intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Lý luận về nền Kinh Tế thị trường

Chia sẻ: Thanh Thảo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:29

64
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Từ thời các vua Hùng dựng nước cho tới nay, đất nước Việt Nam đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước. Từ cuộc chiến chống quân Nguyên Mông tới cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Ngày nay, kết quả của sự hi sinh ấy là một đất nước hoà bình và phát triển. Tuy nhiên, chúng ta đã chịu một cái giá không phải là nhỏ: ngoài những thiệt hại không thể tính được về người, chúng ta còn phải gánh chịu sự tổn thất to lớn về...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Lý luận về nền Kinh Tế thị trường

  1. LỜI MỞ ĐẦU Mỗi một con ngườ i Việt Nam đề u có một lòng tự hào về dân tộc rất mạnh mẽ. Điều đó được xuất phát từ tinh thần đoàn kết dân tộc, yêu nước, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ Tổ Quốc. Từ thời các vua Hùng dựng nước cho tới nay, đất nước Việt Nam đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước. Từ cuộc chiến chống quân Nguyên Mông tới cuộc kháng chiến trườ ng kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc M ỹ. Ngày nay, kết quả c ủa sự hi sinh ấy là một đất nước hoà bình và phát triển. Tuy nhiên, chúng ta đã chịu một cái giá không phải là nhỏ: ngoài những thiệt hại không thể tính được về ngườ i, chúng ta còn phải gánh chịu s ự tổn thất to lớn về kinh tế. Đó là: về nông nghiệp 1/7 ruộng đấ t bị bỏ hoang, 1/3 ruộng đất không có nước tướ i để cày cấy, về công nghiệp sản lượng năm 1954 so với năm 1939 từ 10% xuống 1,5%...Trong thời gian sau chiến tranh, chúng ta xây dựng một nền kinh té tập trung theo kiểu mẫu Liên Xô và đã thu được một số thành công khắc phục được những khó khăn trước mắt. Những tưở ng đó là con đườ ng đúng đăn, phù hợp với nước ta nhưng một lần nữa nền kinh tế lại rơi vào khủng hoảng. Năm 1986 là một mốc quan trọng c ủa nền kinh tế Việt Nam. Tại cuộc họp lần thứ VI c ủa Đả ng, quốc hội quyết định chuyển hướ ng nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trườ ng có s ự quản lý c ủa nhà nước theo định hướ ng xã hội chủ nghĩa. Vậy tại sao chúng ta phải chuyển đổi nền kinh tế? Tại sao lại phả i chuyển sang nền kinh tế thị trườ ng có sự quản lý c ủa nhà nước theo định hướ ng xã hội chủ nghĩa? Nền kinh tế này như thế nào? Từ khi chuyển đổi nền kinh tế chúng ta đã thu được những thành tựu gì? Trong tương lai chúng ta sẽ phải giải quyết những vấn đề nào? Trong khuôn khổ c ủa đề án này tôi xin cố gắng làm rõ những vấn đề trên và cùng xác định những công việc mà tuổi trẻ cần là m để đưa đất nước phát triển sánh vai cùng các cườ ng quốc trên thế giới. 1
  2. I.NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯ ỜNG 1. Nền kinh tế thị trường là gì? - Nền kinh tế thị trườ ng là một mô hình kinh tế mà trong đó hầu hết các quan hệ kinh tế được thực hiện dướ i hình thái hàng hoá và dịch vụ, với nhiều thành phần tham gia, vận động theo cơ chế thị trườ ng. - Như vậy, nền kinh tế thị trườ ng là một mô hình kinh tế mà các thành phần c ủa thị trườ ng có mối quan hệ thông qua hàng hoá, dịch vụ và thông qua các hoạt động trao đổi. Tất cả các quan hệ đó được điều tiết bằng một cơ chế tự điều tiết c ủa thị trườ ng do sự tác động c ủa các quy luật vốn có c ủa nó. Nói một cách c ụ thể hơn về cơ chế tự điều tiết c ủa thị trườ ng đó là một hệ thống hữu cơ c ủa s ự thích ưngs với nhau, tự điều tiết lẫn nhau c ủa các yếu tố giá cả, cung-cầu, cạnh tranh...trực