intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn:TÍNH NHÂN VĂN QUA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN

Chia sẻ: Nguyen Lan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:121

217
lượt xem
40
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hơn nửa thế kỷ trôi qua, kể từ khi tiểu thuyết Tự lực văn đoàn xuất hiện, đã có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau, trong việc đánh giá sự đóng góp của tiểu thuyết lãng mạn nói riêng và trào lưu văn học lãng mạn nói chung trong tiến trình của văn học dân tộc. Trên tinh thần đổi mới, việc thẩm định lại giá trị của văn học quá khứ với một tư duy khoa học, một phương pháp nghiên cứu đúng đắn, một thái độ bình tâm tĩnh trí, một tình cảm...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn:TÍNH NHÂN VĂN QUA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN

  1. PHAÏM THANH HUØNG TÍNH NHÂN VĂN QUA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN LUAÄN AÙN THAÏC SÓ KHOA HOÏC NGÖÕ VAÊN
  2. LUẬN ÁN ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Người hướng dẫn khoa học: HOÀNG NHƯ MAI Giáo sư khoa học Ngữ Văn Người nhận xét 1: Người nhận xét 2: LUẬN ÁN ĐƯỢC BẢO VỆ TẠI HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN ÁN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Vào hồi ………………………giờ, ngày ………… tháng ………… năm 1999 Có thể tìm hiểu luận án tại: THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. THƯ VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ . THƯ VIỆN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM AN GIANG.
  3. Đa tạ quý Thầy, Cô : GS. HOÀNG NHƯ MAI PGS. PTS TRẦN HỮU TÁ PGS. PTS PHÙNG QUÝ NHÂM PTS. NGUYỄN THỊ THANH XUÂN PTS. LÊ TIẾN DŨNG
  4. MỤC LỤC Trang PHẦN DẪN LUẬN ................................................................................. 1 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU : ................................... 1 II. PHẠM VỊ ĐỀ TÀI VÀ TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU : ......................................... 3 III. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ : ................................................................ 4 IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : ................................................................... 11 V. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN : ................................................ 12 VI. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN : ......................................................................... 13 PHẦN NỘI DUNG .............................................................................. 14 CHƯƠNG MỘT : TÍNH NHÂN VĂN - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SÁNG TÁC ..................................... 14 I. KHÁI NIỆM “TÍNH NHÂN VĂN” HAY MỘT KHUYNH HƯỚNG NHÌN NHẬN TỔNG HỢP MỌI GIÁ TRỊ CỦA VĂN HỌC : ......................... 14 II. VÀI NÉT VỀ TÍNH NHÂN VĂN TRONG VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY : ..... 16 III. SƠ LƯỢC VỀ TÍNH NHÂN VĂN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TRƯỚC 1932 - ĐIỂM QUA MỘT SỐ HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TIÊU BIỂU : ........................................................................ 18 CHƯƠNG HAI :TÍNH NHÂN VĂN QUA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN .............................................. 32 I. SỰ RA ĐỜI CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN : ........................... 32 II. QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN CỦA TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN : .................................................................................... 34 III. TÍNH NHÂN VĂN QUA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN - MỘT ĐÓNG GÓP MỚI CHO NỀN VĂN HỌC VIỆT NAM MANG TÍNH NHÂN VĂN : ............................ 53 IV. CÁC NGUỒN ẢNH HƯỞNG : ........................................................................ 113 V. NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ : ............................................................ 118 PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................ 124
