intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:63

176
lượt xem
44
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: thực trạng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại nhno&ptnt chi nhánh thăng long', luận văn - báo cáo, tài chính - kế toán - ngân hàng phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long

  1. LUẬN VĂN: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long
  2. A. LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việc chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO tháng 11/2006 đã tạo ra nhiều cơ hội lớn và thách thức không nhỏ cho các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế Việt Nam, trong đó có ngành Tài chính – Ngân hàng. Hội nhập sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong nước thâm nhập vào thị trường quốc tế, mở ra cơ hội cho ngành ngân hàng thực hiện các cuộc trao đổi, hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực hoạch định chính sách tiền tệ, quản lý ngoại hối, thanh tra, giám sát phòng ngừa rủi ro, lĩnh vực thanh toán và phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới. Vì thế uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng sẽ được nâng lên, ít nhất là trên thị trường khu vực. Mặt khác, việc các ngân hàng nước ngoài thâm nhập vào thị trường Việt Nam với năng lực tài chính mạnh, kinh nghiệm quản trị rủi ro tốt và qui trình nghiệp vụ chuẩn mực tiên tiến, công nghệ hiện đại sẽ là thách thức lớn đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc giữ vững thị trường hoạt động trong nước và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Cùng hoà nhịp với xu thế của thế giới cũng như những chuyển biến tích cực của đất nước, hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua đã có những sự thay đổi đáng kể về cấu trúc, quy mô và về sự đa dạng hoá các loại hình tổ chức. Hệ thống ngân hàng thương mại được kỳ vọng là sẽ tiếp tục phát huy vai trò trong việc khơi thông những dòng chảy về vốn, đầu tư và các dịch vụ tài chính để phục vụ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và bền vững. Chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (tên giao dịch quốc tế là Vietnam Bank for Agriculture and Rural Development, viết tắt là AGRIBANK) - ngân hàng thương mại lớn nhất tính theo tổng khối lượng tài sản, đội ngũ cán bộ nhân viên, mạng lưới hoạt động và số lượng khách hàng đã và đang cung cấp các sản phẩm, dịch vụ Ngân hàng hiện đại, nhanh chóng, với mức lãi suất và phí dịch vụ cạnh tranh, đa tiện ích, nhằm đáp ứng yêu cầu của mọi đối tượng khách hàng, mở rộng cơ hội kinh doanh, tăng
  3. cường sự hợp tác giữa các Tổ chức tín dụng và các tổ chức khác, từng bước nâng cao và giữ uy tín cũng như thương hiệu của Chi nhánh trên thị trường tài chính nội địa và quốc tế. Trong quá trình thực tập tại NHNo Chi nhánh Thăng Long, em đã có cơ hội để kết hợp những kiến thức chuyên ngành đã học tại trường đại học với những thực tế tại cơ sở, từ đó em đã quyết định chọn đề tài: “Mở rộng hoạt động tín dụng đối với DNVVN tại NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh Thăng Long”. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là chiến lược mở rộng tín dụng đối với DNVVN tại chi nhánh NHNo&PTNT Thăng Long, tập trung vào giai đoạn 2005 – 2007. 3. Kết cấu của chuyên đề Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm ba chương: Chương I: Tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp và và nhỏ tại NHNo&PTNT chi nhánh Thăng Long
  4. CHƯƠNG I TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.1. DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ Để đưa ra khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ có rất nhiều ý kiến khác nhau, nhưng nhìn chung để có khái niệm chính xác DNVVN các nước thường sử dụng một trong các tiêu thức để phân loại doanh nghiệp như: Vốn điều lệ, số lao động thường xuyên, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng. Hai tiêu thức được lựa chọn phổ biến là vốn đầu tư và số lao động thường xuyên.Tuy nhiên, trong từng giai đoạn khác nhau lại có tiêu chuẩn giới hạn khác nhau để phù hợp với tình hình phát triển, phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế. Trước năm 2001, theo công văn số 681/CP – KTN do Chính phủ ban hành ngày 20/6/1998, DNVVN là các doanh nghiệp có vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 387.000 USD theo tỷ giá giữa VND và USD tại thời điểm đó) và số lao động hàng năm không quá 200 người, tuỳ theo lĩnh vực, ngành mà có giới hạn riêng cho mỗi tiêu chí. Kinh tế nước ta ngày càng phát triển, quy mô các doanh nghiệp ngày càng được mở rộng vì vậy Chính phủ đã ban hành nghị định 90/2001/NĐ – CP ngày 23/11/2001 về việc trợ giúp phát triển DNVVN, theo điều 3 của Nghị định này thì: “DNVVN đơn vị kinh doanh độc lập, đã đăng kí kinh doanh theo Pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên”. Theo nghĩa thông thường: DNVVN ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất, kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn và lao động thỏa mãn các quy định của Chính phủ.