tiếp phát huy trên thị trườ ng để điều tiết. Thực khó có thể đánh giá đầ y đủ những ưu điể m & khuyết tật c ủa cơ chế thị trườ ng. Tuy nhiên, cơ chế thị trườ ng có những ưu điểm nổi bật sau: - Cơ chế thị trườ ng kích thích hoạt động c ủa các chủ thể kinh tế & tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động c ủa họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được các nguồn lực c ủa xã hội vào phát triển kinh tế, thúc đẩ y lực lượ ng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội. -Sự tác động c ủa cơ chế thị trườ ng đưa đế n sự thích ứng tự phát giữa khối lượ ng & cơ cấu nhu cầu c ủa xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho cá nhân & cho sản xuất. - Cơ chế thị trườ ng mềm dẻo & có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi. Chính vì vậy, cơ chế thị trườ ng giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Song cơ chế thị trườ ng không phải là hiện thân c ủa sự hoàn hảo. Nó còn có cả những những khuyết tật, đặc biệt về mặt xã hội. Có thể chỉ ra một số khuyết tật dướ i đây c ủa cơ chế thị trườ ng: - Hiệu lực c ủa cơ chế thị trườ ng phụ thuộc vào mức độ hoàn hảo c ủa cạnh tranh. Một nền kinh tế được thúc đẩ y bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn tới phân bố & sử dụng có hiệu quả nhất đầ u vào & đầ u ra c ủa sản xuất. Cạnh tranh không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trườ ng càng giảm. -Trong cơ chế thị trườ ng, mục đích hoạt động c ủa các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa. Vì vậy, họ có thể lạ m dụng tài nguyên c ủa xã hội, gây ô nhiễ m môi trườ ng sống của con ngườ i mà xã hội phải gánh chịu. 2
  3. - Sự tác động c ủa cơ chế thị trườ ng đưa đến sự phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đế n đạo đức & tình ngườ i. - Một nền kinh tế do cơ chế thị trườ ng điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ. 2. Tính quy luật c ủa sự hình thành nền kinh tế thị trường: - Phát triển là một s ự thay đổi về chất, như vậy trước đó chúng ta phải có sự tích luỹ về lượ ng. Hay nói cách khác, chúng ta phải hội đủ các điều kiện thì mới có sự thay đổi đó được. Như vậy, muốn hình thành nền kinh tế thị trườ ng , chúng ta cũng phải hội đủ các quy luật hình thành c ủa nó. Đó là: + Sự phân công lao động xã hội: trước đây trong nền kinh tế tự cung tự cấp, mỗi một thành viên c ủa nền kinh tế đều tự sản xuất ra các mặt hàng theo nhu cầu và khả năng c ủa mình. Tức là, một ngườ i nông dân muốn có gạo ăn, áo mặc...thì anh ta phải tự sản xuất ra các thứ đó, không ai cung cấp cho anh ta. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trườ ng, các thành viên c ủa nền kinh tế quan hệ với nhau thông qua hàng hoá. Tức là sản phẩm c ủa ngườ i này cần thiết cho ngườ i kia và có thể trao đổi được. Như vậy tức là phải có ngườ i sản xuất sản phẩ m này và có ngườ i sản xuất dản phẩm kia. Đó chính là sự phân công lao động xã hội. Nếu nền kinh tế không có sự phân công lao động rõ ràng thì sẽ không có hàng hoá và không hình thành nền kinh tế thị trườ ng. + Quy luật hình thành thứ hai c ủa nền kinh tế thị trườ ng là sự tồn tại độc lập và không phụ thuộc vào nhau giữa những doanh nghiệp , những ngườ i sản xuất hàng hoá. Có nghĩa là trong nền linh tế thị trưòng, việc sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai là việc riêng c ủa mỗi ngườ i, mỗi doanh nghiệp. Họ là những ngườ i sản xuất độc lập. Những doanh nghiệp sản xuất hàng hoá có thể là thuộc quyền sở hữu tư nhân, hay thuộc quyền sở hữu tập thể hoặc thuộc quyền sở hữu c ủa nhà nước... nhưng chúng