  5. Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … PHẦN DẪN LUẬN I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: 1. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, kể từ khi tiểu thuyết Tự lực văn đoàn xuất hiện, đã có rất nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau, trong việc đánh giá sự đóng góp của tiểu thuyết lãng mạn nói riêng và trào lưu văn học lãng mạn nói chung trong tiến trình của văn học dân tộc. Trên tinh thần đổi mới, việc thẩm định lại giá trị của văn học quá khứ với một tư duy khoa học, một phương pháp nghiên cứu đúng đắn, một thái độ bình tâm tĩnh trí, một tình cảm trân trọng di sản văn học của tiền nhân, thiết nghĩ, đó là một việc làm hết sức khó khăn nhưng đầy sức hấp dẫn và rất cần thiết. “Thời gian gần đây, lý luận và phê bình văn chương của ta thường nhắc đến hai chữ nhân văn - tính chất nhân văn, giá trị nhân văn, chủ nghĩa nhân văn - xem đó là hằng tính của văn chương nghệ thuật, là tiêu chí cho sự đổi mới trong lĩnh vực này. Đó là điều xác đáng” (Trần Thanh Đạm) (51.21). Thật vậy, xét đến cùng, qua sự gạn lọc khắc nghiệt của thời gian, các giá trị bền vững nhất của văn học bao giờ cũng được xem xét trong mối quan hệ với con người. “Văn học là một phương tiện quan trọng giúp con người trở thành con người vì nó mở ra những bí mật của con người, giúp con người hiểu thêm về chính mình, trở nên phong phú hơn và một phần từ chỗ hiểu mình, từ sự phong phú của chính mình, con người hiểu thêm về thế giới, sự phong phú của thế giới” (Lê Ngọc Trà) (28.57–58). Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã có nói thêm: “Văn học tiến bộ hay không, lành mạnh hay không, tuỳ thuộc ở giá trị nhân bản của nó chứ không tùy thuộc ở chỗ nó là lãng mạn hay hiện thực. Vả lại không có ranh giới dứt khoát giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn” (76b.31). Theo dõi quá trình hình thành và phát triển của Tự lực văn đoàn (1932 - 1945), người ta không thể không thấy vấn đề mà các nhà văn 1
  6. Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … lãng mạn đặc biệt quan tâm trong các tác phẩm tiểu thuyết của mình là vấn đề giải phóng phụ nữ. Chính từ vấn đề cốt lõi này, việc chọn tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, đi sâu vào nghiên cứu hình tượng người phụ nữ để thấy được sự đóng góp của các nhà văn lãng mạn cho trào lưu nhân văn chủ nghĩa của văn học dân tộc là một việc làm rất có ý nghĩa mà đến nay, vì nhiều lý do, vẫn chưa có sự quan tâm đúng mức. 2. Nghiên cứu “Tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn”, luận án này nhằm hướng đến các mục đích sau: - Góp phần khẳng định giá trị của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn trong việc kế thừa và phát huy truyền thống nhân văn của văn học quá khứ, một vấn đề mà trước đây còn bỏ qua hoặc chưa chú ý đúng mức, đưa văn xuôi Việt Nam bước vào thời kỳ hiện đại. - Cố gắng đưa ra những nhận xét, đánh giá tương đối thỏa đáng, công bằng, khách quan, khoa học về trào lưu văn học lãng mạn nói chung, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nói riêng. - Trong xu thế của sự tác động mạnh mẽ vào những giá trị đạo đức truyền thống đang diễn ra ở bối cảnh xã hội mở cửa hiện nay, vấn đề hôn nhân, tình yêu là một trong những vấn đề thời sự được nhiều người quan tâm, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Qua việc nghiên cứu, luận án cũng muốn góp một tiếng nói định hướng cho những vấn đề trên. II. PHẠM VI ĐỀ TÀI VÀ TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU: 1. Không nói đến chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa nhân đạo hay tư tưởng nhân văn, tư tưởng nhân đạo mà chỉ đề cập đến “tính nhân văn” là có lý do: - Đây là một vấn đề lý thú cần tiếp tục nghiên cứu, bởi so với phương Tây, cùng với “sự ra đời của ý thức hệ tư sản trong giai đoạn đấu tranh chống phong kiến đã kéo theo nó một trào lưu có tính chất nhân đạo chủ nghĩa (hay nhân văn chủ nghĩa) không những trong văn học, nghệ thuật, mà trong nhiều ngành văn hóa, khoa học khác” 2
  7. Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … (Nguyễn Lộc) (40a.72), thì ở Việt Nam ta “do chính sách độc quyền kinh tế của đế quốc, giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam phát triển khó khăn, yếu đuối. Giai cấp này một mặt mâu thuẫn với đế quốc, phong kiến, mặt khác lại phụ thuộc vào chúng. Địa vị kinh tế non yếu, mỏng manh ……” (22.12). Chính vì thế, về mặt văn học, Tôn chỉ của Tự lực văn đoàn chủ yếu chỉ là “lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời; trọng tự do cá nhân; làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa; đem phương pháp khoa học Thái Tây áp dụng vào văn chương An nam”. Tất nhiên, không thể lấy “thước đo” của văn học phương Tây để áp dụng vào văn học Việt Nam, nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng việc “không phải chỉ đòi giải phóng cá nhân khỏi sự ngu dốt, đòi hỏi trì trệ của mọi người được phát triển, mà còn trực tiếp đòi hỏi giải phóng cá nhân khỏi sự gò ép về phương diện chính trị và kinh tế” (66.214) thì ở trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam nói chung, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nói riêng còn có giới hạn. Đừng quên rằng văn học lãng mạn và văn học hiện thực phê phán là hai trào lưu văn học công khai, hợp pháp trong xã hội thực dân nửa phong kiến giai đoạn 1930 – 1945. Hơn nữa, việc khẳng định trào lưu nhân văn chủ nghĩa trong văn học giai đoạn 1930 – 1945 như là một sự kế