intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:104

38
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Kết cấu của Luận văn gồm phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung chính của Luận văn có 3 chương: Chương 1 - Vai trò của việc đào tạo nguồn nhân lực đối với ngành Y tế Việt Nam hiện nay trong công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân; Chương 2 - Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế Việt Nam hiện nay (qua khảo sát một số cơ sở đào tạo cán bộ y tế). Chương 3 - Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế Việt Nam hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Triết học: Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế ở Việt Nam hiện nay

  1. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Qua hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với phương châm công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2020 đưa đất nước cơ bản trở thành nước công nghiệp. Với đường lối chính sách và cơ chế hợp lý, cùng với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp với điều kiện cụ thể, Việt Nam đã thực hiện được chủ trương đa dạng hóa thị trường, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tranh thủ được các nguồn lực từ bên ngoài và chủ động phát huy nội lực, nền kinh tế đất nước đã có những bước phát triển vượt bậc với tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng trưởng bình quân tăng gần 8% năm, xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững. Động lực cơ bản đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra, chính là nguồn nhân lực được đào tạo, đó là nhân tố con người tham gia trực tiếp vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển. Là nhân tố quyết định mọi thắng lợi".[ 9, tr 120]. Muốn thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết phải chú trọng đến phát triển nguồn nhân lực mà chất lượng nguồn nhân lực đó phụ thuộc vào chất lượng giáo dục. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX chỉ rõ: "Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy - học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hóa hiện đại hóa và xã hội hóa".[11, tr 132] Bên cạnh nhu cầu bức thiết nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế trọng điểm, thì nhu cầu về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân đã đặt ra những áp lực lớn của xã hội với mục tiêu của ngành y tế là đảm bảo cho mọi người được chăm sóc sức khỏe cơ bản với chi phí thấp, góp phần thực hiện công
  2. bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn hóa, trật tự an toàn xã hội, tạo niềm tin của nhân dân đối với xã hội chủ nghĩa. Trước yêu cầu của xã hội, để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì vấn đề chăm sóc sức khỏe cho nhân dân đã được Đảng, Nhà nước và Chính phủ đề cao. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ IV đã đề ra: "Một số vấn đề cấp bách trong sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân", Nghị quyết 37 của Chính phủ về "Định hướng chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân đến năm 2000 và 2020" đã cho thấy tầm quan trọng của vấn đề đó. Tuy nhiên, việc chăm sóc và sức khỏe cho nhân dân có tốt hay không thì một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu là đội ngũ cán bộ y tế, đó là nguồn nhân lực, là người trực tiếp khám và cung cấp các dịch vụ y tế cho nhân dân. Các dịch vụ này có tốt hay không phần lớn phụ thuộc vào chính bản thân người thầy thuốc. Một người thầy thuốc giỏi về chuyên môn, tận tụy với nghề nghiệp, có lương tâm đạo đức tốt thì chất lượng phục vụ sẽ tốt , đặc biệt là ở những vùng khó khăn về kinh tế, vùng sâu vùng xa, hải đảo nơi mà cán bộ y tế vừa thiếu, vừa yếu trang bị còn nhiều thiếu thốn thì vai trò của người thầy thuốc còn quan trọng hơn nữa. Từ nhận thức đó, chúng tôi chọn đề tài “Vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế ở Việt Nam hiện nay” để thực hiện luận văn tốt nghiệp thạc sĩ triết học đồng thời mong góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực y tế ở nước ta hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu Nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực nói chung, và nguồn nhân lực trong ngành Y tế nói riêng, gần đây có nhóm đề tài đề cập đến vấn đề đó: - Đề tài khoa học “Nghiên cứu quản lý nguồn nhân lực y tế trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước" do tác giả Lê Quang Hoành 2