vẫn là những doanh nghiệp sản xuất hàng hoá độc lập. Đối với xã hội thì lao động c ủa mỗi doanh nghiệp (dù là thuộc hình thức sở hữu nào) vẫn là lao động tư nhân, và chỉ khi nào bán được hàng hoá thì lao động tư nhân đó mới được xã hội thừa nhận và trở thành một bộ phận thực sự c ủa lao động xã hội. Với phân công lao động xã hội, lao động sản xuất hàng hoá mang tính chất lao động xã hội, một bộ phận c ủa toàn bộ lao động xẫ hội. Sự phân công lao động xã hội tạo nên sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất, họ làm việc với nhau thông qua trao đổi hàng hóa. Còn với tư cách là doanh nghiệp thì lao động sản xuất hàng hoá c ủa họ lại mạng tính chất tư nhân. Sự mâu thuẫn giữa lao 3
  4. động tư nhân và lao động xã hội được giải quyết khi sản phẩ m được trao đổi dướ i hình thức hàng hoá. Kinh tế hàng hoá tồn tại trong nhiều chế độ xã hội khác nhau, dựa trên nhiều hình thức sở hữu khác nhau, chứ không chỉ dựa trên chê độ sở hữu tư nhân, miễn là những ngườ i, doanh nghiệp sản xuất hàng hoá là độc lập và không phụ thuộc vào nhau. + Thứ ba đó là sự tồn tại của quan hệ hàng hoá tiền tệ. Nếu như chúng ta có được hai điều trên nhưng quan hệ tiền tệ không được thừa nhận thì sẽ không xuất hiện nền kinh tế thị trườ ng. Ta có thể thấy rõ trong nền kinh tế hàng hoá tập trung ở nước ta, chúng ta có được sự phân công lao động xã hội, chúng ta có sự tồn tại độc lập của các nhà sản xuất hàng hoá, nhưng lúc này quan hệ hàng hoá tiền tệ không được chấp nhận. Sản phẩm lúc này được đem ra phân phối, kết quả là không xuất hiện thị trườ ng. Một nền kinh tế thị trườ ng mà không xuất hiện thị trườ ng thì sẽ như thế nào? 3. Các nhân tố c ủa thị trường: a) Hàng hoá: - Hàng hoá là sản phẩm c ủa lao động, nó có thể thoả mãn một nhu cầu nhất định nào đó c ủa con ngườ i, đồng thời nó được sản xuất ra nhắm đem bán (hay trao đổ trên thị trườ ng). Hàng hoá là một phạ m trù lịch sử, sản phẩ m c ủa lao động trở thành hàng hoá khi nó trở thành đối tượ ng mua-bán trên thị trườ ng. - Trong xã hội hiện đạ i, hàng hoá có thể là vật thể (hữu hình), hay là phi vật thể( hay hàng hoá dịch vụ). Đối với bất kỳ một hàng hoá nào, chúng đều có hại thuộc tính sau: + Giá trị sử dụng: - Giá trị s ử dụng là công dụng c ủa vật phẩm( tính hữu ích) coá thể thoả mãn nhu cầu nhất định nào đó c ủa con người. Mỗi hàng hoá đề u có một hay một số công dụng nhất định để thoả mãn nhu cầu c ủa con ngườ i. Giá trị s ủ dụng được phát hiện dần dần nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và lực lượ ng sản xuất. VD: Than đá, lúc đầ u loài ngườ i chỉ biết với công dụng làm chất đốt, nhưng sau này nó được dùng vào ngành công nghiệp hoá chất...Xã hội ngày càng tiến bộ, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì số lượ ng giá trị s ử dụng ngày càng phong phú, đa dạng chất lượ ng cao. - Giá trị s ử dụng c ủa vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của vật quy định và là nội dung vật chất c ủa c ủa cải. Do đó, giá trị s ử dụng là phạm trù vĩnh viễn. 4
  5. - Giá trị sử dụng là thuộc tính c ủa hàng hoá, nhưng nó khong phải là giá trị sử dụng cho bản thân ngườ i sản xuât, mà là cho ngườ i khác, tức là cho xã hội. Trong nền sản xuất hàng hoá, giá trị sủ dụng đồng thời là vật mang giá trị trao đổi. + Giá trị: - Giá trị trước hết biểu hiện ra bên ngoài là quan hệ tỷ lệ về số lượ ng giữa các giá trị s ủ dụng khác nhau hay còn gọi là giá trị trao đổi. VD: 1 m vải=5kg thóc. Sở dĩ, vải và thóc là hai hàng hoá khác nhau, mà vẫn có thể trao đổi cho nhau là vì giữa chúng có một cơ sở chung. Đó