thừa và phát triển truyền thống nhân văn của văn học dân tộc phải được xem xét một cách toàn diện, không chỉ xuất phát từ cơ sở ý thức hệ, từ thực tiễn văn học mà nhiều khi cần phải nghiên cứu cả “cuộc đấu tranh của quần chúng bị áp bức trong điều kiện giai tầng thứ ba của nó là tầng lớp tư sản đã vươn lên thành một giai cấp đối địch với xã hội phong kiến” (40a.73). - Ở đây, trong phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ đề cập đến những biểu hiện của trào lưu nhân văn chủ nghĩa trong văn học giai đoạn 1930 – 1945 qua hình tượng người phụ nữ ở tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Người viết cũng không có tham vọng đề cập hết những tác phẩm tiểu thuyết lãng mạn của văn đoàn mà chỉ đi vào nghiên cứu những tác phẩm tiêu biểu nhất của những cây bút trụ cột nhất (Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam) và xem đó là sự thể hiện tập trung, sinh động của vấn đề được nêu ra. 3
  8. Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … 2. Tư liệu chính để nghiên cứu bao gồm phần lớn tác phẩm, sách in và những bài báo viết về tiểu thuyết Tự lực văn đoàn chủ yếu được xuất bản từ thập niên 40 đến nay, nhất là từ 1986 trở lại đây, khi có sự đổi mới về tư duy, về nhận thức, quan điểm trong việc đánh giá, tiếp nhận di sản văn học của tiền nhân sao cho công bằng, khoa học hơn. Ngoài ra, để có cái nhìn toàn diện trên cơ sở đối chiếu, so sánh, luận án còn khảo sát các tài liệu nghiên cứu, phê bình văn học trước 1975 ở miền Nam và một số ít tài liệu dịch từ tiếng nước ngoài. III. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ: - Trước 1945, hầu như chưa có những chuyên luận, những công trình nghiên cứu về tác giả, tác phẩm của Tự lực văn đoàn. Thảng hoặc có đề cập đến trong những công trình nghiên cứu dài hơi viết về văn học sử, về lý luận hay phê bình văn học (Dưới mắt tôi (1939) - Trương Chính; Việt Nam văn học sử yếu (1942) – Dương Quảng Hàm; Nhà văn hiện đại (1941 – 1942) – Vũ Ngọc Phan; Văn học khái luận (1942) – Đặng Thai Mai; Ba mươi năm văn học (1942) – Kiều Thanh Quế; Cuốn sổ văn học (1944)–Lê Thanh …) thì do giới hạn bởi phạm vi nghiên cứu, do hạn chế bởi phương pháp, quan điểm tiếp cận … người viết cũng không thể khảo sát, phân tích, lý giải hết sự phong phú, sinh động, phức tạp của những hiện tượng văn học (tác giả, tác phẩm) thuộc văn đoàn. Dưới mắt tôi (Trương Chính) là một quyển phê bình văn học được nhiều người biết đến. Dù có phần hoàn hảo hơn những người đi trước (như Thiếu Sơn với Phê bình và cảo luận - 1933, Phan Khôi với Chương Dân Thi Thoại - 1936 …) trong phương pháp phê bình khi “sự khen chê của ông đã có căn cứ, không đến nỗi vu vơ … nghĩa là những chỗ hay và chỗ dở ông đã chỉ ra rõ ràng, đã nói tại sao hay và tại sao dở … Nhưng Trương Chính có cái tật hay phân tích tính cách các nhân vật nhiều quá luôn luôn ông bẻ các nhà tiểu thuyết sao lại như thế này và không như thế khác …" (77(2).20). Có thể thấy lời phê bình trên đây của Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã nêu rõ lập trường của Trương Chính trong phê bình văn học, lập trường của một ngòi bút theo trường phái phê bình chủ quan, cổ điển. Ở quyển sách này, ông đã chọn phê bình tất cả 28 tác phẩm của 12 nhà văn, hầu hết là những cây bút 4
  9. Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … tiểu thuyết. Về Tự lực văn đoàn, những tác giả được đề cập đến là Nhất Linh với Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Tối tăm; Khái Hưng với Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân,Trống mái, Gia đình; đồng tác giả Nhất Linh và Khái Hưng với Gánh hàng hoa, Đời mưa gió. Riêng Thạch Lam với tập truyện ngắn Gió đầu mùa. Ngoài ra, còn có những tác giả khác như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Lê Văn Trương, Trương Tửu, Lan Khai, Nguyễn Khắc Mẫn, Nguyên Hồng, Từ Ngọc. Mỗi nhà văn ông đi vào phê bình từ một đến nhiều nhất là năm tác phẩm. Mặc dù Trương Chính đã sử dụng phương pháp “nghị luận theo sở thích của mình” (77(2).21) đối với những tác phẩm được đề cập đến, nhưng “khó mà biết được ý kiến rõ rệt của ông về một nhà văn sau khi đọc những bài phê bình của ông về nhà văn ấy” (77(2).25) . Tuy vậy, “Trương Chính cũng là người mở đầu trong phong trào phê bình của những năm 1941 - 1942 - 1943. “Dưới mắt tôi”, Trương Chính đã gây được ở độc giả một lòng ham muốn đọc văn phê bình” (34.183). Xưa nay, khi đề cập đến công việc biên soạn sách giáo khoa dùng trong khoa giảng quốc văn không ai không biết đến quyển Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm. Trong phần “Biên tập đại ý”, chính tác giả đã “mong rằng quyển sách này sẽ làm một bức bản đồ giản ước theo đó các bạn thanh niên biết được phương hướng và đường lối chính để đi vào khu vườn văn học của nước ta, ngõ hầu một ngày kia tìm thấy những hoa lạ, quả quý hiện nay còn ẩn khuất trong