  3. cùng các cộng sự - thuộc “Viện chiến lược và chính sách y tế” thực hiện nhằm nêu lên những vấn đề bất cập, những khó khăn trong công tác quản lý nguồn nhân lực y tế ở các cấp đồng thời đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm giúp nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn nhân lực y tế đảm bảo về chất lượng và số lượng cho nhu cầu chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân trong thời kỳ CNH và HĐH đất nước. - Đề tài khoa học "Một số vấn đề về cơ sở khoa học, thực tiễn của việc xã hội hóa y tế" do Thạc sĩ Vũ Thị Minh Hạnh thực hiện nhằm làm rõ một số cơ sở khoa học và thực tiễn của vấn đề xã hội hóa y tế ở nước ta giai đoạn hiện nay. - Đề tài khoa học “Đánh giá hiệu quả hoạt động của bác sĩ xã/phường tại một số địa phương” do tác giả Lưu Hoài Chuẩn và các cộng sự thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động của bác sĩ tuyến xã/phường và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của họ. - Luận văn thạc sĩ khoa học triết học “Xu hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” do Tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân thực hiện nhằm phân tích những xu hướng và đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở nước ta trong thời kỳ CNH, HĐH. - Trong những năm gần đây đã có một số bài nghiên cứu, trao đổi xung quanh vấn đề đổi mới và phát triển nguồn lực lao động y tế đăng trên các tạp chí và website như website Việt báo, tạp chí Thông tin y học thư viện trung ương, tạp chí Y học công cộng, tạp chí Chính sách y tế… + PGS.TS Nguyễn Thị Kim Tiến - Thứ trưởng Bộ Y tế "Bốn rào cản chất lượng nguồn nhân lực y tế” đã chỉ ra nhiều vấn đề còn hạn chế về chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế. + Tác giả Thái Bình báo Sức khỏe và Đời sống “Đào tạo nguồn nhân lực y tế: mấu chốt nâng cao chất lượng khám chữa bệnh” nhằm tìm những 3
  4. bước đi thích hợp trong việc đảm bảo đào tạo được số lượng và chất lượng cán bộ y tế. - Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Y tế đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo mở rộng về vấn đề phát triển nguồn nhân lực y tế, gần đây nhất là hội thảo quốc gia về đào tạo nhân lực y tế theo nhu cầu xã hội được Bộ Giáo dục và Bộ Y tế phối hợp tổ chức giữa năm 2008 với mục tiêu đưa ra một số giải pháp cụ thể, khả thi nhằm nâng cao số lượng, chất lượng đào tạo nhân lực y tế đáp ứng nhu cầu xã hội trong thời gian tới. Các công trình trên đã phân tích nhiều vấn đề sâu sắc với một số lĩnh vực khác nhau để áp dụng vào thực tiễn. Tuy nhiên, đề tài này của chúng tôi tập trung nghiên cứu lĩnh vực đào tạo nhân lực y tế đáp ứng yêu cầu của ngành và nhu cầu chung của xã hội ở nước ta hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích: Trên cơ sở phân tích thực trạng đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Y tế ở nước ta hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế trong thời gian tới. * Nhiệm vụ: - Làm rõ vai trò của đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế hiện nay đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới. - Phân tích thực trạng đào tạo nguồn nhân lực y tế ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực y tế nhằm đáp ứng yêu cầu ngành và nhu cầu xã hội. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Công tác đào tạo nguồn nhân lực y tế - nguồn lao động quyết định quá trình chăm sóc sức khỏe nhân dân. 4
  5. * Phạm vi nghiên cứu: Các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực y tế mà chủ yếu là các cơ sở đào tạo cán bộ y tế lớn ở nước ta. Về thời gian: Các số liệu tiến hành khảo sát trong luận văn được giới hạn từ năm 2000 đến nay. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật mà chủ yếu là các phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh, thống nhất lý luận với thực tiễn… 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn tập trung làm rõ thực trạng của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế Việt Nam hiện nay, từ đó bước đầu đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực ngành y tế ở nước ta hiện nay. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy, học tập, hoạch định chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành Y tế Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được cấu trúc thành 3 chương: Chƣơng 1: Vai trò của việc đào tạo nguồn nhân lực đối với ngành Y tế Việt Nam hiện nay trong công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Chƣơng 2: Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế Việt Nam hiện nay (qua khảo sát một số cơ sở đào tạo cán bộ y tế). Chƣơng 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế Việt Nam hiện nay. 5