là hao phí lao động xã hội để tạo ra 2 sản phẩm đó. - Vậy hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá kết tinh trong hàng hoá là cơ sở để trao đổi hàng hoá, tạo ra giá trị c ủa hàng hoá. Hao phí lao động xã hội để tạo ra sản phẩ m được lượ ng hoá bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Tức là, thời gian cần thiết để sản xuất một hàng hoá trong điều kiện sản xuất bình thườ ng, trình độ kỹ thuật bình thườ ng. - Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện c ủa giá trị: giá trị là cơ sở, nội dung c ủa giá trị trao đổi. Giá trị là phạm trù lịch s ử, là phạ m trù riêng có c ủa sản xuất hàng hoá. + Mối quan hệ giữa hại thuộc tính: - Giá trị và giá trị sử dụng là 2 thuộc tính cùng tồn tại và thống nhất với nhảutong cùng một hàng hoá. Ngườ i s ản xuất làm ra để bán, mục đích của họ là giá trị. Nhưng cái mà họ có là giá trị sử dụng, họ chú ý tới giá trị s ủ dụng c ũng là vì mục đích là giá trị mà thôi. Ngườ i mua, họ quan tâm tới giá trị sử dụng, nhưng nếu muốn có giá trị sử dụng đó, họ phải trả giá trị cho ngườ i sản xuất. Tức là họ phải thực hiện giá trị thị trườ ng thì mới chi phối giá trị s ử dụng. b) Tiền tệ: - Tiền tệ về bản chất là một hàng hoá đượ c tách ra làm vật ngang gía chung cho các hàng hoá khác. Tiền tệ thể hiện lao động xã hội và biểu hiện mối quan hệ giữa những ngườ i sản xuất hàng hoá. Cho tới ngày nay vàng vẫn được coi là hàng hoá ngang giá chung, nhưng nó ít được lưu thông mà được thay bằng các loại tiền giấy, kim loại khác rẻ hơn đạ i diện cho những lượ ng vàng nhất định. - Vậy tại sao lại xuất hiện tiền tệ? Chúng ta nhìn lại thời kỳ mà nền kinh tế ở giai đoạn tự cung tự cấp. Đây là một thời kỳ nền kinh tế cực kỳ 5
  6. kém phát triển, các nhu cầu c ủa con ngườ i luôn không được đáp ứng đầ y đủ do sự hạn chế về năng lực sản xuất c ủa con ngườ i. Ngườ i nông dân muốn có vải may quần áo nhưng lại không có khả năng sản xuất vải, nhưng lại thừa gạo. Trong khi đó ngườ i có vải lại thiếu gạo và thừa vải. Và họ trao đổi cho nhau. Dần dần, các mặt hàng trao đổi trở nên phong phú hơn, nhưng c ũng xuất hiện khó khăn. Những khó khăn đó là: ngườ i nông dân muốn đổi gạo lấy vải nhưng ngườ i có vải lại không muốn có gạo. Từ đó họ hình thành nê n một vật ngang giá chung. Tức là, trong một phạm vi nhất định, một vật được mọi ngườ i công nhận và có thể dùng để trao đổi mọi thứ hàng hoá. Tuy nhiên, khi kinh tế phát triển thì sự hạn hẹp về phạm vi địa lý c ủa vật ngang giá chung bắt đầ u gây khó khăn và tiền tệ ra đời. Nhìn vào lịch sử phát triển của tiền tệ, ta thấy sự ra đờ i c ủa nó là tất yếu khách quan để đáp ứng được sự phát triển c ủa nền kinh tế hàng hoá. Với nhiều đặc tính phù hợp được cả thế giới công nhận, vàng là kim loại được lựa chọn. - Từ khi xuất hiện, tiền tệ đã góp phần rất lớn vào s ự phát triển cả kinh tế, nó thể hiện thông qua 5 chức năng c ủa tiền tệ: + Tiền tệ là thước đo giá trị: ngày nay muốn tiêu dùng bất cứ hàng hoá nào chỉ cần chúng ta có tiền đề u có thể mua được dễ dàng. Đây chính là chức năng cơ bản c ủa tiền. Như vậy tiền cũng phải có giá trị c ủa nó. Giá trị c ủa tiền là do lượ ng lao động xã hội cần thiết để sản xuất vàng quyết định. Trên thị trườ ng, giá trị c ủa hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả. Giá cả lên xuống xung quanh giá trị và do quan hệ cung cầu chi phối và tiêu chuẩn giá cả không phụ thuộc vào giá trị c ủa vàng. + Chức năng là phương tiện lưu thông - Trong chức năng này thì tiền là m môi giới trong quá trình lưu thông hàng hoá. Chức năng này giúp tách rời hành vi