đám cành lá rậm rạp” (11.VI). Vì là sách giản ước dùng làm công cụ học tập, phải đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau có liên quan đến việc tìm hiểu toàn bộ nền văn học nước nhà, nên ở chương thứ bảy: “Các văn gia hiện đại. Các khuynh hướng phổ thông của tư tưởng phái Tự lực văn đoàn”, dành cho năm thứ ba ban Trung học Việt Nam, Dương Quảng Hàm chỉ nói đến Tự lực văn đoàn một cách khái quát trong chưa đầy bốn trang trên tổng số 500 trang của cả quyển. Tác giả dường như chưa thể đưa ra những lời nhận xét, đánh giá cụ thể ngoài việc lượt kể hết sức vắn tắt nội dung những tác phẩm tiểu thuyết tiêu biểu như Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên. Một vài ý kiến có tính chất khái quát khi đề cập đến “Công việc của Tự lực văn đoàn” chưa thể đáp ứng được ý muốn tìm hiểu của độc giả về Tự lực văn đoàn. 5
  10. Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … Vũ Ngọc Phan nổi tiếng với bộ sách nghiên cứu, phê bình văn học đồ sộ Nhà văn hiện đại (1941 - 1942) đã khẳng định “một chỗ đứng riêng, và có sự đóng góp không thể thay thế” (77(2).557) . Dù đã trải qua hơn nửa thế kỷ, bộ sách “vẫn có ích cho bất cứ ai muốn tìm hiểu nền văn học chữ quốc ngữ những năm trước Cách mạng tháng Tám” (77(2).557). Bằng một tinh thần lao động sáng tạo, cần cù, bền bỉ, một tác phong nghiên cứu khoa học nghiêm cẩn, vô tư, Vũ Ngọc Phan phải tốn rất nhiều công sức mới có thể chiếm lĩnh hơn 60 năm văn học và đã giới thiệu được 79 nhà văn tham gia sáng tác bằng chữ quốc ngữ từ cuối thế kỷ XIX như Trương Vĩnh Ký, đến những cây bút trẻ nổi tiếng của những năm 40 thế kỷ XX. Viết về Tự lực văn đoàn, căn cứ vào sự sắp xếp theo loại văn đối với các nhà văn lớp sau, ông đã xếp Khái Hưng vào thiên các tiểu thuyết gia phong tục, Nhất Linh và Hoàng Đạo là những tiểu thuyết gia luận đề, Thạch Lam thuộc về các tiểu thuyết gia xã hội. Đi vào lĩnh vực phê bình tiểu thuyết, ở mỗi tác giả, Vũ Ngọc Phan đề cập đến những tác phẩm tiêu biểu mà người đọc đương thời biết đến. Chẳng hạn, viết về Khái Hưng, ông nói đến Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Trống mái, Thừa tự, Hạnh. Với Nhất Linh, ông viết về Nho phong, Gánh hàng hoa. Hoàng Đạo với Con đường sáng và Thạch Lam với Ngày mới. Nhìn chung, khi đi sâu vào phân tích những tác phẩm cụ thể “ông tỏ ra tinh tế, sắc sảo, khen chê có căn cứ, có lý có tình. Tính chính xác của tư liệu được đảm bảo ở mức độ cao” (77(2).558). Mặc dù, do nhiều lý do cả khách quan và chủ quan, người đọc vẫn thấy được phê bình của ông “còn thiên về cảm thụ nghệ thuật, thiếu sự thuyết phục của một tư duy logic sâu sắc” (77(2).558). Với Văn học khái luận của Đặng Thai Mai, “lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, những vấn đề cơ bản của lý luận văn học đã được trình bày một cách hệ thống” (74.171), mặc dù tác giả không chỉ có ý định giới thiệu với người đọc những khái niệm lý luận kinh viện. Tiếp thụ và vận dụng quan điểm marxisme vào văn học, Đặng Thai Mai đã tiếp cận được nhiều vấn đề của lý luận văn học và trình bày nó trong sự kết hợp hòa quyện giữa tinh thần lý luận với bút pháp phê bình, giữa nguồn tri thức của phương Đông cổ truyền với tri thức của phương Tây 6
  11. Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … hiện đại. Người đọc có thể dễ dàng có được những khoái cảm thẩm mỹ khi đọc đến những đoạn văn mà ngòi bút của tác giả tỏ rõ cảm hứng phê bình. Chẳng hạn, khi tác giả thừa nhận tình yêu là một trong những chủ đề vĩnh cửu của văn học, nhưng mỗi thời đại lại đem đến cho chúng một sắc thái mới, và nhà văn đã đi vào so sánh tình yêu trong các tác phẩm từ Truyện Kiều, Tố Tâm đến Đoạn tuyệt. Vì là một công trình lý luận văn học hơn là một thành tựu về phê bình văn học nên người đọc chỉ có thể tìm thấy rải rác đây đó những nhận định thú vị và bổ ích cho việc tìm hiểu lịch sử văn học nước nhà. Việc tìm hiểu tác giả, tác phẩm với tư cách là một hiện tượng văn học sẽ không được thỏa mãn. Ba mươi năm văn học của Kiều Thanh Quế và Cuốn sổ văn học của Lê Thanh ra đời xuýt xoát nhau hai năm đều nhắm tới một công việc là phác họa ra một bảng lược đồ văn học. Ở quyển sách ra đời trước của mình, Kiều Thanh Quế đã đem đến cho người đọc sự tóm tắt mọi diễn biến về lịch sử văn học trong suốt giai đoạn ba mươi năm của tiền bán thế kỷ hai mươi. Trong khi đó, trọng tâm của Cuốn sổ văn học là công việc trước mắt hạn chế trong thời gian năm 1943, dù tác giả đã có mở rộng về phía trước, có khi khảo sát cả đến năm 1939 và hơn nữa. Nhìn chung, cả hai quyển sách trên đều là những công trình văn học sử. Việc tìm hiểu về Tự lực văn đoàn nói riêng, hay những hiện tượng văn học khác nói chung, khó có thể tìm thấy được những lý giải, những nhận xét, phê bình tương đối đầy đủ và có hệ thống. Sự khát khao của độc giả vẫn còn đó. - Sau 1945, trong suốt một thời gian dài kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước, do hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, do bản thân dòng văn học lãng mạn nói chung và những sáng tác của những cây bút trong Tự lực văn đoàn nói riêng có những yếu tố tiêu cực, và cũng do nhận thức còn phiến diện cho sáng tác của văn học lãng mạn là vô bổ, độc hại, nên tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã bị cấm, không được phổ biến. Các bộ lịch sử văn học (như Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945 do Viện Văn học chủ trì biên 7
