intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần của người dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

85
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài phân tích một số ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của người dân tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Qua đó nêu ra đề xuất và khuyến nghị với GHPGVN tỉnh Bắc Ninh và các ban ngành trong tỉnh về công tác tôn giáo trong tình hình mới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Tôn giáo học: Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần của người dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- PHÙNG THỊ LĨNH (THÍCH NHUẬN AN) ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC Hà Nội-2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- PHÙNG THỊ LĨNH (THÍCH NHUẬN AN) ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI DÂN TRONG ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Tôn giáo học Mã số: 60 22 03 09 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Tố Uyên Hà Nội-2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các tư liệu, nguồn trích dẫn, ví dụ trong luận văn này đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận trong luận văn dựa trên những cứ liệu khoa học đã được trình bày và chưa từng công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Phùng Thị Lĩnh
  4. LỜI CẢM ƠN Trải qua hơn hai năm học tập, đến nay luận văn đã hoàn thành. Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã tận tình dạy bảo trong suốt thời gian theo học tại khoa Sau Đại học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả cũng trân trọng cảm ơn Chư tôn đức GHPGVN tỉnh Bắc Ninh đã tạo điều kiện để con hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình; đồng thời tác giả xin cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô Bộ môn Tôn giáo học, PGS, TS. Trần Thị Kim Oanh chủ nhiệm bộ môn, tập thể lớp chuyên ngành Tôn giáo học. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn, TS. Nguyễn Thị Tố Uyên. Cô đã trực tiếp định hướng nghiên cứu cho luận văn này, đồng thời chỉ dạy tận tình cho tôi ngay từ cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu cho đến khi luận văn này hoàn thành. Là một tu sĩ Phật giáo nên khả năng lĩnh hội tri thức thế học chưa nhiều. Mặc dù bản thân đã ý thức trong quá trình thực hiện đề tài, nhưng chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả hoan hỷ rất mong nhận được sự chỉ dẫn và những ý kiến góp ý của thầy cô, đồng nghiệp. Xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, tháng 10 năm 2019 Tác giả luận văn Phùng Thị Lĩnh
  5. MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU..................................................................................................... 4 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 4 2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 5 3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu ....................................................... 10 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................ 10 5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu .................................................. 11 6. Ý nghĩa của đề tài ........................................................................................ 11 7. Kết cấu của đề tài ........................................................................................ 12 CHƢƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO .................................................................................... 13 1.1. Khái quát về Phật giáo và Phật giáo ở Bắc Ninh ................................ 13 1.1.1. Sự ra đời của Phật giáo ........................................................................ 13 1.1.2. Phật Giáo ở Bắc Ninh ........................................................................... 18 1.2. Khái quát về nhân sinh quan và nhân sinh quan Phật Giáo ............. 