  6. Chƣơng 1 VAI TRÕ CỦA VIỆC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC ĐỐI VỚI NGÀNH Y TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY TRONG CÔNG TÁC CHĂM SÓC, BẢO VỆ SỨC KHỎE NHÂN DÂN 1.1. Khái quát về đào tạo nguồn nhân lực và nguồn nhân lực y tế 1.1.1. Về đào tạo nguồn nhân lực Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, luôn trung thành với tư tưởng “vì con người và giải phóng con người” của C.Mác, Đảng ta thường xuyên khẳng định “con người là vốn quý nhất của chế độ ta”. Bắt đầu từ đại hội VI, đặc biệt là từ Đại hội VII, Đảng ta đã nhận thức ngày càng đầy đủ hơn vai trò của con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Từ đó đến nay, Đảng ta luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Đảng ta nhiều lần khẳng định rằng “nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [9, tr.21] nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Chính vì vậy nguồn nhân lực được coi là nguồn lực quan trọng nhất, quý báu nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất còn hạn hẹp. Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nói đến “nguồn nhân lực” (nguồn lực con người, nguồn tài nguyên người), tức là nói đến con người - chủ thể đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững,… Con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại 6
  7. hóa…” [11, tr.112]. Khi nói đến khái niệm nguồn nhân lực, cần lưu ý hai phương diện quan trọng: - Thứ nhất, với tư cách là nguồn lực con người - chủ thể không tồn tại một cách biệt lập, mà chúng liên kết chặt chẽ với nhau thành một chỉnh thể thống nhất về tổ chức, tư tưởng và hành động. Nói cách khác, nguồn nhân lực là tổng thể những con người - chủ thể với những phẩm chất nhất định đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Thứ hai, nguồn nhân lực bao gồm không chỉ những con người - chủ thể đã và đang tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà còn cả những con người - chủ thể sẽ tham gia vào quá trình này. Bởi vì, lịch sử tự nhiên của đời sống xã hội là quá trình phát triển kế tiếp nhau của các nền văn minh; trong đó các giá trị do những thế hệ trước tạo ra là nền tảng để những thế hệ sau kế thừa, phát triển và sáng tạo ra những gía trị mới. Không chú ý đến phương diện này của nguồn nhân lực thì không thể triển khai công nghiệp hóa, hiện đại hóa có hiệu quả, và do đó, không thể có sự phát triển bền vững của đất nước. Như vậy, khái niệm “nguồn nhân lực” chỉ những thế hệ nối tiếp nhau của những “con người chủ thể” với những phẩm chất nhất định (thể lực, trí lực, nhân cách) đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Báo cáo chính trị tại Đại hội X Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát triển nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững"; Đầu tư đào tạo phát triển nguồn lực con người được hiểu ở cả ba lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống và giáo dục đào tạo, 7
  8. nhưng trong đó giáo dục đào tạo có vị trí quan trọng nhất. Trong Từ điển bách khoa Việt Nam, khái niệm đào tạo được hiểu là: “Đào tạo, quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo… một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công nhất định góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người. Về cơ bản, đào tạo là giảng dạy và học tập trong nhà trường phải gắn với giáo dục đạo đức, nhân cách. Kết quả và trình độ được đào tạo (trình độ học vấn) của một người còn do việc tự đào tạo của người đã thể hiện ra ở việc tự học và tham gia các hoạt động xã hội, lao động sản xuất rồi tự rút ra kinh nghiệm của người đó quyết định. Chỉ khi nào quá trình đào tạo được biến thành quá trình tự đào tạo một cách tích cực, tự giác thì quá trình đào tạo mới có hiệu quả cao. Tùy theo tính chất chuẩn bị cho cuộc sống và cho lao động, người ta phân biệt đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề nghiệp. Hai loại này gắn bó và hỗ trợ cho nhau với những nội dung do các đòi hỏi của sản xuất, của các quan hệ xã hội, của tình trạng khoa học kỹ thuật và văn hóa của đất nước… Có nhiều dạng đào tạo: đào tạo cấp tốc, đào tạo chuyên môn, đào tạo cơ bản, đào tạo lại, đào tạo ngắn hạn, đào tào từ xa" [44, tr.735]. Giáo dục đào tạo đóng vai trò hết sức to lớn trong việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực và nhân tài cho đất nước. Đến lượt nó, chính những con người đã được giáo dục và đào tạo sẽ trở thành yếu tố quyết định sự tiến bộ của xã hội. Không phải đến bây giờ chúng ta mới nhận ra tầm quan trọng của giáo dục đào tạo, mà ngay khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân diệt giặc đói, giặc rét và giặc dốt. Trải qua hơn nửa thế kỷ, công tác giáo dục và đào tạo đã thu được nhiều thành tựu đáng phấn khởi. Từ chỗ 95% dân số mù chữ, đến nay Việt Nam có trên 90% dân số biết 8
