đích, lý tưởng sống một cách tự giác. Tự đánh giá ở lứa tuổi sinh viên là một hoạt động nhận thức, trong đó đối tượng nhận thức chính là bản thân chủ thể, là quá trình chủ thể thu thập, xử lý thông tin về chính mình, chỉ ra những tồn tại ở bản thân, từ đó có thái độ, hành vi, hoạt động phù hợp nhằm tự điều chỉnh, tự giáo dục để hoàn thiện và phát triển nhân cách. Đặc điểm tự đánh giá của sinh viên mang tính chất toàn diện và sâu sắc. Biểu hiện cụ thể của nó là sinh viên không chỉ đánh giá hình ảnh bản thân mình ở hình thức bên ngoài mà còn đi sâu vào các phẩm chất, các giá trị của nhân cách. Tự đánh giá của họ không chỉ trả lời câu hỏi: Tôi là ai? Mà còn đi sâu vào các nội dung liên quan đến bản thân họ như: Tôi là người như thế nào? Tôi có những phẩm chất gì? Tôi có xứng đáng không?... Hơn thế họ còn có khả năng lý giải và trả lời câu hỏi: Tại sao tôi là người như thế? Những cấp độ đánh giá ở trên mang yếu tố phê phán, phân tích rõ rệt. Vì vậy tự đánh giá của sinh viên có ý nghĩa tự ý thức và tự giáo dục cao. Tự ý thức là một trình độ phát triển cao của ý thức, nó giúp sinh viên có hiểu biết về thái độ, hành vi cử chỉ của mình để chủ động hướng hoạt động của mình đi theo những yêu cầu đòi hỏi của tập thể, của cộng đồng xã hội. Tự giáo dục là một mức độ phát triển cao trong nhận thức của sinh viên nhằm rèn luyện mình theo những mục đích và kế hoạch cuộc đời. Nghiên cứu tự đánh giá, tự ý thức ở sinh viên cho thấy mức độ phát triển của những phẩm chất nhân cách này có liên quan đến trình độ học lực, hình ảnh “cái Tôi”, cũng như kế hoạch sống trong tương lai của sinh viên. Việc khám phá hình ảnh “cái Tôi” không đơn giản chỉ phụ thuộc vào trình độ nhận thức của sinh viên, mà còn là tâm thế xã hội, thái độ của cá nhân đối với chính bản thân mình, bao gồm ba yếu tố phụ thuộc lẫn nhau đó là: nhận thức, xúc cảm và hành vi. Nhận thức về hình ảnh “cái tôi” chính là sự hiểu biết về bản thân, biểu tượng về những phẩm chất và thuộc tính của mình. Xúc cảm về “cái tôi” thể hiện ở sự đánh giá những phẩm chất và lòng tự ái có liên
  17. quan tới những đánh giá ấy, lòng tự trọng và những tình cảm khác; Hành vi là thái độ thực tế đối với bản thân xuất phát từ hai yếu tố nói trên. Tóm lại những phẩm chất nhân cách như tự đánh giá, lòng tự trọng, tự tin, sự tự ý thức đều phát triển mạnh mẽ ở tuổi sinh viên. Chính những phẩm chất nhân cách bậc cao này có ý nghĩa rất lớn đối với việc tự giáo dục, tự rèn luyện và hoàn thiện bản thân theo hướng tích cực của những trí thức tương lai. - Sự phát triển về định hướng giá trị ở thanh niên sinh viên: Định hướng giá trị là một trong những lĩnh vực rất cơ bản, quan trọng đối với đời sống tâm lý của sinh viên. Định hướng giá trị là những giá trị được chủ thể nhận thức, ý thức và đánh giá cao, có ý nghĩa định hướng, điều chỉnh thái độ, hành vi, lối sống của chủ thể nhằm vươn tới những giá trị đó. Định hướng giá trị của sinh viên liên quan mật thiết với xu hướng nhân cách và kế hoạch đường đời của họ. Với sinh viên, những ước mơ, hoài bão, những lý tưởng của tuổi thanh xuân dần dần được hiện thực hoá, được điều chỉnh trong quá trình học tập ở trường đại