26 1.2.1. Một số quan niệm về nhân sinh quan.................................................... 26 1.2.2. Nội dung của nhân sinh quan Phật giáo ............................................... 29 Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 54 Chƣơng 2. NHỮNG ẢNH HƢỞNG CƠ BẢN CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI DÂN BẮC NINH VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ PHÁT HUY GIÁ TRỊ ............... 56 CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO .................................................... 56 2.1. Khái quát cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội, tình hình tín ngƣỡng tôn giáo ở Bắc Ninh ....................................................................................... 56 2.1.1. Điều kiện tự nhiên – xã hội ................................................................... 56 2.1.2. Tình hình tôn giáo, tín ngưỡng ở Bắc Ninh .......................................... 58 1
  6. 2.2. Thực trạng ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của ngƣời dân tỉnh Bắc Ninh. ...................................................... 59 2.2.1. Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến lối ứng xử với bản thân của người dân Bắc Ninh ........................................................................................ 59 2.2.2. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến lối ứng xử với tha nhân của người dân Bắc Ninh.................................................................................. 65 2.2.3. Ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đến lối ứng xử với môi trường của người dân Bắc Ninh ................................................................................................... 75 2.2.4. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến văn hóa, văn học, nghệ thuật ................................................................................................................. 80 3. Một số đề xuất khuyến nghị ..................................................................... 86 3.1. Với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bắc Ninh ..................................... 86 3.2. Với công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.............................................. 88 Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................... 90 KẾT LUẬN .................................................................................................... 92 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 95 2
  7. CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN Giáo hội Phật giáo Việt Nam : GHPGVN Nhân sinh quan : NSQ Nhân sinh quan Phật giáo : NSQ Phật giáo Vũ trụ quan : VTQ Vũ trụ quan Phật giáo : VTQ Phật giáo Nhà xuất bản : Nxb 3
  8. A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tôn giáo là một nhu cầu của bộ phận văn hóa tinh thần con người, của từng cộng đồng xã hội trong lịch sử và hiện tại. Phật giáo nảy sinh ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Công nguyên trong một bối cảnh xã hội có hệ thống tư tưởng triết học rất phong phú nhưng lại có sự phân hóa giai cấp sâu sắc. Phật giáo ra đời vừa là một trào lưu triết học vừa là một tôn giáo với mục đích hướng con người vượt qua những khổ đau, mất mát để giải thoát giác ngộ, đem hòa bình cho thế giới. Phật giáo theo các thương gia Ấn Độ hiện diện ở nước ta vào những năm đầu Công nguyên. Qua những tư liệu thành văn ghi lại được đã cho thấy đến khoảng thế kỷ thứ II – III sau Công nguyên, trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Dâu hoạt động khá nhộn nhịp với hình ảnh Thái thú Sĩ Nhiếp mỗi khi ra đường đều có Hồ tăng đốt hương theo hầu. Qua lời Đàm Thiên đối đáp với Linh Nhân Hoàng Thái Hậu cho thấy, trung tâm Phật giáo Luy Lâu thời Sĩ Nhiếp đã hiện diện một tăng đoàn lớn mạnh, dịch kinh, xây tháp,... Điều này cho thấy, Phật giáo đã sâu gốc bền rễ và có ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của nhân dân nói chung và người dân Bắc Ninh nói riêng trong lịch sử. Ngày nay, trong bối cảnh công cuộc đổi mới của đất nước, Bắc Ninh là một tỉnh không lớn so với các tỉnh nằm trong vùng đồng bằng Bắc bộ, song lại có sự tăng trưởng kinh tế, văn hóa rất mạnh nên có sự tác động tích cực và tiêu cực không nhỏ đến đời sống vật chất và tinh thần của người dân nơi đây. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu làm rõ ảnh hưởng của tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo đối với đời sống tinh thần nhân dân Bắc Ninh hiện nay là cần thiết. Bởi tỉnh Bắc Ninh không chỉ nằm gọn trong vùng đất thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng mà còn là cái nôi của Phật giáo – trung tâm Phật giáo Luy Lâu – Dâu thuộc huyện Thuận Thành ngày nay. 4
  9. Trên cơ sở vận dụng các phương pháp nghiên cứu, đề tài sẽ phân tích các thông tin lịch sử và các dữ kiện thu thập được trong quá trình điền dã, khảo sát một số cộng đồng tín đồ Phật tử ở một số ngôi chùa tiêu biểu trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh hiện nay nhằm làm rõ những ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh hiện nay. Vì thế, chúng tôi lựa chọn đề tài "Ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần của ngƣời dân trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh" làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu Trong quá trình tìm hiểu về nhân sinh quan Phật giáo và những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh hiện nay. Chúng tôi nhận thấy rằng, có hai hướng tiếp cận chủ yếu trong các công trình nghiên cứu của các học giả đi trước đối với vấn đề này, đó là: 1. Cách tiếp cận triết học, đây là cách tiếp cận khoa học khi nghiên cứu về nhân sinh quan nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng. Cách tiếp cận này làm sáng tỏ những quan niệm nhân sinh quan của một số tôn giáo, về vai trò, giá trị trong đời sống của tín đồ và 2. cách tiếp cận triết học tôn giáo được xem là tiếp tục "mã hóa", "cụ thể hóa" các khái niệm từ cách tiếp cận thứ nhất. Soi chiếu vào các sinh hoạt, hoạt động cụ thể của từng tôn giáo. Hay nói cách khác, với cách tiếp cận này đã cho thấy ảnh hưởng của nhân sinh quan đối với đời sống tinh thần của cá nhân các tín đồ tôn giáo hoặc trong cộng đồng tôn giáo rất rõ ràng. Ngoài những tài liệu mà đề tài thu thập liên quan đến nhân sinh quan, nhân sinh quan Phật giáo còn có nhiều tài liệu hướng về giải thích nhân sinh quan theo các chiều cạnh khách nhau nhằm chứng minh nguồn gốc quan niệm nhân sinh nói chung và quan niệm nhân sinh của Phật giáo nói riêng. Tuy nhiên, trong phạm vi khuôn khổ của một luận văn, đề tài sẽ chỉ đề cập đến những tư liệu chính nhằm phân tích, giải thích theo hướng sâu chuỗi để các vấn đề nhân sinh quan được sáng tỏ trên phương diện triết học và triết học tôn giáo. 5
  10. Về nhân sinh quan, hiện nay đã có nhiều công trình, bài tạp chí hay các bài viết chuyên sâu nghiên cứu. Đó là các công trình Lịch sử triết học của GS.TS. Nguyễn Hữu Vui chủ biên (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, của GS. TS. Nguyễn Hùng Hậu (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002), Triết học phương Đông - Triết học Ấn Độ của Hà Thúc Minh (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992), Tứ diệu đế do Võ Quang Nhân dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính (Nxb Tôn giáo. Hà Nội, 2007), Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ của học giả Doãn Chính (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997),... Nhìn chung, nguồn tư liệu trên đã chỉ ra được khái niệm NSQ và NSQ Phật giáo. Chẳng hạn, PGS.TS. Dương Văn Thịnh trên phương diện triết học nhận định con người và xã hội loài là một bộ phận cấu thành nên thế giới và có quan hệ chặt chẽ với toàn bộ thế giới (Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2011) hay GS.TS. Đỗ Quang Hưng nhận xét trên phương diện triết học tôn giáo đã cho rằng NSQ có vị trí vô cùng to lớn trong thần học Kitô