mua và bán. Tức là ngườ i ta có thể mua ở một nơi vào một thời điể m nào đó và bán ở một nơi khác vào một thời điểm khác. Để thực hiện chức năng này phải có tiền thực tế. Trong thời kỳ đầ u ngườ i ta dùng nén vàng bạc, nhưng dần dần được thay thế bằng tiền đúc rồi đế n tiền giấy. Trong quá trình lưu thông tiền đúc, giấy bị hao mòn nhưng giá trị mà nó đạ i diện là không thay đổi. Trước đây, lợi dụng tính đại diện c ủa tiền đúc và giấy, nhà nước không ngưng sản xuất nhiều tiền loại này là m giảm giá trị đồng tiền, gây ra khủng hoảng kinh tế. Vì vậy, ngày nay, nhà nước luôn kiểm soát giá trị c ủa tiền để bình ổn nền kinh tế. + Chức năng là phương tiện cất trữ: 6
  7. - Tiền là vật ngang giá chung, nó có thể dùng để trao đổi mọi thứ. Vì vậy có thể nói rằng tiền là đạ i biểu cho c ủa cải xã hội, nên nó có thể được cất trữ. Tuy nhiên không phải là tiền nào cũng có thể cất trữ mà chỉ có tiền đầy đủ giá trị như vàng mới thực hiện được chức năng này. Nếu hàng hoá nhiều thì tiền đã cất trữ sẽ được tung ra thị trường, nếu hàng hoá khan hiế m thì tiền lại được cất trữ. + Chức năng là phương tiện thanh toán: - Với chức năng thanh toán tiền dùng để trả lương, nộp thuế, mua bán hàng hoá. Do để thuận lợi trong kinh doanh, việc mua và bán được tách rời và chức năng thanh toán c ủa tiền ở đây càng thể hiện rõ tầm quan trọng. Từ chức năng thanh toán c ủa tiền và nhu cầu thanh toán làm xuất hiện một loại tiền mới là tín dụng dướ i các hinh thức như giấy bạc ngân hàng, séc, trái phiếu... + Chức năng tiền tệ thế giới: - Do được toàn bộ thế giới công nhận về giá trị c ủa tiền, nên thế giới trở thành một thị trườ ng chung. Những nước khác nhau có thể mua bán những sản phẩm mà đất nước mình cần. Trong chức năng này vàng là phuơng tiện thanh toán quốc tế. Các chức năng c ủa tiền tệ liên quan mật thiết với nhau. Sự phát triển của các chức năng này phản ánh sự phát triển c ủa sản xuất hàng hoá và những mâu thuẫn c ủa nó. c) Giá cả: - Giá cả thị trườ ng là sự biểu hiện bằng triền c ủa giá trị thị trườ ng và giá cả sản xuất. Giá cả thị trườ ng được hình thành thông qua sự cạnh tranh giữa các nhà kinh doanh, sản xuất trong cùng một nghành, cùng một loại hàng hoá, nhằ m giành được điều kiện sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợ i nhất để thu được lợi nhuận tối đa. Song trên thị trườ ng, mỗi loại hàng hoá đều phải bán theo một giá thống nhất. Bởi vì, giá cả thị trườ ng dựa trên cơ sở giá trị thị trườ ng c ủa hàng hoá. Giá trị thị trườ ng c ủa hàng hoá là giá trị trung bình c ủa những hàng hoá được sản xuất ra trong một khu vực nào đó hay là giá trị cá biệt c ủa những hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện trung bình c ủa khu vực đó và chiếm một khối lượ ng lớn trong tổng số sản phẩm của khu vực này. Nghĩa là, nếu đạ i bộ phận lượ ng hàng hoá được sản xuất ra trong những điều kiện xã hội trung bình, còn một bộ phận nhỏ được sản xuất trong điều kiện kém và một lượ ng nhỏ khác trong điều kiện tốt, thì giá trị thị trườ ng c ủa hàng hoá do giá trị c ủa lượ ng hàng hoá ở khu vực điều kiện trung 7