học. Tính viễn vông, huyễn tưởng của những điều trừu tượng, xa vời trước đây (ở tuổi thiếu niên) nhường chỗ cho các kế hoạch đường đời cụ thể, do việc học ở đại học để trở thành người có nghề nghiệp đã được xác định rõ ràng. Sinh viên nhìn nhận vấn đề bản chất cuộc sống tích cực và duy vật hơn, thừa nhận sự thành công trong cuộc sống là do sự nỗ lực của bản thân hơn là sự phụ thuộc hoặc do số phận hay sự may rủi nào đó, họ không chỉ đặt ra kế hoạch đường đời của mình mà còn tìm cách để thực thi kế hoạch đó theo những giai đoạn nhất định. Nhiều sinh viên ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học đã có kế hoạch riêng về nhiều mặt và để đạt được kế hoạch của mục đích đời mình; họ không ngần ngại tìm những việc làm thêm để thoả mãn những yêu cầu học tập ngày càng cao và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hành nghề sau này. Xem xét một số định hướng giá trị nghề nghiệp của sinh viên cho thấy, động cơ chọn nghề của sinh viên rất thực tế và lành mạnh, không vì tiếng tăm, không vì sự nhàn hạ mà cái chính là nghề nghiệp phải phù hợp với khả năng, có thu nhập cao, đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội. Các động cơ chọn nghề (được xếp theo thứ tự lựa chọn từ cao xuống): + Hợp khả năng + Có thu nhập cao
  18. + Vì sự phát triển của xã hội + Được xã hội coi trọng + Đòi hỏi kỹ thuật hiện đại + Nghề có tính nhân đạo, lương thiện + Muốn trở thành nổi tiếng + Phù hợp với sức khoẻ bản thân Sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người, họ là lớp người giàu nghị lực, ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không đồng đều về mặt tâm lý, do những điều kiện và hoàn cảnh sống, giáo dục không giống nhau, nên không phải bất cứ sinh viên nào cũng phát triển ở mức tối ưu. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào những tình huống đúng đắn cũng như tính tích cực hoạt động của bản thân mỗi sinh viên, vì ở giai đoạn này, sự chi phối của thế giới quan và nhân sinh quan đối với hoạt động của sinh viên thể hiện rất rõ nét. Nhìn chung, hệ thống định hướng giá trị của sinh viên cũng có những hướng phát triển mới, song có thể thấy rằng, đây là những nét tính cách xã hội mới đang được định hình và phát triển theo xu hướng phát triển của xã hội. Nếu được quan tâm đúng mức, nó sẽ là những định hướng giá trị có lợi cho sự phát triển xã hội. 1.3.3. Phẩm chất nghề nghiệp: 1.3.3.1. Khái niệm phẩm chất Theo từ điển “phẩm chất là giá trị tốt đẹp của con người hay của vật gì” [30, tr.1323]. Xét theo góc độ đánh giá về tâm lý con người, khi nói đến phẩm chất là nói đến thái độ của con người đối với hiện thực (tự nhiên, xã hội, người khác và cả bản thân), có nghĩa nó là hệ thống những thuộc tính tâm lý biểu hiện các mối quan hệ xã hội cụ thể của người đó. Phẩm chất đồng nghĩa với Đức (Theo quan niệm đánh giá của người Việt Nam, nhân cách là một thể thống nhất giữa hai mặt Đức và Tài) bao gồm : + Phẩm chất xã hội (hay đạo đức chính trị): thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, lập trường, thái độ chính trị, thái độ lao động,… + Phẩm chất cá nhân (hay đạo đức tư cách): các nết, các thói, các “thú” (ham muốn).