giáo và giáo lý Phật giáo (Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2011),... Ngoài ra còn một số tài liệu đề cập đến NSQ của Nho giáo như Đến hiện đại từ truyền thống của học giả Trần Đình Hượu (Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1996), Việt Nam văn hóa sử cương của học giả Đào Duy Anh (Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2006),... Về nhân sinh quan Phật giáo, có nhiều tài liệu đề cập sâu sắc về vấn đề này. Đó là các công trình: Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống tinh thần ở Việt Nam của Lê Hữu Tuấn, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 1999; Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, của GS. TS. Nguyễn Hùng Hậu (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002), Khổ đau phát sinh và vận hành như thế nào của Hoàng Phong (Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2002), Vô ngã là niết bàn của Thích Thiện Siêu (Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2002); Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam và sự biến đổi của nó trong quá trình đổi mới hiện nay của Mai Thị Dung, Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2003; Một số tôn giáo ở Việt Nam của Ban tôn 6
  11. giáo Chính Phủ (Lưu hành nội bộ, 1995), Tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ của Doãn Chính (Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997), Lịch sử Phật giáo Việt Nam do học giả Nguyễn Tài Thư chủ biên (Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998), Kinh văn của các trường phái triết học Ấn Độ do Doãn Chính chủ biên (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003), Lịch sử nhà Phật của Đoàn Trung Còn (Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2007), Đạo Phật và dòng sử Việt của Đức Nhuận (Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2008), Kinh Từ Bi của Thích Nguyên Hiệp (2010); Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần người Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Nguyến (Thích Diệu Luyến), Luận văn thạc sĩ Triết học, Hà Nội, 2011; Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của cư dân Đồng bằng Sông Hồng hiện nay của Nguyễn Thị Thúy Hằng, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2015,... đây là những nguồn tài liệu chỉ ra cơ sở hình thành, quan niệm về NSQ của Phật giáo trên các phương diện: Bối cảnh lịch sử của đạo Phật, người sáng lập đạo Phật; sự kết tập kinh điển Phật giáo để có được hệ thống quan niệm đầy đủ về nhân sinh trên ba phương diện chính là quan niệm về con người, ứng xử giữa con người với con người và ứng xử của con người với thiên nhiên,... Có thể thấy, khuynh hướng tiếp cận này đã chỉ ra những quan niệm cơ bản về nhân sinh quan và nhân sinh quan Phật giáo, đặc biệt là từ các nhà khoa học tiếp cận theo triết học. Về ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đối với đời sống tinh thần của nhân dân nói chung và nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Có thể thấy, phần lớn các công trình đều tiếp cận triết học tôn giáo. Các công trình này cho biết sâu sắc hơn về quan niệm về nhân sinh của Phật giáo trong tiến trình lịch sử Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là ở tỉnh Bắc Ninh. Trước hết là các công trình lịch sử như Dư địa chí do Phan Duy Tiếp dịch - Hà Văn Tấn hiệu đính và chú thích, (Nxb Sử học, Hà Nội, 1960), Lịch triều hiến chương loại chí (Nxb Sử học, Hà Nội, 1960), Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí,…đặc biệt là công trình 7