  5. Theo định nghĩa trên DNVVN ở nước ta có thể là các DN sau:  Các DNNN đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp  Các Công ty cổ phần, Công ty TNHH và doanh nghiệp tư nhân đăng ký hoạt động kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp  Các hợp tác xã đăng ký hoạt động theo Luật Hợp tác xã  Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2001/NĐ – CP ngày 3/2/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. Bảng chỉ tiêu xác định DNVVN Doanh thu Vèn Lao ®éng (N Quy m« doanh nghiÖp ( tû ®ång ) ( tû ®ång ) ( ng-êi ) gu 1. DN s¶n xuÊt vµ x©y dùng ồn: - DN qui m« võa 1-5 5-10 200-300 Bộ - DN qui m« nhá
  6. Thứ ba: Tỷ suất vốn đầu tư trên lao động nhỏ hơn doanh nghiệp lớn nên hiệu suất tạo việc làm cao hơn. Đối với doanh nghiệp lớn với một số vốn nhất định chỉ cần bổ sung thêm một số lượng nhỏ lao động nhưng với số vốn đó DNVVN cần số lao động lớn hơn nhiều. Thứ tư: Lĩnh vực hoạt động của các DNVVN rất đa dạng phong phú nhờ vậy mà việc mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp này sẽ giúp ngân hàng phân tán rủi ro hoặc rủi ro gây biến động không lớn đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thứ năm: Khả năng cạnh tranh của các DNVVN thấp do hạn chế về vốn, trình độ, công nghệ, phương thức quản lý, khả năng tiếp cận thông tin và khả năng tiếp cận thị trường thấp. Đặc điểm này chính là yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho ngân hàng khi cho doanh nghiệp vay. 1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với sự phát triển kinh tế Sự phát triển của các DNVVN trong nền kinh tế thị trường góp phần quan trọng trong việc giải quyết các mục tiêu kinh tế - xã hội, cụ thể như sau:  Góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động Tác động kinh tế lớn nhất của các DNVVN là giải quyết tình trạng thất nghiệp cho một số lượng lớn người lao động. Do sự phân bố rộng khắp và khá đa dạng trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, hơn nữa không đòi hỏi trình độ quá cao ở người lao động, DNVVN đã và đang thu hút được rất nhiều lao động ở thành thị và nông thôn, từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống và góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội.
  7.  Khai thác, tận dụng các nguồn lực xã hội Do tính chất nhỏ lẻ, quy mô vốn ban đầu không cần nhiều nên DNVVN có thể được thành lập ở tất cả các địa phương, tận dụng được những lợi thế ngay tại chỗ, giảm chi phí sản xuất, tránh gây lãng phí nguồn lực có sẵn. Khu vực DNVVN thu hút được khá nhiều vốn trong dân tham gia vào sản xuất kinh doanh, góp phần làm tăng tích luỹ nội bộ nền kinh tế. Điều này đặc biệt quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở các nước đang phát triển.  Hỗ trợ các doanh nghiệp lớn nâng cao hiệu quả kinh tế Thực tiễn cho thấy một nền kinh tế hiện đại sẽ không hoàn chỉnh và không hiệu quả nếu không có những doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp quy mô nhỏ hơn. Mối liên hệ thể hiện qua việc những doanh nghiệp lớn cung cấp nguyên liệu, nguyên liệu sơ chế, thành phẩm, thiết bị, máy móc, công cụ cho DNVVN. Trong khi đó, các DNVVN chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực nhỏ nhằm hỗ trợ sản xuất và làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn trong việc sản xuất, gia công các chi tiết, phụ kiện, các công đoạn hoặc tổ chức thu mua, thu gom nguyên phụ liệu, làm đại lý bán hàng, cung cấp đầu vào, thâm nhập thị trường nhỏ lẻ. Nếu các doanh nghiệp lớn sử dụng các dịch vụ do các DNVVN mang lại thì nó sẽ giảm đi rất nhiều chi phí, từ đó làm tăng hiệu quả lao động của tất cả các doanh nghiệp và làm tăng hiệu quả nền kinh tế. 1.2 TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1.2.1 Khái niệm tín dụng Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng với một bên là tổ chức kinh tế, cá nhân, hộ gia đình trong đó ngân hàng giữ vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Nói một cách ngắn gọn tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng (còn được gọi là tín dụng ngân hàng). Tín dụng ngân hàng ra đời với nhiệm vụ huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội tạo thành một quỹ cho vay khổng lồ đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế khác. 1.2.2 Đặc điểm tín dụng ngân hàng