  19. + Phẩm chất ý chí: tính kỷ luật, tính tự chủ, tính mục đích, tính quả quyết, tính phê phán,… + Cung cách ứng xử: tác phong, lễ tiết, tính khí,… [13, tr.82] 1.3.3.2. Phẩm chất nghề nghiệp Trong bất cứ hoạt động nào của con người, để thực hiện có hiệu quả một công việc hay một hoạt động nào đó, con người cần phải có một số phẩm chất tâm lý cần thiết phù hợp với nghề. Tuỳ thuộc vào nội dung và tính chất của đối tượng, mà hoạt động đòi hỏi ở chủ thể những yêu cầu xác định, nói cách khác, mỗi hoạt động khác nhau, mỗi nghề nghiệp khác nhau, với tính chất và mức độ khác nhau sẽ đòi hỏi cá nhân có những phẩm chất tâm lý nhất định phù hợp với nghề nghiệp đó được gọi là phẩm chất nghề nghiệp Vai trò của những phẩm chất tâm lý phù hợp nghề là rất quan trọng. Nhà Tâm lý học Xô Viết B.Ph. Lômôp coi các nhân tố tâm lý, các phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề là tiềm năng phát triển bậc nhất của năng suất lao động, hiệu quả lao động. “Điều quan trọng của sự hoàn thiện lao động của con người là sự phân tích tâm lý của họ, đặc biệt là làm rõ những đòi hỏi do hoạt động đó đề ra đối với tri giác và chú ý, trí nhớ và tư duy, xúc cảm và ý chí của con người, đồng thời xác định cách thức có hiệu quả nhất để hình thành các phẩm chất tâm lý quan trọng đối với hoạt động cụ thể nào đó” [19]. Những phẩm chất tâm lý phù hợp với nghề nghiệp của cá nhân, được hình thành chủ yếu qua ba con đường sau: + Những phẩm chất được hình thành do giáo dục chung hoặc do bẩm sinh đem lại + Những phẩm chất hình thành và phát triển thông qua giáo dục, đào tạo chuyên môn. Nhấn mạnh vai trò của giáo dục đào tạo trong việc hình thành phẩm chất nghề nghiệp, trong nghiên cứu của mình, tác giả Lêvitôp đã đánh giá rằng: trong quá trình học nghề, thanh niên sẽ được giáo dục một loạt các phẩm chất quan trọng như: tính chính xác và cẩn thận, tính tháo vát, tính tổ chức, tinh thần trách nhiệm và tính độc lập,… [18, tr.220]. + Những phẩm chất hình thành và phát triển thông qua hoạt động nghề của cá nhân trong thực tiễn. Chỉ trong tiến trình của bản thân hoạt động mới rõ ra rằng, lĩnh vực hoạt động đó có phù hợp hay không?
  20. Trong điều kiện xã hội phát triển, hai con đường đầu tiên có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tất cả các nghề nghiệp đều đòi hỏi có sự chuẩn bị trước những điều kiện lao động cho chủ thể thông qua giáo dục và đào tạo nghề. Trong thực tiễn nền giáo dục xã hội, giáo dục phổ thông đã thực hiện nhiệm vụ giáo dục chung, cung cấp cho học sinh những tri thức khoa học cơ bản làm nền tảng để tiếp thu những tri thức chuyên môn, đồng thời hình thành và phát triển ở học sinh những phẩm chất tâm lý cơ bản có thể đáp ứng chung cho nhu cầu của nhiều ngành nghề lao động ở mức cơ sở. Hệ thống giáo dục chuyên nghiệp có nhiệm vụ cung cấp cho người học hệ thống tri thức chuyên môn sâu góp phần hình thành và phát triển những phẩm chất tâm lý cần thiết trực tiếp cho hoạt động nghề. Trong thực tế việc tuyển chọn “đầu vào” trong tuyển sinh của các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và đào tạo nghề, chính là việc tận dụng những phẩm chất phù hợp nghề đã có do giáo dục chung và bẩm sinh đem lại. Quá trình giáo dục chuyên nghiệp – đào tạo nghề là cung cấp tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo nghề, bồi dưỡng thái độ, thói quen và hành vi đúng đắn. Nếu ngay trong quá trình đào tạo, các chủ thể lao động tương lai đã có và phát triển được những phẩm chất phù hợp nghề cao, thì sẽ tiết kiệm được cho xã hội và cá nhân một phần không nhỏ hao phí kinh tế và năng lượng tinh thần dùng cho việc rút kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn, đồng thời tránh được những thiệt hại khó lường do chưa có sự thích ứng kịp của cá nhân đối với yêu cầu của hoạt động. Những cấu trúc tâm lý cá nhân cho phép chỉ đạo hành vi của mình một cách tự giác, tích cực, điều chỉnh những phẩm chất tâm lý của chính mình theo tiêu chuẩn đã định trước làm cho bản thân phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của hoàn cảnh, môi trường và điều kiện xã hội, đó chính là sự thích ứng tâm lý - xã hội. Sự thích ứng này có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tâm lý cá nhân. Nhờ sự thích ứng, con người biến đổi hệ thống hành vi đã có, hình thành những ứng xử mới phù hợp với yêu cầu, điều kiện để đảm bảo cho con người duy trì được trạng thái cân bằng tâm lý, tồn tại được trong hoạt động mới hay trong môi trường nhiều biến động. Ngoài ra để thích ứng, con người không chỉ hình thành những ứng xử mới mà còn hình thành cấu tạo tâm lý mới, hay nói cách khác là những phẩm chất tâm lý mới phù hợp với điều kiện mới, làm cho con người trưởng thành hơn và có vai trò quan trọng trong sự phát triển tâm lý của mỗi cá nhân. Như vậy, sự thích ứng là điều kiện cần, đảm bảo cho sự thành công của cá nhân trong hoạt
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2