  12. Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … soạn, Lịch sử văn học Việt Nam 1930–1945, Văn học Việt Nam 1930– 1945 của nhiều tác giả …) dù có dành hẳn một chương để viết về tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, nhưng tất cả đều với một cách nhìn nhận gần như giống nhau “đề cao chắc chắn là không đúng. Nhưng phủ định sạch trơn hẳn cũng khó được đồng tình” (22.88), “… sự đóng góp của Tự lực văn đoàn đã không tránh khỏi bấp bênh, có phần sa vào hình thức chủ nghĩa, cái sai nhiều hơn cái đúng, nhất là càng về sau, cái sai lấn át cái đúng”(22.89). Đó là chưa kể đến cách nhận xét, đánh giá cứng rắn hơn trong các sách giáo khoa viết cho học sinh lớp 12/PTTH kể từ 1987 trở về trước: “Văn học lãng mạn Việt Nam căn bản là bạc nhược, suy đồi” hay “Nội dung bạc nhược, suy đồi và có tính chất phản động” ,“học sinh thanh niên ta cũng cần phải có ý thức cảnh giác với loại sách có nhiều nọc độc đó”. Chính vì lẽ đó, trong suốt một thời gian dài từ trước 1975, ở miền Bắc, văn chương lãng mạn nói chung, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nói riêng đã bị loại ra khỏi đời sống văn học. Ở miền Nam trong vùng địch tạm chiếm lúc bấy giờ, tình hình nghiên cứu vẫn tiếp tục với các công trình của Thanh Lãng, Lê Hữu Mục, Nguyễn Văn Xung, Doãn Quốc Sỹ, Thế Phong, Nguyễn Văn Trung, Tràng Thiên, Phạm Việt Tuyền, Thế Trung, Dương Nghiễm Mậu …(Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Luận đề về Nhất Linh, Bình giảng về Tự lực văn đoàn, Văn học và tiểu thuyết, Lược khảo văn học, Tiểu thuyết hiện đại, Phương pháp nghị luận phân tích và phê bình văn chương …). Thế nhưng, tất cả vẫn chưa có được một sự nghiên cứu thật toàn diện và chuyên sâu, phác họa đầy đủ diện mạo của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Đó là chưa kể đến quan điểm, phương pháp nghiên cứu, đánh giá đã thực sự phù hợp hay chưa. Sau 1975, dù đất nước đã liền một dãy, nhưng khoảng mười năm tiếp theo, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn hầu như vẫn chưa cất lên được tiếng nói khách quan, khoa học từ các trang sách, báo nghiên cứu. Ngay cả đến những công trình nghiên cứu dày công cũng chưa thoát khỏi cái nhìn “tiểu thuyết Tự lực văn đoàn có nhiều độc tố và nguy hiểm là những 8
  13. Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … độc tố đó lại được bao bọc bởi một hình thức nghệ thuật khá quyến rũ và hấp dẫn”(61.96–97). Chỉ từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) khi có chủ trương đổi mới tư duy và dân chủ hóa trong văn học nghệ thuật, vấn đề Tự lực văn đoàn mới được đặt lại một cách thỏa đáng hơn, cố gắng không để “cái quan luận định”(từ của người xưa) hẹp hòi, phiến diện hay một tình cảm nào đó kích thích, chi phối việc nghiên cứu, đánh giá. Đã có một số sách, bài viết từ phía các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình ở các Viện, Trường và các cơ quan văn nghệ báo chí như: Hoàng Như Mai, Lê Trí Viễn, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Đỗ Đức Hiểu, Trương Chính, Trần Hữu Tá, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Trác, Đái Xuân Ninh, Lê Đình Kỵ, Huy Cận, Lại Nguyên Ân, Vu Gia… đã đặt vấn đề cần phải ghi nhận những đóng góp của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn về nội dung tư tưởng cũng như về hình thức nghệ thuật. Đã đến lúc không thể giữ mãi quan điểm “khó lòng khen khi họ là kẻ thù, khó lòng khách quan, không khéo lại mất lập trường. Tốt nhất là không dành cho người nào một số trang riêng biệt. Cứ gói cả vào một gói. Cái hay ở chỗ này, ở người này, sẽ bị cái dở ở chỗ kia, ở người kia hạn chế. Hơn nữa luôn luôn nhắc đến tư tưởng tư sản, thế giới quan duy tâm của họ. So sánh họ với những người cộng sản, càng dễ thấy họ lạc hậu, phản động. Không còn chối cãi đằng nào được. Ngay về những đóng góp của họ, trên phương diện hình thức nghệ thuật cũng có thể viết một vài câu khen, nhưng liền đó thì nhận xét luôn: nghệ thuật của họ chỉ hợp với khẩu vị của người trí thức tiểu tư sản thành thị thời bấy giờ” (73a.9). Đó là điều đáng mừng. Song, đây đó trong một vài công trình nghiên cứu ít nhiều vẫn còn bộc lộ sự dè dặt, thậm chí chưa thật sự khách quan, khoa học trong việc phân tích và đánh giá. Chẳng hạn, hai Giáo sư Nguyễn Trác và Đái Xuân Ninh trong cuốn “Về Tự lực văn đoàn” khi viết về Nhất Linh (Chương hai), đã có đoạn: “Bằng những hành động xấu xa ấy, Nguyễn Tường Tam đã giết chết Nhất Linh, tác giả những Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Tam đã lạnh lùng đoạn tuyệt với những bạn đồng nghiệp của mình, những Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ, những người đã tỉnh giấc thoát khỏi văn đoàn của Tam đi theo nhân dân, theo kháng chiến, theo nghĩa vụ, theo lương tâm. 9