  8. Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. 1.2.3. Phân loại tín dụng ngân hàng Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại:  Phân loại theo thời gian (thời hạn tín dụng) Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian tín dụng được phân thành: - Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống, thường được tài trợ cho các nhu cầu vốn lưu động thường xuyên; - Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm, thường được tài trợ cho các tài sản cố định; - Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm, được tài trợ cho các công trình xây dựng như nhà cửa, cầu đường và các thiết bị có giá trị lớn khác.  Phân loại theo hình thức: Gồm: - Chiết khấu thương phiếu: là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). Về mặt pháp lý thì ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu, đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như là hoạt động tín dụng. Ngân hàng tuy ứng tiền cho người bán, song thực chất là thay người mua trả tiền trước cho người bán. - Cho vay: là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
  9. - Bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. - Cho thuê: là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.  Các cách phân loại khác - Phân loại theo tài sản đảm bảo: Tín dụng có thể được phân chia thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản. - Phân loại theo rủi ro: gồm tín dụng lành mạnh, tín dụng có vấn đề, nợ quá hạn có khả năng thu hổi, nợ quá hạn khó đòi. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời. - Theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp …) - Theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định) - Theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng …) Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế.
  10. 1.2.4 Vai trò của tín dụng  Đối với ngân hàng Hoạt động sinh lợi chủ yếu của các ngân hàng thương mại là hoạt động tín dụng. Trong hoạt động tín dụng, mục tiêu chủ yếu của quản lý ngân hàng là kiếm được lợi nhuận, trên cơ sở phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng đồng. Mức độ thanh khoản của các hợp đồng tín dụng, mặc dù là rất quan trọng, nhưng ở vào vị trí thứ yếu. Thí dụ, ít có các khoản cho vay nào có thể bị thanh lý bằng cách bán cho các tổ chức hoặc cá nhân khác, do thị trường thứ cấp về giao dịch các tài sản tài chính loại này bị giới hạn, ngoại trừ các khoản cho vay thế chấp về nhà ở. Cho vay là nguồn gốc tạo ra lợi tức gộp quan trọng nhất cho các ngân hàng thương mại, khoảng 2/3 lợi tức nghiệp vụ ngân hàng có từ tiền lãi cho vay. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù đắp nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và các chi phí rủi ro đầu tư. Kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của các ngân hàng thương mại càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng đa dạng. Cho vay hay đầu tư để sinh lợi từ tiền đã huy động là lẽ sống còn của ngân hàng thương mại. Cho vay hay đầu tư vào các loại tài sản nào cũng đều là hoạt động kiếm lợi nhuận. Khi ngân hàng đầu tư tiền vốn vào một thương vụ, hoặc cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng vay, nó trở thành chủ nợ (Assets). Ngân hàng đầu tư càng nhiều, càng sinh lãi nhiều từ vốn đã huy động; nếu không đầu tư được nó sẽ bị thua lỗ vì phải trả lãi cho tài sản nợ.  Đối với khách hàng Tín dụng ngân hàng dễ dàng thực hiện so với hình thức vay nợ bằng cách phát hành trái phiếu (công cụ nợ) vì kỳ hạn của khoản vay dễ dàng điều chỉnh, tùy thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn của người vay. Ví dụ, một doanh nghiệp nào đó cần tài sản cố định trong thời gian ngắn, có thể thấy việc thực hiện một khoản vay có kỳ hạn tiện lợi hơn nhiều so với việc vay nợ bằng cách phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi vì doanh nghiệp có thể có lợi mà không mất đi sự kiểm soát, hoặc không cần xử lý nợ khi không còn cần vốn từ trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi.