  8. bình quyết định. Hay nều đạ i bộ phận hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện ké m (hoặc điều kiện tốt) thì giá trị thị trườ ng c ủa hàng hóa lại do hàng hoá ở khu vực điều kiện kém (hoặc điều kiện tốt) quyết định. - Dù là hình thức biểu hiện bằng tiền c ủa giá trị thị trườ ng, nhưng không có nghĩa là hai đạ i lượ ng đó phải bằng nhau. Giá cả thị trườ ng c ủa hàng hoá luôn xoay quanh giá trị thị trườ ng c ủa nó. Bởi vì giá cả thị trườ ng còn phụ thuộc vào quan hệ cung-cầu c ủa hàng hoá trên thị trườ ng: Cung là số lượ ng hàng hoá mà ngườ i cung sẵn sàngvà có khả năng đưa ra thị trườ ng ở mỗi một mức giá khác nhau, tại mỗi một thời gian khác nhau. Cung được quyết định bởi khối lượ ng sản phẩm xã hội đã và sẽ sản xuất ra, tỷ suất hàng hoá và khối lượ ng hàng hoá xuất nhập khẩu. Cầu là khối lượ ng hàng hoá mà ngườ i tiêu dùng sẵn sàng và có khả năng mua trên thị trườ ng ở mỗi mức giá khác nhau, trong mỗi một thời gian khác nhau. Khi số lượ ng cung c ủa một hàng hoá phù hợp với nhu cầu xã hội thì tổng số giá trị thực c ủa hàng hoá bằng tổng số giá trị thị trườ ng c ủa nó. Còn nếu số lượ ng hàng hoá cung mà lớn hơn nhu cầu c ủa xã hội thì tổng số giá trị thực c ủa hàng hoá lớn hơn tổng giá trị thị trườ ng c ủa nó. Ngược lại khi mà số lượ ng cung nhỏ hơn cầu thì tổng số giá trị thực c ủa hàng hoá sẽ nhỏ hơn tổng giá trị thị trườ ng d) Lợi nhuận: Giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, được so sánh với toàn bộ tư bản ứng trước mang hònh thái chuyển hoá là lợi nhuận. Vậy lợi nhuận có nguồn gốc từ giá trị thặng dư. Vậy giá trị thặng dư từ đâu sinh ra? - Lợi nhuận là giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước được quan niệm là con đẻ c ủa toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức chuyển hoá là lợi nhuận. - Lợi nhuận được đo bằng (g1) s ự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa nên sau khi bán hàng hoá tư bản không bù đắp được số tư bản ứng trước mà còn thu được lợi nhuận. - Lợi nhuận là mục tiêu quan trọng để phấn đấu c ủa mỗi doanh nghiệp, là động lực để các nhà sản xuất nâng cao năng suất lao động, đổi mới khoa học công nghệ, thúc đẩy nền sản xuất phát triển. 4. Các quy luật kinh tế c ủa nền kinh tế thị trường a) Quy luật giá trị: 8
  9. Quy luật giá trị là một quy luật kinh tế rất quan trọng c ủa sản xuất và trao đổi hàng hoá. Quy luật giá trị quy định mặt chất và sự vận động về mặt lương c ủa giá trị hàng hoá. Theo quy luật này, sản xuất và trao đỏi phải dựa trên cơ sở lượ ng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã họi cần thiết. Nghĩa là: đối với sản xuất, nó yêu cầu hao phí lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoa phải phù hợp với hao phi lao động xã hội cần thiết, tức là phải phù hợp với mức hao phi mà xã hội có thể chấp nhận được. Còn trong trao đổi hàng hoá, nó yêu cầu là trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá. Quy luật giá rị biểu hiện sự vân động c ủa nó thông qua sự biến đổi c ủa giá cả hàng hoá. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền c ủa giá trị. Giá cả phụ thuộc vào giá tri, vì giá trị là cơ sở của giá cả. Nhưng do tác động c ủa quan hệ cung-cầu, tình trạng độc quyền, và một số tác động khác, giá cả thị trườ ng có thể tách rời giá trị, lên xuống xoay quanh giá trị. Nhưng cuối cùng, tổng giá cả phù với tổng giá trị c ủa chúng. Quy luật giá trị có những tác dụng sau: + Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá: Ngườ i sản xuất hàng hoá sản xuât cái gì, như thế nào, cho ai, là do họ quyết định. M ục đích duy nhất của họ là thu được nhiều lãi nhất. Dựa vào sự biến động c ủa giá cả thị trườ ng, ngườ i sản xuất biết được mặt hàng nào đang bán chạy và mặt hàng nào đang thừa. Ngườ i sản xuất sẽ mở rộng sản xuất những mặt hàng đang thiếu, bán chạy, giá cao và thu hẹp lại những mặt hàng nào ế thừa, giá thấp. Một số ngườ i sẽ chuyển sang sản xuất những mặt hàng đang thiếu vầ giá cao, bỏ những mặt hàng mang lại lợi nhuận thấp. Kêt quả là các yếu tố sản xuất như sức lao