  14. Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … Sau khi chúng ta chiến thắng ở Điện Biên Phủ và trở lại thủ đô thì Nguyễn Tường Tam lại bỏ nhân dân một lần nữa. Một cây thương gẫy, một con ngựa què, Tam lủi thủi đi về phương Nam, theo chân những kẻ nuôi chí phá hoại hòa bình, ngăn cản thống nhất”(44.98–99). Thiết nghĩ, không cần phải biện giải thêm những nhận xét, đánh giá như thế, khi mà người viết đã hoàn toàn dùng tiêu chí chính trị để xem xét sự nghiệp văn chương, mặc dù không thể phủ nhận sự tác động qua lại giữa cuộc đời và sự nghiệp của người nghệ sĩ. Tóm lại, tính đến nay, chúng ta có thể thấy rằng: việc nghiên cứu về Tự lực văn đoàn chưa thật đáp ứng lòng mong đợi từ phía độc giả đối với giới nghiên cứu, phê bình văn học nước ta. Người đọc đang khát khao có được những tiếng nói tương đối khách quan,công bằng, khoa học và toàn diện về Tự lực văn đoàn- một hiện tượng văn học đã tạo nên những tác động mạnh mẽ và lâu dài đối với sự phát triển của lịch sử văn học dân tộc. IV.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Xuất phát từ yêu cầu của bản thân đối tượng nghiên cứu và theo mục đích của luận án, chúng tôi đã thực hiện luận án theo các phương pháp sau: phương pháp nghiên cứu lịch sử – phát sinh (nhằm để xác định quá trình phát triển của Tự lực văn đoàn và những công trình nghiên cứu về Tự lực văn đoàn); phương pháp nghiên cứu lịch sử – chức năng (nhằm tìm hiểu sự tiếp nhận các tác phẩm tiểu thuyết Tự lực văn đoàn trong sự biến động của bối cảnh văn hóa – xã hội); phương pháp nghiên cứu hệ thống – cấu trúc (chủ yếu nhằm nghiên cứu và phân tích các quan điểm, phương pháp nghiên cứu Tự lực văn đoàn; nghiên cứu, phân tích hệ thống các nhân vật, sự kiện, tình tiết … tạo nên diện mạo riêng của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, đặc biệt ở hình tượng người phụ nữ); phương pháp so sánh (dùng để đối chiếu các tác giả và các tác phẩm tiêu biểu của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn có đề cập đến hình tượng người phụ nữ để tìm ra những nét chung và những nét riêng đặc thù; đối chiếu các cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau về Tự lực văn đoàn; đối chiếu với văn học quá khứ và cùng thời để thấy được những đóng góp của Tự lực văn đoàn). 10
  15. Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … Ngoài những phương pháp cơ bản trên, luận án cũng đã tiếp nhận những cách nhìn và quan điểm đúng đắn trong những thành tựu nghiên cứu về Tự lực văn đoàn của các thế hệ đi trước, đặc biệt là những bài viết, sách in ở những năm gần đây. Từ đó, định hướng phương pháp nghiên cứu sao cho phù hợp với nội dung luận án đặt ra. V. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN: - Cố gắng nghiên cứu một cách có hệ thống những biểu hiện của tính nhân văn qua hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. - Nhìn lại và đánh giá một cách thấu tình đạt lý những đóng góp cùng những hạn chế ở những tác giả chủ yếu của Tự lực văn đoàn trong việc thể hiện hình tượng người phụ nữ, đặt trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc. VI.CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN: Ngoài phần Dẫn luận và phần Kết luận, phần Nội dung gồm hai chương như sau: CHƯƠNG MỘT: TÍNH NHÂN VĂN – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SÁNG TÁC CHƯƠNG HAI: TÍNH NHÂN VĂN QUA HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TIỂU THUYẾT TỰ LỰC VĂN ĐOÀN. 11
  16. Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG MỘT: TÍNH NHÂN VĂN – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SÁNG TÁC I.KHÁI NIỆM “TÍNH NHÂN VĂN” HAY MỘT KHUYNH HƯỚNG NHÌN NHẬN TỔNG HỢP MỌI GIÁ TRỊ CỦA VĂN HỌC: Trong Phần Dẫn luận, chúng tôi đã có dịp đề cập đến thuật ngữ “nhân văn” và rất đồng tình với quan điểm của GS. Trần Thanh Đạm khi xem tính chất nhân văn, giá trị nhân văn, chủ nghĩa nhân văn “là hằng tính của văn chương nghệ thuật, là tiêu chí cho sự đổi mới trong lĩnh vực này”(tức lĩnh vực lý luận, phê bình văn chương- PTH.) . GS. Nguyễn Huệ Chi trong một bài viết của mình cũng đã từng có ý kiến: “…nếu đẩy tới một cấp độ cao hơn, cấp độ tính nhân bản của văn học, thì mọi sự phân biệt ở đề tài dường như biến mất. Sẽ không còn chỗ cho thứ lập luận bám vào những lợi ích gần gũi trước mắt để biện minh rằng loại đề tài này sáng giá hơn loại đề tài nọ, vì cái đích vươn tới xa nhất của văn học giờ đây là con người với vẻ đẹp trần tục của