  11. Vốn sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế vận động liên tục và biểu hiện các hình thái khác nhau qua mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất, tạo thành chu kỳ tuần hoàn và luân chuyển vốn, điểm xuất phát và kết thúc của một vòng tuần hoàn này thể hiện dưới dạng tiền tệ. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của các doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả ba giai đoạn: dự trữ - sản xuất – lưu thông. Từ đó xảy ra hiện tượng thừa và thiếu vốn tạm thời: tại một thời điểm nhất định có những đơn vị kinh tế có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi (thừa vốn) và có những đơn vị khác tạm thời thiếu vốn. Đây là hiện tượng mang tính chất tạm thời nhưng xảy ra thường xuyên và phổ biến trong bất kỳ nền kinh tế nước nào, làm nảy sinh yêu cầu ngày càng bức thiết phải giải quyết cho được vấn đề điều hòa vốn. Ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian tín dụng đứng ra tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ, điều hòa cung và cầu vốn trong các doanh nghiệp của nền kinh tế, đã góp phần điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp không bị gián đoạn. Để mở rộng sản xuất, đối với từng doanh nghiệp yêu cầu về vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Các doanh nghiệp không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có, mà còn phải biết dựa vào vốn của nhiều nguồn khác nhau trong xã hội. Ngân hàng thương mại với tư cách là nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển. Như vậy tín dụng ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời gian tích lũy vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích lũy vốn cho nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng còn là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng doanh nghiệp đã góp phần điều hòa vốn trong nền kinh tế, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích lũy và đầu tư, động viên vật tư hàng hóa đưa vào sản xuất, lưu thông, mở rộng nguồn vốn, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất.  Đối với nền kinh tế
  12. Ngân hàng có chức năng trung gian tín dụng, đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của ngân hàng thương mại và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trung gian tài chính là hoạt động “cầu nối” giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ những người có thể vì lý do gì đó không dùng nó một cách sinh lợi sang những người có ý muốn dùng nó để sinh lợi. Quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có tiền chưa sử dụng và chủ thể có nhu cầu tiền tệ cần bổ sung gặp phải nhiều hạn chế, hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại đã góp phần khắc phục các hạn chế đó. Thực hiện chức năng này một mặt ngân hàng thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho vay; mặt khác, trên cơ sở vốn đã huy động được, ngân hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng … của các chủ thể kinh tế, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đã và đang thực hiện chức năng xã hội của mình, làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân. Tín dụng có hai chức năng là phân phối lại vốn và thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Trong nền kinh tế thi trường, vấn đề hiệu quả tài chính được đặt lên hàng đầu và việc tính toán sử dụng vốn bao giờ cũng gắn liền với chi phí, kể cả chi phí cơ hội. Một khi vốn tạm thời nhàn rỗi chưa được sử dụng thì sẽ lãng phí và tốn kém chi phí cơ hội do vốn chưa được sử dụng vào mục tiêu sinh lợi. Khi ấy vốn cần được đem cho vay hay phân phối lại vốn từ nơi tạm thời nhàn rỗi sang nơi thiếu hụt vốn. Ngược lại, khi thiếu hụt vốn, cần có sự bổ sung kịp thời nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục hoặc tăng trưởng như hoạch định. Khi ấy, doanh nghiệp cần vay vốn hay điều hòa vốn nhằm đảm bảo vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Nhờ có tín dụng, việc điều hòa vốn hay phân phối lại nguồn vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu có thể thực hiện một cách dễ dàng và nhanh chóng. Như vậy,
  13. tín dụng có chức năng phân phối lại vốn và qua đó góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh và phát triển. 1.2.5. Nguyên tắc tín dụng Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. Các nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các quy định của ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại.  Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác định: Các khoản tín dụng của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi như đã cam kết. Do vậy, ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển.  Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định khác của ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các ngân hàng. Bên cạnh đó mỗi ngân hàng có thể có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Mục đích tài trợ được ghi trong hợp đồng tín dụng đảm bảo ngân hàng không tài trợ cho các hoạt động trái luật pháp và việc tài trợ đó là phù hợp với cương lĩnh của ngân hàng.  Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án (dự án) có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay. 1.2.6. Quy trình tín dụng Bước 1: Phân tích trước khi cấp tín dụng Đây là bước quan trọng nhất, nội dung chủ yếu là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến người vay.