động, tư liệu sản xuất, tiền vốn chuyển dịch từ ngành này sang ngành khác. Đây chính là s ự điều tiết sản xuất c ủa quy luật giá trị. Trong lưu thông hàng hoá, quy luật giá trị cũng tham gia vào quá trình vận động c ủa hàng hóa từ nơi giá thấp đế n nơi giá cao. Từ đó phân phối các nguồn hàng hoá một cách hợp lý hơn giữa các vùng, giữa cung và cầu đối với các loại hàng hoá trên thị trườ ng. + Thúc đẩ y lực lượ ng sản xuất phát triển.: Vì hàng hoá bán theo giá trị xã hội do hao phí lao động xã hội các thiết quyết định, nên ngưòi sản xuất có ít hao phí lao động cá biệt hơn lao động xã hội cần thiết thì sẽ thu được nhiều lợi hơn. Chính vì vậy muốn thu nhiều lợi hơn, chiến thắng và đứng vững trong thị trườ ng cạnh tranh, mỗi nhà sản xuất đề u phải không ngừng tìm cách rút xuống đế n mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt. Muốn vậy, họ phải không ngừng tim cách cải tiến lực lượ ng sản xuất. 9
  10. + Phân hoá ngườ i sản xuất thành kẻ giàu ngườ i nghèo, và làm nảy sinh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: trong cuộc chạy đua theo lợi nhuận, những nhà sản xuất nào là m tốt sẽ thu được nhiều lợi nhuận trở nên giàu có. Ngược lại, những nhà sản xuất khác là m kém hơn sẽ phải chịu sự thua lỗ và trở thành nghèo hơn. Từ đây, phát sinh ra quan hệ sản xuất TBCN, những ngưòi giàu trở thành ông chủ, những ngườ i nghèo trở thành những ngườ i làm thuê. Đây là quan hệ tư sản và vô sản, quan hệ giữa chủ và tớ, quan hệ đối kháng về lợi ích kinh tế. 10
  11. b) Quy luật cung cầu: + Quy luật này thể hiên mối quan hệ khách quan giữa cung cầu trên thị trườ ng. Cung và cầu là sự khái quát hai lực lượ ng cơ bản c ủa thị trườ ng là: ngườ i mua và ngườ i bán. Vậy cung và cầu là gì? - Cung là khối lượ ng hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp tung ra thị trườ ng với giá cả nhất định,trong một thời kỳ nhất định. Cung chịu ảnh hưở ng c ủa hai nhân tố là giá cả và thu nhập. Với giá cả, cung chịu ảnh hưở ng: khi các yếu tố sản xuất đã được tận dụng thì giá cả không ảnh hưở ng tới cung là mấy. Nhưng trong trườ ng hợp chưa tận dụng hết thì tăng giá có thể dẫn tới tăng cung.Với thu nhập, ảnh hưởng tới trườ ng vốn hay đoản vốn của doanh nghiệp, điều này chi phôi cách ứng xủa c ủa doanh nghiệp khi tung hàng ra tiêu thụ. - Cầu là khối lượ ng hàng hoá và dịch vụ mà ngưòi tiêu dùng, muốn mua trong một thời kỳ với mỗi một mức giá nhất định. Cầu phụ thuộc vào các nhân tố: nhu cầu mua sắm c ủa xã hội, khả năng mua săm c ủa dân cư(khả năng này lại phụ thuộc vào thu nhập c ủa mỗi ngưòi và giá cả hàng hoá). + Cân bằng cung cầu trên thị trườ ng: cung và cầu luôn tác động qua lại lẫn nhau. Cung xác định cầu và ngược lại cầu c ũng xác định cung. Mối liên hệ mạt thiết này tạo ra quy luật cung cầu. Trên thị trườ ng, ngườ i mua muốn giá c ủa hàng hoá là thấp , trong khi đó ngườ i bán lại muốn giá cả cao. Tới một lúc nào đó thì giá giữa họ là bằng nhau, đó là giá cả thị trườ ng hay giá cả trung bình. Giá cả thực tế trên thị trương xoay quanh điểm cân bằng này, tuỳ thuộc vào tương quan giữa cung và cầu. ậ điểm cân bằng này, lượ ng hàng hoá mà ngườ i bán sẵn sàng bán bằng với lượ ng hàng hoá ma ngườ i mua sẵn sàng mua.Quy luật cung cầu biểu hiện thông qua sự thay đổi c ủa giá cả. Với số lượ ng cung cố định, cầu tăng sẽ làm tăng giá, nếu với một sức cầu cố định thì cung tăng sẽ là m giả m giá. c) Quy luật cạnh tranh: Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấ u tẩnh về kinh tế giữa những ngườ i sản xuất với nhau, giữa những ngườ i sản xuất với ngườ i tiêu dùng, nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩ m để thu được nhiều lợi nhuận nhật cho mình. Nội dung cạnh tranh bao gồm việc canh tranh chiếm lĩnh những nguồn nguyê liệu, gianh giật những nguồn lực sản xuất; cạnh tranh về khao học công nghệ. Cạnh tranh chiếm lĩnh thị trườ ng, giành giật nơi đầ u tư, các hợp đồng, các đơn đặt hàng. Cạnh tranh có thể bằng giá cẩ, bằng chất lượ ng, các 11