nó, với niềm tin,khát vọng,cái cao quý cũng như cái tầm thường hèn mọn của con người. Văn chương yêu nước hay văn chương đời thường đều không thể lảng tránh mục đích cao sâu này”(39b.9). Và như thế “Một nền văn học đậm nét nhân bản sẽ nổi bật lên, xóa đi được những sự ngăn cách giả tạo, những mặc cảm không cần thiết giữa những nhà văn “hạng nhất”. “hạng hai”, “chiếu nhất”, “chiếu nhì”vân vân…Diện mạo văn học dân tộc cũng sẽ hiện ra phong phú, đa dạng và sinh sắc hơn nhiều. Và người ta không còn đối xử với văn học, một môi trường đặc thù,theo cách đối xử của những con người phải đối mặt với nhau trong chiến trận,hay trong dòng thác của cách mạng”(39b.9) . Ở luận án này, khái niệm “tính nhân văn” được sử dụng nhằm chỉ đến cái giá trị tinh thần bền vững của mọi sáng tạo nghệ thuật đã đạt đến trình độ của Cái Đẹp .Nghĩa của chữ “văn” là vẻ đẹp. Hay nói khác đi, theo nghĩa rộng, "tất cả những cố gắng, tư 12
  17. Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … tưởng và trào lưu lấy con người tiến lên tự do làm trung tâm, - tin vào sức sáng tạo vô biên của con người, yêu con người và cuộc sống trần gian" đều có thể đề cập đến khái niệm "nhân văn" hay " nhân đạo" (23.18). Và như thế, tính nhân văn theo đó cũng được xem như một khuynh hướng nhìn nhận tổng hợp mọi giá trị của văn học chân chính hướng đến con người. Chính M.Gorki đã có lý khi nói rằng: “Văn học là một nghệ thuật nhân văn hơn cả, người ta có thể nói những nhà văn đều là những nhà nhân văn do nghề nghiệp của mình, những người sản sinh ra chủ nghĩa nhân văn”(24.61) . Sở dĩ, chúng tôi không đề cập đến cụm từ “ chủ nghĩa nhân văn” hay “chủ nghĩa nhân đạo”, “tư tưởng nhân văn” hay “tư tưởng nhân đạo” ở đề tài của luận án này là vì trong phạm vi nghiên cứu của mình, chúng tôi chưa có điều kiện để vươn tới quan niệm triết học, quan niệm tư tưởng của nội hàm vấn đề. Chúng tôi nghĩ rằng những khái niệm như “nhân bản”, “nhân đạo”, “nhân văn” tuy có liên quan mật thiết với nhau, song không phải là một, không nên xem là hoàn toàn đồng nghĩa. Có thể thấy rằng “nếu chủ nghĩa nhân bản thiên về sự thấu hiểu, thông cảm phần thể xác của con người thì chủ nghĩa nhân đạo chú tâm hơn phần đạo lý của nó… Chủ nghĩa nhân bản xác lập cái chân, chủ nghĩa nhân đạo khuyến khích cái thiện. Nhưng con người xứng đáng với vị thể và danh hiệu loài người không chỉ sống thực, sống tốt mà còn sống đẹp; cái đẹp chân chính bao gồm cả cái thực và cái tốt bên trong. Đây là lĩnh vực của chủ nghĩa nhân văn, giang sơn của văn hóa, văn chương, nghệ thuật…Chủ nghĩa nhân văn cũng là chủ nghĩa nhân bản, chủ nghĩa nhân đạo, là tri thức và đạo đức về con người trong cái biểu hiện về văn hóa, nghệ thuật, là hình thái tổng hợp và sáng tạo của cả ba nhân tố”(tức chân, thiện và mỹ trong sự hài hòa tuyệt diệu - PTH.) (Trần Thanh Đạm) (51.23–24) . Có lẽ vì thế mà lĩnh vực lý luận, phê bình văn học trong những năm gần đây thường hay đề cập đến thuật ngữ “nhân văn”. II. VÀI NÉT VỀ TÍNH NHÂN VĂN TRONG VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY: 13
  18. Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … Tính nhân văn được xem như một giá trị tinh thần bền vững đã từng tồn tại trong văn hóa văn học dân gian các dân tộc thời cổ. Nhưng phải tới thời đại Phục hưng ở phương Tây (thế kỉ XIV-XVI) khi chủ nghĩa nhân văn xuất hiện với tư cách là một hệ thống quan điểm triết học, đạo đức, chính trị-xã hội thì tính nhân văn trong văn hóa văn học mới đạt đến “một cuộc đảo lộn tiến bộ nhất mà từ xưa đến nay nhân loại chưa từng thấy” (F. Engels). Giai cấp tiến bộ nhất ở thời kỳ Phục hưng chính là giai cấp tư sản. Ngay từ khi mới ra đời, với những yêu cầu phát triển về kinh tế- xã hội, nó đã vấp phải một trở ngại lớn lao là chế độ phong kiến và Giáo hội La Mã. Hệ tư tưởng Thiên Chúa giáo thống trị cùng với cơ chế chuyên chính của nó là chính quyền phong kiến, Giáo hội, toà án tôn giáo,thần học, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa khổ hạnh, chủ nghĩa ngu dân……đã từng khẳng định con người chỉ có được niềm hạnh phúc thuần tuý tinh thần ở thiên đường, chỉ đạt tới cõi vĩnh hằng cao cả một khi sống phải nhẫn nhục, chịu đựng, sám hối chuộc tội, cầu nguyện. Chân lý và ngọn nguồn của mọi tri thức và sự sáng tạo là ở Chúa Trời và Kinh Thánh. Chủ nghĩa nhân văn ở phương Tây ra đời là một sự phản ứng chống lại hệ tư tưởng phản động đó, là một trong những biểu hiện chủ yếu của “cuộc đảo lộn tiến bộ nhất” trong lĩnh vực hệ tư tưởng, thế giới quan, nhân sinh quan. Ra đời ở Ý (thế kỉ XIV-XV), chủ nghĩa nhân văn đã nhanh chóng tỏa ảnh hưởng sang các nước Châu Âu khác. Ở Đức, Pháp, Anh…. trào lưu nhân văn chủ nghĩa diễn ra đồng thời với trào lưu cải cách tôn giáo. Ở lĩnh vực văn hóa văn học, biểu hiện đầu tiên và mạnh mẽ là việc các nhà nhân văn (thường để chỉ những người khởi xướng trào lưu này) như các nhà thơ nhà văn người Italia: F. Petrarca (1304 - 1374), G.Boccaccio (1313 - 1375) đã chủ trương giải phóng văn học nghệ thuật nói riêng và văn hóa nói chung ra khỏi sự bảo trợ của nhà thờ Cơ Đốc giáo và giải phóng cá nhân con người. Họ đã đi sâu vào về việc khôi phục, nghiên cứu, dịch thuật, truyền bá những thành tựu rực rỡ giàu sức sống và vẻ đẹp hồn nhiên của văn hóa cổ đại Hy Lạp - La Mã đã từng bị quên lãng trong suốt thời Trung cổ, nhằm khôi phục những giá trị tư tưởng - nhân văn của chúng. Họ hướng văn học nghệ thuật vào sự sáng 14