  12. Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, Kinh Bắc phong thổ ký diễn quốc sự của Trần Văn Giáp (Ty Văn hóa Hà Bắc xuất bản năm 1971) đã cho biết về địa lý cũng như vị trí và vai trò văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo ở tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử. Về ảnh hưởng của văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo đối với nhân dân ở tỉnh Bắc Ninh trong lịch sử. Trong công trình Việt Nam cái nhìn địa - văn hóa của GS. Trần Quốc Vượng (Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội) đã xem các trung tâm chính trị, văn hóa, tôn giáo Xứ Bắc đều ở trên bờ những dòng sông Dâu và sông Đuống; Công trình Luy Lâu lịch sử và văn hóa của tác giả Trần Đình Luyện (Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bắc Ninh xuất bản, 1999) tiếp tục khẳng định rõ hơn về sự ảnh hưởng của trung tâm Phật giáo ở Luy Lâu – Dâu trên nhiều phương diện, từ chính trị, kinh tế, văn hóa cho đến đời sống tín ngưỡng tôn giáo của người dân nơi đây,… Mà ngày nay, người dân Bắc Ninh rất tự hào về truyền thống văn hóa nổi bật là văn hóa Phật giáo. Trên phương diện lịch sử, ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đối với đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh còn được thể hiện qua các ngôi chùa, qua các truyền thuyết,... GS. Trần Quốc Vượng trong công trình Việt Nam cái nhìn địa – văn hóa đã chỉ ra, các trung tâm văn hóa cổ nhất Việt Nam chính là chùa Phật Tích, chùa Tứ Pháp, chùa Kiến Sơ và chùa Lục Tổ. Cố GS. Trần Quốc Vượng nhấn mạnh, các ngôi chùa này đều phân bố trên bờ Dâu - Tiêu Tương (Nxb Văn hóa Dân tộc, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật). Khi nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Lang trong công trình Việt Nam Phật giáo sử luận, (Nxb Văn học, 1992) đã cho biết những nhà sư Ấn Độ đã đem Phật giáo tới Việt Nam vào đầu công nguyên. Còn PGS. Nguyễn Duy Hinh khi nghiên cứu các tài liệu cổ như Lĩnh Nam chích quái, Thiền uyển tập anh, Đại Việt sử ký toàn thư,... cho rằng ở Luy Lâu – Dâu thời kỳ đầu Phật giáo truyền nhập còn có cả Siva giáo với tục thờ Đá mang tính phồn thực, đồng thời còn diễn tả hình tượng giao cấu thiêng của một tu sĩ Ấn Độ với một Bà Mẹ người Việt. Và như thế, sự giao thoa giữa Phật giáo với tín ngưỡng bản địa đã hình 8
  13. thành lên hiện tượng thờ Tứ Pháp vô cùng đặc sắc trong Phật giáo Việt Nam, người tu hành đầu tiên của người Việt được biết đến là Nữ giới, và bà được nhân dân Bắc Ninh tôn xưng là Phật mẫu Man Nương. Sau này, các công trình viết về lịch sử Phật giáo Việt Nam đều đề cập đến các ngôi chùa được xây dựng vào thời Lý – Trần ở tỉnh Bắc Ninh và những ảnh hưởng của Phật giáo trong văn học nghệ thuật, điêu khắc, kiến trúc,... qua các thời kỳ. Một số công trình đề cập đến những hoạt động của Phật giáo. Có thể kể đến các công trình như Con đường học Phật ở thế kỷ thứ XX của Thiều Chửu (Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2002), Phật giáo Việt Nam (từ khởi nguyên đến 1981)của Bồ Đề Tân Thanh - Nguyễn Đại Đồng (Nxb Văn học, Hà Nội, 2012),... Tuy đã có nhiều công trình đã chỉ ra một số ảnh hưởng của Phật giáo nói chung và NSQ Phật giáo nói riêng đối với đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh trong lịch sử. Song về ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống của người dân Bắc Ninh hiện nay thì ít có công trình đề cập một cách rõ ràng, trực tiếp. Hiện nay, theo sự tìm hiểu của đề tài, chỉ một số bài viết in trong Hội thảo khoa học: Vai trò của Phật giáo trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc, xây dựng đời sống văn hóa ở Bắc Ninh và vấn đề phát huy tinh thần yêu nước của Tăng ni, tín đồ Phật tử, Bắc Ninh (Sở Nội vụ Bắc Ninh – Ban tôn giáo, 2019). Phần lớn các công trình nghiên cứu khác đều đi sâu nghiên cứu về kiến trúc, điêu khắc, hoặc ảnh hưởng trong văn học dân gian hay tục lệ,... Có thể kể đến các công trình như Chùa Việt của GS. Trầm Lâm Biền (Nxb. Văn học, Hà Nội, 1998), Bài diễn ca sự tích đền bà Tấm của Trần Văn Giáp (Tạp chí Dân tộc học, số 3 năm 1975), Phụ nữ Việt Nam qua các đời của Lê Thị Nhâm Tuyết (Nxb KHXH, Hà Nội, 1975), Văn minh Việt Nam của học giả nổi tiếng Nguyễn Văn Huyên (Nxb. Hội Nhà Văn, Hà Nội), Phật học phổ thông của HT. Thích Thiện Hoa (Nxb. Phương Đông, Hà Nội, 2011), và gần đây là Báo cáo sơ kết 06 tháng đầu năm 2019 – phương hướng, trọng tâm 06 tháng cuối năm 2019, của GHPGVN tỉnh Bắc Ninh,... 9