  9. chữ. Nếu như năm 1945, Việt Nam chỉ có ba trường phổ thông trung học thì đến nay số trường phổ thông các cấp đã đạt tới hơn 20.000 trường với hơn hai mươi triệu học sinh. Năm 2006 - 2007 cả nước có hơn 100 trường cao đẳng, đại học; gần 500 trường trung học và dạy nghề, trên 90 cơ sở được giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học. Ngành giáo dục và đào tạo với lực lượng hơn 80 vạn giáo viên đã đào tạo được 80 nghìn người có trình độ đại học, 9000 tiến sĩ khoa học và tiến sĩ chuyên ngành, trên 3 triệu công nhân kỹ thuật và cán bộ trung cấp... [10, tr.20]. Do hiểu được tầm quan trọng của công tác đào tạo trong việc phát triển nguồn lực con người, trong các văn kiện của Đảng như “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII”, “Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa VIII”, Đảng ta đã nhấn mạnh sự cần thiết của việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát triển nguồn lực con người Việt Nam, của việc giáo dục đào tạo những con người phát triển toàn diện… Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị những kiến thức nhất định về chuyên môn, nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể thực hiện các chức năng, nhiệm vụ hiệu quả hơn trong công tác của họ. Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ, hành vi… của mỗi cá nhân, tạo tiền đề cho họ có thể thực hiện một cách có năng suất và hiệu quả trong lĩnh vực công tác của họ, hoặc để làm các công việc khác trong tương lai. Đào tạo là quá trình tác động đến con người nhằm làm cho con người lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo… một cách có hệ thống, chuẩn bị cho con người thích nghi với cuộc sống và khả năng tiếp nhận sự phân công lao động nhất định, hoàn thành tốt công việc được giao. 1.1.2. Về đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế Đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế là việc đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng hoặc trung ho ̣c chuyên nghiê ̣p thuộc khối ngành Y tế nhằm 9
  10. trang bị những kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức… cho người làm công tác y tế nhằm mục đích chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho con người. Nội dung của đào tạo về chuyên môn nguồn nhân lực nói chung, và nguồn nhân lực y tế nói riêng, bao gồm ba nội dung chính là: Đào tạo mới: tức là đào tạo cho những người chưa biết nghề, để họ có một nghề nào đó trong nền kinh tế. Đào tạo lại: Là đào tạo cho những người đã có nghề, nhưng nghề đó hiện không còn phù hợp nữa. Đào tạo nâng cao trình độ tay nghề: là đào tạo cho những người đã có nghề, để họ có thể đảm nhiệm những công việc phức tạp hơn, có yêu cầu trình độ cao hơn. Mục tiêu chung của đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế: Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng thực hành cho đội ngũ cán bộ làm công tác y tế, nâng cao chất lượng toàn diện nguồn nhân lực y tế, đáp ứng nhu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới. Trang bị nâng cao kiến thức, kỹ năng quản lý điều hành cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý từ đó nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về y tế. Nói tới vai trò của đào tạo nguồn nhân lực đối với ngành Y tế, Nghị quyết 46 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: “nghề y là một nghề đặc biệt, vì vậy cần được đào tạo và sử dụng một cách đặc biệt” chính vì vậy việc đào tạo đội ngũ cán bộ y tế có những nét đặc thù mà không một ngành nghề nào có nhằm nâng cao năng lực cán bộ. Đào tạo thường gồm 3 cấp: đại học, sau đại học, trung học, ở 3 hệ: hệ dài hạn, hệ ngắn hạn và hệ tại chức. + Đào tạo đại học gồm: Bác sĩ đa khoa hệ dài hạn 6 năm; Bác sĩ đa khoa hệ ngắn hạn 4 năm; Bác sĩ y học cổ truyền hệ 4 năm và hệ 6 năm; Bác sĩ 10
  11. y học dự phòng; Đại học Dược hệ dài hạn 5 năm và hệ 4 năm; Cử nhân Điều dưỡng hệ 4 năm. + Đào tạo sau đại học gồm: Tiến sĩ; cao học; bác sỹ chuyên khoa cấp I, cấp II và chuyên khoa định hướng thuộc các chuyên ngành chính chuyên ngành lâm sàng và cận lâm sàng như nội, ngoại, sản phụ khoa, nhi khoa, y tế công cộng, chấn thương chỉnh hình và y học cổ truyền... + Đào tạo trung học gồm các chuyên ngành: Y sĩ, dược sĩ, điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên...với thời gian 3 năm. Sau khi tốt nghiệp học sinh được cấp bằng trung cấp y dược chính quy theo ngành đào tạo để làm việc tại các cơ sở y tế công lập, tư nhân, hoặc các cơ sở y dược trong ngoài nước có yêu cầu về chuyên môn. - Hầu hết các bác sĩ mới ra trường đều phải tham gia các khóa đào tạo chuyên khoa sơ bộ (chuyên khoa định hướng) hay đào tạo luân khoa... nhằm bổ sung và hoàn thiện tay nghề chuyên môn tại trường và các cơ sở y tế. - Hầu hết các cán bộ y tế đều phải tham gia các khóa đào tạo liên tục, cập nhật và bổ túc chuyên môn định kỳ trong suốt quãng thời gian làm việc của mình. - Đào tạo bác sĩ nội trú, chuyên khoa I và chuyên khoa II là mô hình đào tạo đặc thù của ngành y. Đặc biệt là đào tạo bác sĩ nội trú, đây chính là mô hình đào tạo cán bộ y tế chuyên sâu, bồi dưỡng nhân tài theo chủ trương của Nhà nước mà Bộ Y tế đã thực hiện từ rất lâu. - Thêm vào đó các cán bộ y tế còn tham gia các chương trình đào tạo sau đại học khác như thạc sĩ, tiến sĩ tùy theo nhu cầu của công việc và nguyện vọng của cá nhân. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng với vấn đề đào tạo nguồn nhân lực nói chung, đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế có chất lượng cao là yêu cầu cơ bản, lâu dài đối với tất cả các quốc gia. Ở nước ta, vấn đề này trở thành vấn đề hệ trọng, vừa cơ bản vừa cấp bách. Bởi lẽ, nếu không có 11