  14. * Phương pháp chủ yếu để thu thập và xử lý thông tin: - Phỏng vấn trực tiếp, thăm quan nhà xưởng, văn phòng, nói chuyện với giám đốc và người lao động, xem xét vật thế chấp … - Mua hoặc tìm kiếm các thông tin qua các trung gian (qua các cơ quan quản lý, qua các bạn hàng, chủ nợ khác của người vay, qua các trung tâm thông tin hoặc tư vấn). - Thông qua các thông tin có được từ các báo cáo của người vay, Ngân hàng luôn yêu cầu người vay vốn phải gửi cho ngân hàng các báo cáo tài chính như bảng cân đối kế toán (bảng cân đối tài sản), báo cáo thu nhập, báo cáo bán hàng, … ngân hàng cũng yêu cầu hoặc mua các thông tin về giám đốc, đội ngũ nhân sự, công nghệ … của khách hàng. Các báo cáo này cho thấy các số liệu trong nhiều năm đã qua, vì vậy giúp ngân hàng có cơ sở để dự đoán về tình hình của khách hàng trong tương lai gần. Ngân hàng sử dụng các báo cáo này để ước tính nhu cầu vốn, trong đó có nhu cầu tài trợ, đánh giá khả năng sinh lời và khả năng trả nợ, các thiệt hại có thể xảy ra nếu khách hàng không trả, hoặc không trả đầy đủ, giá trị các tài sản có thể phát mại khi cần thiết … * Nội dung phân tích: - Đánh giá tài sản của khách hàng Các doanh nghiệp đều có bảng cân đối kế toán (bảng cân đối tài sản), trong đó phần tài sản phản ánh số kết dư giá trị tài sản tại một thời điểm, hoặc kết dư trung bình trong kỳ. Đối với hộ, hoặc người tiêu dùng ngân hàng yêu cầu các thông tin về tình hình kinh doanh, tài sản cá nhân, lương và các khoản thu nhập khác. Các thông tin về tài sản cho thấy quy mô, khả năng quản lý của khách hàng rất quan trọng đối với quyết định cho vay. Quan trọng hơn, tài sản (tất cả hoặc một phần) của khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả năng thu hồi nợ khi khách hàng mất khả năng sinh lời. - Đánh giá các khoản nợ Nợ của người vay có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
  15. Về thời gian: Gồm nợ ngắn hạn (vay ngắn hạn) và nợ trung và dài hạn (vay trung và dài hạn); nhiều khi ngân hàng còn xem xét các khoản nợ đến hạn trong năm (các khoản nợ ngắn và trung, dài hạn phải trả trong năm) và các khoản nợ phải trả trong các năm sau. Nhìn chung, các khoản vay ngắn hạn thường dùng tài trợ cho tài sản lưu động, còn các khoản vay trung và dài hạn dung tài trợ cho tài sản cố định. Do đó, tính tương quan giữa chúng là đối tượng phân tích của ngân hàng. Nếu khoản cho vay của ngân hàng phải trả trong năm thì các khoản nợ đến hạn và ngân quỹ trong năm của khách hàng là hai yếu tố chính tạo nên quyết định của ngân hàng. Ngân hàng cũng quan tâm tới nợ quá hạn và các nguyên nhân. Ngân hàng quan tâm tới tất cả chủ nợ của khách hàng: Có thể là các khoản nợ cũ, các khoản nợ của các ngân hàng khác, nợ người cung cấp, nợ người lao động. Vị trí của ngân hàng trongdanh sách chủ nợ luôn được nghiên cứu kĩ lưỡng. Nếu ngân hàng giành vị trí quan trọng nhất, nó dễ dàng thu được nợ hơn là các vị trí khác. Ngân hàng cũng xem xét các khoản nợ ưu đãi, nợ có đảm bảo và nợ khác. Các tài sản đã làm đảm bảo