  14. Nhìn chung, đã có một số các công trình nghiên cứu sâu về tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và ảnh hưởng của Phật giáo trên các phương diện chính trị, văn hóa, kiến trúc, mỹ thuật,... Còn trên các phương diện ảnh hưởng của NSQ Phật giáo đối với cách ứng xử với chính bản thân, với tha nhân và với môi trường thì ít có công trình đề cập. Vì thế, việc tìm hiểu cụ thể hơn về ảnh hưởng của NSQ Phật giáo trên các phương diện này, đề tài kế thừa những kết quả nghiên cứu trước đó, đồng thời tiếp tục khảo sát thực tế trong cộng đồng Phật tử ở Bắc Ninh góp phần làm rõ hơn ảnh hưởng của NSQ phật giáo đối với đời sống tinh thần người dân Bắc Ninh trong bối cảnh đương đại. Đối với những người theo Kitô giáo, Tin Lành và một số hiện tượng tôn giáo mới, hoặc những gia đình theo hai, ba tôn giáo,... những sinh hoạt, hoạt động tôn giáo khác,... chúng tôi thiết nghĩ cũng cần được tiếp tục nghiên cứu ở những công trình sau này. 3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài phân tích một số ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của người dân tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Qua đó nêu ra đề xuất và khuyến nghị với GHPGVN tỉnh Bắc Ninh và các ban ngành trong tỉnh về công tác tôn giáo trong tình hình mới. 3.2. Nhiệm vụ của nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, đề tài tập trung làm rõ những nhiệm vụ sau: Thứ nhất, khái quát về nhân sinh quan và nhân sinh quan Phật giáo Thứ hai, tìm hiểu những ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống người dân Bắc Ninh trong lịch sử và đặc biệt là trong hiện tại. 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo Bắc tông và những ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống tinh thần của người dân ở tỉnh Bắc Ninh. 10
  15. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo và những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong cộng đồng người dân ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Trong phạm vi cho phép tác giả chỉ tập trung đề cập những ảnh hưởng tích cực của nhân sinh quan Phật giáo, trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy vai trò tích cực của nhân sinh quan Phật giáo . 5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn triển khai dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, lý luận chung về tôn giáo học, xã hội học tôn giáo và Phật học. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình triển khai nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp lịch sử để làm rõ quá trình hình thành và phát triển của nhân sinh quan Phật giáo. Đồng thời, luận văn sử dụng phương pháp quan sát và phỏng vấn để thấy được những ảnh hưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh hiện nay. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, các phương pháp nghiên cứu liên ngành như triết học, triết học tôn giáo, xã hội học tôn giáo, đạo đức học,... nhằm phân tích, đối chiếu, so sánh để thấy được những quan niệm nhân sinh của Phật giáo và những ảnh hưởng cơ bản của nó trong đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh đương đại. 6. Ý nghĩa của đề tài - Đề tài góp phần làm rõ những ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đối với người dân Bắc Ninh trong lịch sử và hiện tại; đồng thời chỉ ra những mặt tích cực và một số hạn chế trong đời sống tinh thần của người dân Bắc Ninh hiện nay. - Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với sinh viên chuyên ngành Triết học, Tôn giáo học và làm tài liệu tham khảo trong các trường Trung cấp Phật học trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 11
  16. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần Mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài nghiên cứu khoa học bao gồm 2 chương với 5 tiết. 12