  12. nguồn nhân lực đủ mạnh thúc đẩy ngành Y tế phát triển thì chúng ta khó tránh khỏi những nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn với các nước. Nói đến nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực trong ngành Y tế nói riêng, không chỉ là số lượng mà điều quan trọng hơn là chất lượng của nó, tức là những con người đã qua giáo dục và đào tạo. Ngành Y tế là một trong những ngành đặc biệt cần những y bác sĩ có trình độ, không giống như trong nhiều ngành công nghiệp chỉ cần nhân lực dồi dào, đối với công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, cần có một nguồn nhân lực đạt đến một trình độ nhất định, phải trải qua một quá trình giáo dục, đào tạo lâu dài và nghiêm khắc. Nguồn nhân lực ngành Y tế cũng như nguồn nhân lực con người nói chung được đào tạo sẽ có cơ hội phát triển và hoàn thiện các năng lực và tài năng của mình. Thông qua giáo dục đào tạo, các cá nhân được cung cấp những kiến thức cơ bản, cần thiết làm cơ sở cho việc hoàn thiện và phát triển những phẩm chất và tài năng của cá nhân, góp phần tạo ra những giá trị mới để thay đổi, làm tăng khả năng tiếp nhận những ý tưởng mới và làm thay đổi quá trình chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người ngày càng tốt hơn. Hiện nay, cũng như nhiều nước châu Á, ngành Y tế Việt Nam đang bị thiếu hụt khá nghiêm trọng về lực lượng có trình độ tay nghề và chuyên môn cao. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng đó là do công tác đào tạo chưa đáp ứng kịp nhu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội. Biện pháp khắc phục cơ bản và có tầm chiến lược chính là phát triển chất lượng nguồn nhân lực ngành qua đào tạo chuyên môn sâu. Khác với đào tạo nguồn nhân lực tại các trường kinh tế, các trường khoa học xã hội và nhân văn, quá trình đào tạo nguồn nhân lực ngành Y trình độ bác sĩ được đào tạo trong 6 năm. Năm thứ nhất và năm thứ hai học khoa học cơ bản và y học cơ sở, bắt đầu từ năm thứ hai sinh viên phải học trên “lâm sàng” tại bệnh viện thực tập. Sang năm thứ ba sinh viên phải tham gia trực đêm tại bệnh viện thực tập. Thời gian học tập của sinh viên trường y là 12
  13. khá căng thẳng (đã từ lâu sinh viên y nổi tiếng với công thức sáng bệnh viện, chiều giảng đường, đêm đi trực). Để trở thành người thầy thuốc “vừa hồng vừa chuyên” đòi hỏi sinh viên phải nỗ lực phấn đấu và thường xuyên tu dưỡng đạo đức. Hơn bất cứ nghề nào khác, đối với sinh viên ngành Y lòng yêu nghề phải là tiêu chuẩn đầu tiên. Bởi vì nghề y là nghề nhân đạo, nó đối lập với kinh doanh vì thế không phải ai cũng có thể trở thành thầy thuốc được. Nếu một ai đó có ý định kiếm tiền làm giàu thì tốt nhất không nên theo ngành Y và cũng không nên tuyển họ vào học ngành y. Như vậy, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực nói chung và nhân lực y tế nói riêng với chất lượng cao có vai trò hết sức to lớn trong việc nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Những con người đã được giáo dục và đào tạo chính là yếu tố quyết định sự tiến bộ của xã hội. Chính vì vậy, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam nhấn mạnh: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả” [9, tr.107]. 1.2. Sự phát triển của ngành Y tế và các yêu cầu về nguồn nhân lực Hơn nửa thế kỷ qua, ngành Y tế Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, gần 20 năm trở lại đây, ngành Y tế nước ta đã phát triển vượt bậc. Về phòng bệnh, đã khống chế, đẩy lùi được nhiều bệnh dịch nguy hiểm, không để dịch bệnh lớn xảy ra. Về chữa bệnh, đã hình thành các trung tâm y tế chuyên sâu kỹ thuật cao, thực hiện được nhiều tiến bộ khoa học, công nghệ y học hiện đại, chất lượng chẩn đoán và điều trị được nâng cao rõ rệt. Về công nghiệp dược, đến nay chúng ta đã có gần 50 dây chuyền sản xuất thuốc đạt tiêu chuẩn thực hành tốt (GMP); mạng lưới y tế cơ sở được củng cố, cung cấp các dịch vụ y tế gần dân hơn. Nhìn chung, 13