cho khoản vay cũ cần phải được tính lại theo giá thị trường và bị loại trừ, nếu chúng được lấy làm tài sản đảm bảo cho khoản vay mới thì cần tính toán giá trị dôi thừa so với tiền vay cũ. - Phân tích luồng tiền Nhiều khách hàng tạo ra lợi nhuận trong quá khứ, thậm chí có khả năng tạo ra lợi nhuận trong tương lai. Tuy nhiên, việc trả nợ ngân hàng lại liên quan chặt chẽ tới ngân quỹ của người vay. Trong khi lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng phản ánh khả năng sinh lời, chênh lệch dòng tiền vào và ra là chỉ tiêu quan trọng nhất đối với việc dự đoán các vấn đề tín dụng trong tương lai. Tuy nhiên, nhiều khoản mục liên quan đến dòng tiền không được chỉ dẫn đầy đủ trong cân đối tài sản công ty. Để hỗ trợ cho ngân hàng và khách hàng, các luồng tiền trong tương lai - phụ thuộc vào kế hoạch chi tiêu trong tương lai - cần được dự kiến. Kế hoạch này ghi lại vận động hàng tháng của các khoản tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các khoản thanh toán hàng tháng. Người vay có lợi nhuận trong hiện tại có thể có dự án chi trong tương lai cao và với thu bán hàng không đổi, sẽ có thể có luồng tiền âm (không có khả năng chi trả).
  16. - Sử dụng các tỷ lệ Để quá trình phân tích tín dụng được thực hiện với thời gian ngắn và phần nào được tiêu chuẩn hoá, các ngân hàng đều cố gắng xây dựng các tỷ lệ phản ánh năng lực tài chính của người vay có liên quan đến khả năng trả nợ. Các tỷ lệ này sẽ được áp dụng trong phân tích đối với từng người vay có tính đến các điều kiện cụ thể. Trong nhiều trường hợp, ban lãnh đạo ngân hàng còn yêu cầu cán bộ tín dụng sắp xếp và cho điểm đối với từng tỷ lệ của người vay. Các loại tỷ lệ: Những tỷ lệ đo thanh khoản, tỷ lệ đo khả năng tạo lợi nhuận, tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn tự có, tỷ lệ đo rủi ro.  Nhóm tỷ lệ thanh khoản: Đo khả năng của người vay trong việc đáp ứng trách nhiệm tài chính ngắn hạn. Dựa vào đó ngân hàng tìm kiếm khả năng thanh toán các trái khoán khi đến hạn của người vay. Nhìn chung các tỷ lệ này càng cao thì khả năng thanh toán của người vay có thể càng tốt. TSL§TrÞgi¸ hµngtån kho Khả năng thanh toán nhanh = Nî ng¾nh¹n TSL§ Khả năng thanh toán tức thời = Nî ng¾nh¹n nî dµi h¹n dÕn h¹n tr¶ Nhóm tỷ lệ sinh lời: Đo khả năng tạo lợi nhuận của người vay. Khả năng sinh lời của người vay quyết định khả năng hoàn trả vốn và lãi cho ngân hàng. Các tỷ lệ này đều có tử số là lợi nhuận ròng trước hoặc sau thuế lợi tức, hoặc doanh thu hoặc mẫu số là vốn tự có, vốn lưu động, vốn cố định hoặc tổng vốn. Để phân tích tỷ lệ sinh lời, bên cạnh bảng cân đối tài sản ngân hàng cần có báo cáo thu nhập của người vay. Nhóm tỷ lệ rủi ro (RR): RR của người vay rất đa dạng. Tiếp cận rủi ro của người vay thông qua: Sản xuất, tiếp thị, nhân sự, tài chính, chính sách của Chính phủ. Nhóm tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn sở hữu: Thông thường một doanh nghiệp phải có vốn sở hữu đủ để tài trợ một phần cho tài sản lưu động và tài sản cố định.