  19. Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … tạo và ca ngợi cái đẹp trần thế lành mạnh, tự nhiên, đề cao những khát vọng cao đẹp và niềm tin vào sức mạnh toàn năng của con người: “ Con người là người thợ rèn rèn ra hạnh phúc của mình” (Pic de la Mirandole (1463-1494)); “Con người là vẻ đẹp của thế gian, kiểu mẫu của muôn loài”( W. Shakespeare (1564-1616)) … Tiếp tục những thành tựu về khoa học tự nhiên và triết học tự nhiên của thời đại, bằng hình tượng nghệ thuật các nhà văn thuộc trào lưu nhân văn chủ nghĩa ở phương Tây cũng đã chỉ ra rằng chính chiến tranh phong kiến, chủ nghĩa khổ hạnh tôn giáo, chủ nghĩa cấm dục, chủ nghĩa giáo điều, kinh viện, ngu dân, thói đàn áp tự do tư tưởng … là trái với tự nhiên, là nguồn gốc của mọi bất hạnh, xấu xa, tội lỗi trên thế gian và đã gây ra những rối loạn trong đời sống … Có thể nói sự ra đời của chủ nghĩa nhân văn thời đại Phục hưng phương Tây là một bước ngoặt quan trọng trong quá trình giải phóng tinh thần và tự ý thức của nhân loại. Cùng với cuộc đấu tranh giải phóng con người về các phương diện chính trị - xã hội và các phương diện khác, văn học nghệ thuật nói riêng và văn hóa nhân loại nói chung, từ thời đại Phục hưng, đã bước sang một giai đoạn phát triển mới: lý tưởng nhân văn trở thành lý tưởng thẩm mỹ định hướng cho những tìm tòi, khám phá, sáng tạo về nghệ thuật, đồng thời qui định bản chất nền văn học nghệ thuật của các dân tộc trên thế giới. III. SƠ LƯỢC VỀ TÍNH NHÂN VĂN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TRƯỚC 1932 - ĐIỂM QUA MỘT SỐ HÌNH TƯỢNG NGƯỜI PHỤ NỮ TIÊU BIỂU: Tính nhân văn với tư cách là một hằng tính của nghệ thuật đã được biểu hiện một cách sinh động ở lĩnh vực văn học. Ngay từ thời cổ đại ở phương Đông cũng như phương Tây, con người đã có ý thức và nguyện vọng chăm lo để phát huy cao nhất mọi tiềm năng về phẩm chất và năng lực của con người, hướng tới lý tưởng con người phát triển hài hòa và toàn diện. Đó cũng là lý tưởng về Cái Đẹp của con người - lý tưởng nhân văn. Lý tưởng ấy không chỉ tồn tại trong cuộc sống loài người như là một mục tiêu hướng tới mà còn trở thành mục tiêu cho sự hoàn thiện trong sáng tạo văn học nghệ thuật. Tác phẩm thể hiện một 15
  20. Luaän aùn Thaïc só khoa hoïc Ngöõ Vaên Tính nhaân vaên qua hình töôïng ngöôøi phuï nöõ … cách sâu sắc lý tưởng nhân văn là những tác phẩm đồng thời cũng mang tính nhân văn. Với quan niệm như thế, chúng tôi cho rằng lịch sử phát triển của văn học mọi dân tộc là lịch sử phát triển của lý tưởng nhân văn, của tính nhân văn - với tư cách là những phạm trù giá trị chung nhất, là sự tổng hòa của cái chân, thiện và mỹ. Dĩ nhiên, với cách nhìn nhận đó thì không phải đợi sự ra đời của giai cấp tư sản với cơ sở ý thức hệ của nó là ý thức hệ tư sản đang trưởng thành, đấu tranh chống lại ý thức hệ phong kiến đang thống trị thì văn học các dân tộc mới hướng đến lý tưởng nhân văn, mới mang tính nhân văn. 1. Nhìn lại kho tàng văn học dân gian và văn học viết dân tộc từ nửa đầu thế kỷ XVIII trở về trước - nghĩa là trước khi nền văn học dân tộc xuất hiện trào lưu nhân văn chủ nghĩa - chúng ta thấy có một sự biểu hiện rất sinh động của một lý tưởng nhân văn Việt Nam, của tính nhân văn Việt Nam trong văn học thời kỳ trung đại. Khi hai người con gái và con trai trao đổi với nhau về công việc lao động mà cũng có thể là trao đổi với nhau về tình yêu bằng những câu hát dân gian đẹp như thế này: - Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng, Tre non đủ lá đan sàng nên chăng? - Đan sàng thiếp cũng xin vâng, Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng? thì không chỉ có ở đây sự chân thực (CHÂN), sự tế nhị, cao thượng (THIỆN), mà còn có cả cái đẹp của niềm vui và ước vọng trong lao động, trong tình yêu (MỸ). Trong truyện cổ dân gian cũng không thiếu những ví dụ. Chẳng hạn hình tượng cô Tấm, Sọ Dừa … Với văn học viết cũng vậy. Trong Truyền kỳ mạn lục, chúng ta dễ dàng đọc được những câu chuyện đề cập đến quyền sống của con người, tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, biểu dương những tấm gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung … (Chuyện người con gái Nam Xương, Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu,…), trừng phạt bọn người gian 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2