  14. ngành Y tế đã đạt được các mục tiêu đề ra là, tuổi thọ của người dân được tăng lên, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm, tỷ lệ chết mẹ và chết trẻ sơ sinh giảm rõ rệt,… trong quá trình xây dựng và phát triển, ngành Y tế Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn rất đáng tự hào trong sự nghiệp xây dựng và phát triển mặc dù vẫn còn những yếu kém và những thách thức cần được giải quyết. Nhìn một cách tổng quát ở mọi góc độ khác nhau, ngành Y tế Việt Nam đã làm biến đổi một cách sâu sắc về tất cả các mặt, từ nhận thức tư tưởng cho đến tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động, từ y tâm, y thuật cho đến y đức. Bước vào thời kỳ đổi mới, ngành Y tế phải đối phó với những tác động của nền kinh tế thị trường, từng bước tháo gỡ khó khăn để thích ứng với cơ chế trị trường, đáp ứng được mong muốn của người dân ngày càng nhiều và càng cao về chăm sóc sức khỏe đã bị giảm sút sau 30 năm chiến tranh. Do xác định được phương châm: đa dạng hoá các hoạt động của ngành, xã hội hoá công tác y tế, nên từ khi đổi mới đến nay, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân đã tiến được một bước dài, bao gồm một hệ thống các cơ sở y tế nhà nước, y tế tư nhân, hướng tới việc phục vụ nhân dân với số lượng nhiều hơn và chất lượng cao hơn, hiệu quả hơn và công bằng hơn. Phương pháp quản lý các cơ sở khám chữa bệnh của Nhà nước cũng thay đổi bằng cách thu một phần viện phí của người bệnh, xây dựng hệ thống bảo hiểm y tế, cho phép mở rộng bệnh viện tư, phòng khám tư, nhà thuốc tư. Nhiều tổ chức cá nhân đứng ra thành lập quỹ hỗ trợ bệnh nhân nghèo, nhà nước cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, cấp thuốc miễn phí cho người nghèo... Các chỉ tiêu sức khỏe nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt, năm sau tiến bộ hơn năm trước. Theo đánh giá của cơ quan phát triển Liên hợp quốc (UNDP), nước ta đứng vào hàng các nước có thành tựu nổi bật về y tế so với tổng sản phẩm quốc dân (GDP). Năm 2000 chỉ số phát triển con người (HDI) xác định mức độ phát triển con người trên cơ sở kết hợp các chỉ số về thành tựu giáo dục, tuổi thọ 14
  15. và thu nhập, Việt Nam được xếp ở vị trí 108 (tăng 2 bậc so với năm 1999) trong tổng số 174 nước, trong khi đó mức thu nhập bình quân đầu người, Việt Nam được xếp ở vị trí 132/174 nước. Chỉ số phát triển theo giới (GDI) được xếp ở vị trí 140 trên 194 nước. Từ con số 47 bệnh viện từ thời Pháp để lại, đến nay trong cả nước đã có 876 bệnh viện, 75 khu điều dưỡng phục hồi chức năng, trên 1000 phòng khám đa khoa và nhà hộ sinh khu vực, số giường bệnh tăng lên từ 11,6 giường cho 100.000 dân (1954) đến nay là 169 giường cho 100.000 dân (1999). Tỷ lệ giường bệnh so với dân số nước ta tuy còn thấp so với nhiều nước song điều đáng ghi nhận là chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh không ngừng được nâng cao, ở các tỉnh, thành phố, bệnh viện đều được trang bị các loại máy móc dùng trong chẩn đoán và điều trị rất hiện đại như máy cộng hưởng từ, máy CT Scanner, máy chụp mạch máu, máy tán sỏi ngoài cơ thể, máy cô ban, máy siêu âm màu, máy xét nghiệm nhanh... Các công nghệ mũi nhọn của y học thế giới cũng đang được ứng dụng ở nước ta như ghép tạng, mổ nội soi, mổ tim, mổ tách trẻ song sinh, thụ tinh nhân tạo... Bên cạnh các cơ sở y tế Nhà nước đã bắt đầu hình thành một hệ thống y tế tư nhân bao gồm 19.895 cơ sở hành nghề y, 14.048 cơ sở hành nghề dược, 7.015 cơ sở hành nghề y học cổ truyền, 5 bệnh viện tư có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần làm giảm bớt sự quá tải ở các bệnh viện Nhà nước. Về đào tạo chúng ta đã có một hệ thống các trường đại học y, dược phân bổ trên cả nước. Mỗi năm có khoảng 2.500 bác sĩ, 200 dược sĩ đại học tốt nghiệp ra trường. Chúng ta đã mở trường đào tạo kỹ thuật viên trung học y, dược, nha và trong vòng mấy năm trở lại đây đã đào tạo ở trong nước cán bộ có trình độ cử nhân, chuyên khoa I và II, bảo vệ luận án thạc sĩ và tiến sĩ. Từ vài trăm cán bộ y tế vào những ngày đầu thành lập nước, đến nay đã có 25 vạn người, trong đó có 47 nghìn cán bộ đại học các loại và trên 1000 cán bộ trên đại học. 15
  16. Số bác sĩ tính theo dân số hiện nay là 1 bác sĩ cho 2.600 dân (2000) so với năm 1945 là 1 bác sĩ cho 220.000 dân. Tỷ lệ này chưa cao nhưng điều đáng kích lệ là đến cuối năm 2000, dự kiến sẽ có 40% số xã có bác sĩ. Một việc khác mà 55 năm về trước chúng ta còn mơ ước nay đã trở thành sự thật là cán bộ y tế xã được hưởng trợ cấp hàng tháng do Nhà nước đài thọ. Việc kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại cũng đạt được nhiều thành tựu, trước hết là quan điểm chỉ đạo của ngành xuyên suốt 65 năm qua trong mọi lĩnh vực hoạt động. Chúng ta kế thừa và phát huy được nhiều bài thuốc, phương thuốc dân gian có hiệu quả, thành lập được 2 viện và 42 bệnh viện y học cổ truyền, 262 khoa học cổ truyền trong các bệnh viện đa khoa, 8000 cơ sở hành nghề tư nhân về y học cổ truyền, khám và chữa bệnh bằng