  17. Tỷ lệ này cho thấy sức mạnh tài chính của người vay. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay tỷ lệ này vào khoảng 0,3 – 0,4 hoặc thấp hơn buộc ngân hàng phải thận trọng và kiểm soát chặt chẽ các khoản cho vay. Tuỳ theo yêu cầu vay ngắn hạn hay trung và dài hạn mà ngân hàng tập trung chú ý vào tỷ lệ tài trợ cho tài sản lưu động hay tài sản cố định. Khi cho vay ngắn hạn, ngân hàng xem xét vốn lưu động tự có của doanh nghiệp. Một khoản xin vay ngắn hạn có thể được ngân hàng chấp nhận nếu không làm xấu đi tình trạng tài trợ của doanh nghiệp (ngân hàng sẽ cộng thêm khoản vay mới để xác định lại tỷ lệ này). Nếu doanh nghiệp vay vốn trung và dài hạn thì khấu hao và thu nhập sau thuế cùng với giá trị còn lại của tài sản cố định là những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định cho vay của ngân hàng. - Các điều kiện kinh tế Các kết quả phân tích trên cho ngân hàng thấy một phần quá khứ và hiện tại của khách hàng. Điều ngân hàng quan tâm hơn là khả năng trong tương lai của khách hàng. Thời hạn càng dài, dự đoán càng khó chính xác, đó là do tác động của các điều kiện kinh tế. Bước 2: Xây dựng và kí kết hợp đồng tín dụng Hợp đồng tín dụng là văn bản viết ghi lại thỏa thuận giữa người nhận tài trợ (khách hàng) và ngân hàng, với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng (hoặc hạn mức tín dụng) trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định. Hợp đồng tín dụng là văn bản mang tính pháp luật xác định quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ tín dụng, đồng thời phải tuân thủ các điều khoản của các luật, các quy định. Do vậy, cả ngân hàng lẫn khách hàng đều cân nhắc kĩ lưỡng trước khi kí kết hợp đồng tín dụng. Nội dung chính của hợp đồng tín dụng. - Khách hàng: Họ tên, địa chỉ, tư cách pháp nhân (nếu có). - Mục đích sử dụng: Khách hàng phải gi rõ vay để làm gì.
  18. - Số lượng tín dụng: Là số tiền (hoặc hạn mức tín dụng) ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng. Số lượng tín dụng có thể được chia nhỏ trong khoảng thời gian khác nhau và dưới các hình thức tiền tệ khác nhau. - Lãi suất: Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ lãi suất mà khách hàng đồng thời các định tính chất của lãi suất (là lãi suất cố định hay biến đổi trong suốt kì hạn tín dụng). Nếu lãi suất có thay đổi thì phải xác định rõ các điều kiện thay đổi đó. - Phí: Để có được các cam kết tín dụng có thể khách hàng phải trả cho ngân hàng một khoản phí (ví dụ, phí cam kết) được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên hạn mức cam kết. Mức phí và các điều kiện nộp phải được thể hiện trong hợp đồng tín dụng. - Thời hạn tín dụng: ngân hàng thường xác định rõ thời hạn tín dụng trong hợp đồng như tài trợ trong 6 tháng, 9 tháng, 2 năm … kể từ lúc khoản cho vay đầu tiên được phát ra đến khi người vay trả toàn bộ gốc và lãi. Cũng có trường hợp thời hạn không xác định cụ thể trước mà tùy theo thời gian luân chuyển của vật tư hàng hóa là đối tượng tài trợ của ngân hàng. Thời hạn tín dụng có thể được chia thành thời gian đầu tư, thời gian ân hạn và thời gian trả nợ; thời gian trả nợ có thể được chia thành nhiều kì hạn nợ nhỏ. - Các loại đảm bảo: Hợp đồng tín dụng phải ghi rõ các loại đảm bảo (nếu có) cho khoản tín dụng (kèm theo các hợp động phụ) như hợp đồng bảo lãnh, vật tư hàng hóa trong kho, tài sản cố định, hoặc các chứng khoán có giá … Các nội dung quan trọng liên quan đến các đảm bảo như quyền sở hữu, quyền chuyển nhượng hoặc bán, định giá, bảo hiểm, người bảo quản, quyền sử dụng đối với các đảm bảo … đều phải được xác định và ghi rõ trong hợp đồng tín dụng. - Giải ngân: Hợp đồng tín dụng thường xác định các điều kiện và kì hạn giải ngân. Thường các khoản cho vay nhỏ trong thời gian ngắn, ngân hàng cấp tiền vay một lần vào đầu kì. Đối với các khoản vay lớn và trong thời gian dài, ngân hàng cấp tiền theo nhiều kì hạn và với các điều kiện cụ thể của mỗi lần cấp vốn. - Điều kiện thanh toán: Bao gồm thanh toán tiền gốc và lãi. Ngân hàng và khách hàng thỏa thuận về cách thức thanh toán gốc và lãi (ngày trả, cách trả).