  17. CHƢƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẬT GIÁO VÀ NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO 1.1. Khái quát về Phật giáo và Phật giáo ở Bắc Ninh 1.1.1. Sự ra đời của Phật giáo Về bối cảnh lịch sử tư tưởng và xã hội: Thời kỳ đạo Phật ra đời vào thế kỷ thứ VI tại Bắc Ấn Độ. Ở thời kỳ này, tư tưởng triết học, tôn giáo rất phong phú, đa dạng. Đó là sự tồn tại của nhiều loại hình tôn giáo và nhiều trường phái triết học khác nhau như Số luận, Du Già, Phệ Đà Đa,... trong đó nổi bật nhất là Bà La Môn giáo. Về xã hội chia làm bốn giai cấp, đó là giới tăng lữ Bà La Môn; giới vua quan quý tộc; giới buôn bán, người làm thủ công giàu có và giới nô lệ, nông nô. Ngoài ra còn một loại tiện dân là hạng cùng đinh nhất trong xã hội sống trong công xã nông thôn với chế độ quốc hữu ruộng đất. Đúng như nhận xét của GS.TS. Nguyễn Hữu Vui cho rằng "sự tồn tại dai dẳng của công xã nông thôn và chế độ quốc hữu về ruộng đất là hai đặc điểm lớn nhất, ảnh hưởng tới toàn bộ các mặt của lịch sử Ấn Độ. Từ hai đặc điểm trên, dẫn tới hệ quả là các bước phát triển của lịch sử xã hội Ấn Độ thời cổ không mạch lạc như lịch sử xã hội của các nước châu Âu. Thực sự ở Ấn Độ không có quan hệ phong kiến giống như kiểu ở Hy – La, cũng không có kiểu quan hệ phong kiến giống như ở các nước Tây Âu. Ở Ấn Độ, nô lệ chưa bao giờ là lực lượng sản xuất chủ yếu, họ chưa bao giờ trở thành nông nô như ở Tây Âu phong kiến… Mặt khác, quan hệ đẳng cấp ở Ấn Độ càng làm cho kết cấu xã hội – giai cấp thêm phức tạp"[79, tr. 109]. Trong bối cảnh đó, đạo Phật ra đời với quan niệm mới đã đem lại một luồng tư tưởng mới về tinh thần từ bi, bình đẳng giai cấp, bình đẳng tôn giáo. Tuy nhiên, theo kinh điển Phật giáo, Thích Ca Mâu Ni là nhân vật lịch sử, nhưng trên phương diện tôn giáo thì Ngài lại một trong muôn vàn chư Phật. 13
  18. Trước ngài đã có nhiều vị Phật quá khứ và sau ngài sẽ còn nhiều vị Phật tương lai. Thái tử Tất Đạt Đa – người sáng lập Phật giáo: Câu chuyện về cuộc đời Đức Phật rất quan trọng trong lịch sử hình thành đạo Phật. Nhưng sẽ đặc biệt hơn, nếu đặt câu chuyện trong đời sống cộng đồng tín đồ Phật giáo. Bởi chỉ có cộng đồng Phật giáo mới cảm nhận, chiêm nghiệm được những huyền diệu từ cuộc đời ngài. Và sâu sa hơn, cuộc đời Đức Phật đã và đang là mô hình lý tưởng nhất để tín đồ Phật tử học tập, tu tập và giải thoát, đồng thời cũng chỉ ra cho con người hiện sinh một nếp sống đúng đắn trong xã hội đầy biến động. Kinh Bản sinh ghi chép về cuộc đời Đức Phật bắt đầu với ngày Phật đản sinh. Đây là câu chuyện về sự tái sinh và niềm tin vào sự tái sinh bởi đó là quả của một cuộc đời tu tập, đạo hạnh của Đức Phật. Trong sự tái sinh cuối cùng này, kinh Bản sinh cho chúng ta biết Đức Phật được sinh ra trong một gia đình hoàng tộc và ngài là một vị Thái tử. Mẹ ngài, bà Maya mang thai ngài trong giấc mơ về một con voi trắng và sinh ra ngài trong khu rừng Lumbini thuộc dãy Himalaya gần Nepal ngày nay. Khi vừa mới sinh ra, ngài bước bảy bước trên bảy đóa hoa sen, tay trái chỉ lên trời tay phải đất và nói "Thiên thượng địa hạ duy ngã độc tôn". Sau khi ngài đản sinh, một vị tiên tri đến và tiên đoán rằng, nếu ngài vui sống trong gia đình hoàng gia thì ngài sẽ trở thành một bậc quân vương tài ba, nhưng nếu ngài từ bỏ hoàng gia cùng với những khoái lạc trần thế thì ngài trở thành một "Đấng Toàn Giác". Thời gian đầu, Thái tử Tất Đạt Đa đã sống và được giáo dục trong một môi trường lý tưởng, sung túc về vật chất và thoải mái về tinh thần. Nhưng trong một vài lần ra ngoài cung điện, Thái tử đã thấy cuộc sống thường ngày với nhiều khổ đau: Già – tương lai của mỗi người; người đau ốm – ai cũng có thể bị đau ốm; người chết - sự kết thúc cuộc sống của mỗi người; một vị tu sĩ khắc khổ – người đi tìm sự giải thoát khỏi thế giới đau khổ. Tất cả những gì Thái tử chứng kiến đều mang tính biểu tưởng cho cuộc đời, 14