y học cổ truyền cho khoảng 30% bệnh nhân đến bệnh viện, đào tạo được hàng nghìn bác sỹ chuyên khoa y học cổ truyền, từng bước hiện đại hoá y học cổ truyền, trồng và di thực được nhiều cây thuốc quý, đóng góp nhiều kinh nghiệm cho các nước trên thế giới và đang chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc mở một trường đại học y học cổ truyền. Ngành Dược và ngành Trang thiết bị cũng đã trở thành ngành kinh tế kỹ thuật. Chúng ta đã có những nhà máy sản xuất thuốc đạt tiêu chuẩn GMP, thị phần thuốc trong nước tăng nhanh, mức sử dụng thuốc khoảng 6 USD/ đầu người (2000). Tổng giá trị xuất khẩu thuốc và dược liệu đạt 15 triệu USD (2000). Về sản xuất trang thiết bị, các nhà máy của ta đã liên doanh liên kết với các nước sản xuất dụng cụ y tế thông thường, dụng cụ bằng cao su, chất dẻo và lắp ráp một số máy móc hiện đại. Hiện nay, ngành Y tế đã xây dựng được mạng lưới y tế cơ sở rộng khắp cả nước, từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã, từ đồng bằng trung du, các vùng xa xôi hẻo lánh đến tận biên giới hải đảo và đang mở rộng khắp thôn xóm bản làng với hơn 10.000 trạm y tế xã, y tế cơ quan xí nghiệp. Nhờ mạng lưới đó 16
  17. nước ta đã thực hiện được mục tiêu của tổ chức y tế thế giới đề ra là: sức khỏe cho mọi người năm 2000. Mặc dù hiện nay, trong hệ thống chung của ngành đào tạo, đã hình thành và phát triển mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung học đào tạo cán bộ y - dược; đã cung cấp cho ngành nguồn nhân lực dồi dào, có phẩm chất, đạo đức tốt và có năng lực chuyên môn giỏi, làm tốt công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân ở tất cả các tuyến y tế, từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã và làng bản, thôn, ấp. Ngành Y tế là ngành tiên phong đào tạo và đưa cán bộ đại học về xã. Đến hết năm 2004, cả nước đã có trên 65% số xã có bác sỹ công tác và hầu hết các làng bản có nhân viên y tế. Đây là một thành tựu rất đáng tự hào, là điều kiện tiên quyết dẫn đến mọi thành công của ngành Y tế nước ta. Nhưng trong thời gian tới, ngành Y tế sẽ có nhiều thay đổi do sự thay đổi của nền kinh tế thị trường đang phát triển mạnh mẽ. Khu vực y tế tư nhân sẽ phát triển mạnh mẽ và tăng dẫn cả về số lượng và chất luợng. Cùng với sự phát triển này không chỉ có dược sĩ đại học như hiện nay, mà nhân lực y tế ở các lĩnh vực khác cũng sẽ tham gia nhiều hơn vào khu vực này, đặc biệt là ở các chuyên ngành đang có nhiều nhu cầu cung cấp dịch vụ y tế. Như vậy trong thời gian tới khu vực y tế công lập sẽ có khả năng đối mặt với những thách thức trong thiếu hụt nguồn nhân lực nếu không có các chế độ đãi ngộ thích hợp giống như tình trạng thiếu hụt nhân lực dược trong hệ thống y tế công lập hiện nay. Đối với các yêu cầu về nhân lực, song với đội ngũ nhân lực có trình độ đa khoa công tác chủ yếu ở tuyến y tế cơ sở, ngành y sẽ cần đến đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên sâu ở các chuyên ngành khác nhau: như bác sĩ chuyên khoa, dược, điều dưỡng, kỹ thuật viên... Xu hướng này sẽ giống như các nước trong khu vực như Thái Lan, giai đoạn trước thì tập trung đào tạo một số loại cán bộ như bác sĩ , dược sĩ đại học, răng hàm mặt. Nhưng ở Thái Lan cũng đã dự đoán 17
  18. rằng trong khoảng 2 thập kỷ tới, sẽ có sự tập trung vào các năng lực chung của cán bộ y tế để cung cấp chăm sóc sức khỏe ban đầu ở tuyến y tế cơ sở. Như vậy, bước vào thế kỷ XXI, ngành Y tế nước ta có nhiều thuận lợi, nhưng cũng gặp không ít khó khăn và thách thức, đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu của người dân về các dịch vụ sức khỏe với khả năng của nền kinh tế còn hạn hẹp, là phải giải quyết vấn đề công bằng trong việc chăm sóc sức khỏe và hiệu quả đạt được trong nền kinh tế thị trường có sự phân tầng xã hội, vấn đề phục vụ sức khỏe cho nhân dân các vùng sâu, vùng xa. Chúng ta phải tìm cho ra con đường đi thích hợp, biết đón trước những thành tựu về khoa học công nghệ của thế kỷ XXI để có thể tiến kịp các nước trong khu vực, hội nhập với nền y tế của thời đại xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, của nhân dân đã dành cho ngành Y tế Việt Nam. Một trong những vấn đề quan trọng đặt ra là việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực ngành nhằm nâng cao cả về số lượng và chất lượng đào tạo nhân lực y tế đáp ứng nhu cầu xã hội trong thời gian tới. 1.3. Tầm quan trọng của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành Y tế Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nhu cầu về xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cho ngành Y tế để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân đang đặt ra những áp lực lớn đối với công tác đào tạo. Bởi lẽ, sức khỏe là vốn quý của mỗi con người và toàn xã hội. Sức khỏe cũng là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới sức khỏe của đồng bào, ngay từ những ngày đầu Cách mạng tháng Tám thành công, Bác đã căn dặn: “Mỗi người dân khỏe thì cả nước khỏe”. Do tính chất đặc biệt quan trọng của ngành Y ở chỗ nó trực tiếp liên quan đến tương lai, nòi giống, đến sức khỏe và sự cường thịnh của dân tộc, của toàn xã hội. Do vậy nghề y đòi hỏi người cán bộ y tế không những có tài mà còn cân cả đức, đức và tài của người cán bộ làm công tác y tế như hai mặt không thể thiếu đối với thành công của nghề nghiệp. Tài ở đây là năng lực 18