  19. - Các điều kiện khác: Tùy thuộc điều khoản cuối cùng song rất quan trọng, bao gồm các thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng về ưu tiên thanh toán, kiểm soát vật thế chấp và các hoạt động khác của người vay, phong tỏa tài sản, điều kiện và phương thức phát mại tài sản, nộp báo cáo định kì, phạt vi phạm hợp đồng … Bước 3: Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng Sau khi hợp đồng tín dụng đã được kí kết, ngân hàng phải có trách nhiệm cấp tiền (hoặc thanh toán tiền hàng) cho khách hàng như thỏa thuận. Kèm theo việc cấp tín dụng, ngân hàng kiểm soát khách hàng: Sử dụng tiền vay có đúng mục đích, đúng tiến độ hay không? Quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ? … Quá trình này cho phép ngân hàng thu thập thêm các thông tin về khách hàng. Nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt, cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo. Ngược lại, khi chất lượng khoản cho vay bị đe dọa ngân hàng cần có các biện pháp xử lý kịp thời. Ngân hàng được quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân, nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp, giảm số tiền vay … khi thấy cần thiết để đảm bảo an toàn tín dụng. Cho tài trợ gắn liền với kiểm soát khách hàng giúp ngân hàng ngăn chặn các ý đồ sử dụng tiền vay không đúng mục đích của khách hàng. Đây cũng là quá trình ngân hàng thu thập thêm các thông tin bổ sung cho các thông tin ở bước 1 và ra các quyết định cụ thể nhằm ngăn chặn kịp thời các khoản tín dụng xấu. Bước 4: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới Quan hệ tín dụng kết thúc khi ngân hàng thu hồi hết gốc và lãi. Các khoản tín dụng đảm bảo hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Một số trường hợp, các khoản tín dụng đã không hoàn trả hoặc không hoàn trả đủ đúng hạn. Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho ngân hàng cho thấy các “trục trặc” trong hoạt động của khách hàng. Việc xem xét, tìm nguyên nhân là rất quan trọng để giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới liên quan đến tính an toàn của khoản tín dụng.
  20. Trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ nần dây dưa, hoặc làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn, ngân hàng áp dụng phương án thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi khoản nợ, bao gồm phong tỏa và bán các tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi … Trường hợp khách hàng có khó khăn về tài chính, song vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác, bao gồm gia hạn nợ, giảm lãi hoặc cho vay thêm. 1.2.7 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ  Tín dụng ngân hàng góp phần đảm bảo cho hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ được liên tục. Với đòi hỏi của sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải luôn cải tiến kĩ thuật, thay đổi mẫu mã sản phẩm, nghiên cứu sáng tạo những mặt hàng mới. Trên thực tế không có doanh nghiệp nào có đủ 100% vốn để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình mà phải dựa vào một phần nguồn vốn của ngân hàng. Vốn tín dụng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị và trang trải những chi phí cần thiết phục vụ cho quá trình tái sản xuất và phát triển. Và cũng chính nhờ nguồn vốn này đã góp phần cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp luôn được thực hiện liên tục.  Góp phần tăng nguồn vốn,nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệpvừa và nhỏ Cạnh tranh là một quy luật khách quan của kinh tế thị trường, quy luật này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự nỗ lực để tồn tại và không ngừng phát triển. Do có những hạn chế nhất định về quy mô, trình độ quản lý, trình độ tay nghề lao động cũng như trình độ khoa học công nghệ mà các DNVVN gặp nhiều khó khăn trong quá trình cạnh tranh đặc biệt là với các doanh nghiệp lớn và các doanh nghiệp nước ngoài. Để có lượng vốn lớn đầu tư sản xuất trong khi nguồn vốn tự có có hạn mà khả năng tích lũy thấp buộc các doanh nghiệp phải tìm đến nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vốn này của doanh nghiệp bằng các nguồn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0