  19. nhưng đã thôi thúc ngài rời bỏ hoàng gia và thực hiện cuộc sống khổ hạnh nhằm mục đích thoát khỏi những khổ đau đã thấy. Qua sáu năm khổ hạnh dưới sự dẫn dắt của nhiều vị tu sĩ, nhưng không một vị nào làm cho ngài hài lòng bởi cuộc sống tu hành khổ hạnh đã không đem lại kết quả như mong đợi. Ngài đã từ bỏ lối tu khổ hạnh ấy và đón nhận bát sữa từ một thiếu nữ chăn bò và ngài đã khám phá con đường "Trung dung" giữa hai lối sống giàu sang và khổ hạnh. Không lâu sau, vị Phật tương lai ngồi dưới tán cây Bồ đề tu tập và quyết không dời bỏ chốn này nếu không giác ngộ. Sau khi giác ngộ, Đức Phật đã giảng dạy cho năm vị khổ tu cùng với ngài trước đây, đó là Tứ diệu đế và từ đây bánh xe Pháp đầu tiên đã dịch chuyển. Sau gần 50 năm với sự nghiệp hoằng pháp, vào một ngày Ngài nhắc nhở tín đồ về tính Vô thường của sự vật, cần phải lấy chuyên cần trong tu tập thực hành để giác ngộ, giải thoát rồi sau đó, ngài nhập Niết bàn. Tứ diệu đế là những nguyên lý đầu tiên được ngài khám phá và thuyết giảng và dần dần ngài thiết lập đời sống tu tập cho mọi tín đồ Phật giáo noi theo. Tuy nhiên, thời gian đầu những lời Đức Phật thuyết giảng không được ghi lại bằng văn tự, vì thế phải qua những lần kết tập kinh điển thì giáo lý mới có hệ thống. Và qua hệ thống giáo lý mới thấy rõ quan niệm về vũ trụ và nhân sinh của đạo Phật, đặc biệt là quan niệm về nhân sinh trong Phật giáo Đại thừa. Vì thế, ở đây, chúng tôi xin được nhắc lại một cách khái quát nhất về quá trình kết tập kinh điển. Bởi chỉ khoảng 100 năm sau ngày Đức Phật nhập diệt, sự phát triển của đạo Phật được mở rộng. Tuy nhiên, mỗi vùng đất mà Phật giáo truyền đến có những sự khác biệt về văn hóa xã hội và đây được xem là nguyên nhân chính dẫn đến những bất đồng trong việc nhận thức lời Phật dạy trước đó chủ yếu là phương thức truyền miệng. Cho nên, Phật giáo đã phân hóa thành nhiều bộ phái nhằm thích ứng với những môi trường mà đạo Phật truyền tới. Lần kết tập thứ nhất tại thành Vương Xá có 500 vị La Hán được Ca Diếp mời dự dưới sự bảo trợ của vua A Xà Thế, xứ Ma Kiệt Đà. Khi đức Phật nhập 15
  20. diệt, không lâu sau đã xuất hiện những kiến giải bất đồng về lời Phật dạy. Để tránh sự sai biệt, và bảo tồn các giáo pháp và luật lệ được toàn vẹn, Ma Ha Ca Diếp đã đề nghị kết tập và hệ thống hóa lời dạy của đức Phật lại thành kinh điển với mục đích không để xảy ra tình trạng hiểu sai lầm về giáo pháp. Trong cuộc kết tập này, A Nan Đà chính là người đã đứng ra trì tụng những điều đức Phật đã thuyết giảng và Upani kể về Giới luật. Sau cuộc kết tập, bốn bộ kinh đầu tiên được chép lại. Đó là kinh Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm và Tạp A Hàm. Bốn bộ kinh này được xem là các tài liệu cổ nhất ghi lại cuộc đời của đức Phật và những hoạt động của Tăng đoàn, đánh dấu bước hình thành Kinh tạng và Luật tạng vô cùng quan trọng sau này. Lần kết tập thứ hai tại tại thành Tì Xá Ly sau lần kết tập thứ nhất một trăm năm. Lần kết tập thứ hai này có 700 vị Tỳ kheo tham dự. Hội nghị kết tập lần thứ hai cơ bản là để thảo luận về những thay đổi một số chi tiết trong giới luật. Ngoài ra, đại hội còn nhằm mục đích ngăn không để tư tưởng của các đạo khác thâm nhập vào giáo lý Phật giáo. Kết quả là trong hội nghị, những người không đồng ý với việc giữ nguyên giới luật ban đầu đã bỏ ra để tổ chức một hội nghị kết tập riêng và thành lập Đại chúng bộ và số người còn lại vẫn tiếp tục kết tập kinh điển, sau đó hình thành Thượng tọa bộ,… Như vậy, Hội nghị này đánh dấu sự phân hóa về tổ chức của Tăng đoàn. Thượng tọa bộ gồm thiểu số các vị Trưởng lão có khuynh hướng bảo thủ, Đại chúng bộ gồm đa số Tỳ kheo trẻ tuổi có khuynh hướng cấp tiến, mà nhiều nhà nghiên cứu Phật học sau này cho rằng, tư tưởng của Đại chúng bộ làm nảy sinh nhiều quan niệm mới về chư Phật, đặc biệt là Bồ tát, là mầm mống cho việc hình thành phong trào Phật giáo Đại thừa sau này. Lần kết tập thứ ba dưới triều vua A Dục thế kỷ 3 trước Công nguyên. Vua A Dục là người mộ đạo nên Phật giáo được ưu đãi rất lớn. Số lượng tăng ni đông đảo và trong đó cũng không ít kẻ cơ hội trà trộn tăng đoàn gây nên những mối bất hòa. Trước thực trạng như vậy, vua A Dục đã khởi xướng và bảo trợ cho Hội 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2