  19. chuyên môn, thể hiện ở hiệu quả trị bệnh cứu người và chăm sóc sức khỏe con người. Còn Đức là phẩm chất đạo đức của người cán bộ y tế được cụ thể hóa ở những yêu cầu như: lòng nhân ái, tình thương yêu con người, với phương châm “tất cả vì người bệnh”. Đức và Tài là hai thành tố cơ bản luôn quan hệ chặt chẽ với nhau. Đây là hai thành tố không thể thiếu trong nghề y và là yêu cầu quan trọng đối với mỗi người làm công tác y tế. Đức là gốc, là nền tảng, là điều kiện tiên quyết, còn tài là nhân tố vô cùng quan trọng. Đó là hai mặt không thể tách rời mà hòa quyện vào nhau làm nên nhân cách người thầy thuốc. Thứ nhất, về đào tạo cái tài của người thầy thuốc, tức là mặt chuyên môn, việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân có tốt hay không, một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu là đội ngũ cán bộ y tế, những người trực tiếp khám, chăm sóc và cung cấp các dịch vụ y tế cho nhân dân. Chất lượng của các dịch vụ y tế này phần lớn phụ thuộc vào chính bản thân người thầy thuốc. Một người thầy thuốc giỏi về chuyên môn, tận tụy với nghề nghiệp, có lương tâm đạo đức tốt thì chất lượng phục vụ sẽ được nâng cao, đặc biệt là ở những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng sâu vùng xa, hải đảo - nơi mà cán bộ y tế vừa thiếu, vừa yếu; trang thiết bị y tế còn nhiều thiếu thốn, thì vai trò của người thầy thuốc càng trở nên quan trọng hơn nhiều lần. Chính vì vậy, để góp phần hiện đại hoá nền y học và y tế nước ta, đáp ứng nhu cầu về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, công tác đào tạo và khoa học công nghệ phải đi trước một bước, đòi hỏi đội ngũ cán bộ làm công tác đào tạo và khoa học y học, tiếp tục nỗ lực phấn đấu vươn lên hơn nữa, thực hiện tốt Nghị quyết số 46-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 23/2/2005 về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, là “Sắp xếp lại mạng lưới, mở rộng và nâng cấp các cơ sở đào tạo, đáp ứng nhu cầu về cán bộ y tế phù hợp với quy hoạch phát triển ngành; xây dựng một số trung tâm đào tạo cán bộ y tế ngang tầm các nước tiên tiến 19
  20. trong khu vực” và “Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, tiếp cận và ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ sinh học và công nghệ thông tin; từng bước đưa nền y học nước ta đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và thế giới”. Thứ hai, bên cạnh mặt chuyên môn, mục tiêu của quá trình đào tạo cán bộ y tế còn là đào tạo ra những người có y đức và có đủ sức khoẻ để có thể hoàn thành được nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Đánh giá y đức không phải qua lời nói mà qua hành vi thái độ cụ thể với người bệnh, với giáo viên, với đồng nghiệp. Trong giáo dục, nhiều khi chúng ta chỉ chú ý đến kiến thức, kĩ năng, mà quên hoặc chưa quan tâm đúng mức đến thái độ (hay hành vi ứng xử). Giáo dục y đức cho sinh viên ngành Y chủ yếu diễn ra tại giảng đường, nhất là tại bệnh viện thực tập, môi trường đụng chạm đến thực tiễn hàng ngày, hàng giờ. Giáo dục y đức tại giảng đường là đặt mối liên hệ chủ yếu giữa thầy và trò, còn tại bệnh viện thực tập, sinh viên đối mặt với nhiều đối tượng: bệnh nhân và thân nhân bệnh nhân; ban giám đốc và phòng ban; thầy, các cán bộ giảng dạy và các bác sĩ; tập thể sinh viên; xã hội. Mỗi đối tượng là một “tiểu môi trường” sinh động, phong phú, qua đó thầy cũng như trò rèn luyện phong cách. Tóm lại, giáo dục y đức là một công việc lâu dài, mỗi sinh viên và thầy giáo phải tự rèn luyện suốt đời. Giáo dục ở trường, ở bệnh viện mới chỉ là bước đầu. Đạo đức phải xuất phát từ tính tự nguyện, tự giác, tính không vụ lợi của hành vi, lúc đó giá trị đạo đức mới cao. Để đạt được mục tiêu này, sinh viên phải có tinh thần tự lập, có sự tự giác, tự nguyện, có ý chí rèn luyện y đức bền bỉ. Trong lịch sử y học Việt Nam, Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông, Nguyễn Đình Chiểu đều rất quan tâm đến việc răn dạy y đức cho học trò của mình và những người hành nghề y. Các ông đều là những tấm gương lớn về y đức cả trong lời nói lẫn việc làm để muôn đời con cháu mai sau học tập. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2