  12. dịch vụ kèm theo, phương thức thanh toán....Cạnh tranh có nhiều loại: cạnh tranh giữa nhưng ngườ i mua, giữa những ngườ i sản xuất, cạnh tranh trong nội bộ ngành, và cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh có vai trò tích c ực trong nền sản xuất hàng hoá. Nó buộc ngườ i sản xuất hàng hoá phải không ngừng cải tiến kỹ thuật sản xuất, lực lượ ng lao động, nâng cao năng suất, tiết kiệm nhiên liệu....Hơn nữa,để bán được nhiều hàng hoá hơn thì nhà sản xuất phải không ngừng nghiên cứu thị truờng, thị hiếu, sở thích c ủa ngườ i tiêu dùng, từ đó kích thích s ự đa dạng của mẫu mã sản phẩm Như vậy có thể nói, quy luật cạnh tranh có tác dụng đào thải những cái c ũ, lạc hậu, không phù hợp, binh ftuyển những cái mới, tiến bộ thuc đẩ u sản xuất hàng hó phát triển. Tuy nhiên cùng với những tác dụng c ủa nó, cạnh tranh cò gây ra những hậu quả: đầ u cơ, lừa đảo, ô nhiễm môi trườ ng, khai thác cạn kiệt tài nguyên ... d) Quy luật lưu thông tiền tệ: Khi tiền tệ xuất hiện, sự troa đỏi hàng hoá trực tiếp chuyển sang trao đổi một cách gián tiếp- trao đổi hàng hoá lấy tiền tệ làm môi giới. Sự vậ n động c ủa tiên tệ lấy s ự trao đổi hang hoá làm tiền đề gọi là lưu thông tiền tệ. Sự vân động c ủa hàng hoá và tiền tệ là sự thông nhất giữa lưu thông tiền tệ và lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên số tiền đưa vào lưu thông không phải là vô tận. Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông ở mỗi thời kỳ cần có một số lượ ng tiền nhất định. Số lượ ng tiền này được xác định bằng quy luật lưu thông tiền tệ. Quy luật này được xác định như sau: Tổng số giá Tổng số Tổng số Tổng số giá Số lượng cả hàng hoá giá cả giá cả hàng - cả hàng hoá + + tiền cần khấu trừ cho hàng hoá hoá bán chịu thiết trong nhau bán chịu = lưu thông đến kỳ Số lần luân chuyển trung bình của tiền tệ thanh toán Quy luật lưu thông tiền tệ nói trên là qui luật tiền vàng. II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM 1.Tính tất yếu khách quan chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý c ủa Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa: 1.1. Sự tồn tại của sản xuất hàng hoá ở nước ta: 12
  13. Trước đây, khi còn quan niệm không đúng: đối lập chủ nghĩa xã hội với sản xuất hàng hoá, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trườ ng (vì cho rằng kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trườ ng gắn với chủ nghĩa tư bản), thì nhiều ngườ i nhận thức, và hiểu rằng dướ i chủ nghĩa xã hội không còn sản xuất hàng hoá, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trườ ng, mà nếu có tồn tại thì chỉ là một nền kinh tế hàng hoá đặc biệt (chỉ có tư liệu tiêu dùng là hàng hoá, còn tư liệu sản xuất, sức lao động, vốn … không phải là hàng hóa). Nhưng sự tồn tại c ủa nền sản xuất hàng hoá ở nước ta là không thể phủ nhận. Về điều kiện thứ nhất c ủa sản xuất hàng hoá, đó là phân công lao động xã hội; chẳng những không mất đi, mà trái lại c òn phát triển cả về bề rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương ngày càng phát triển. Sự phát triển c ủa phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượ ng ngày càng cao c ủa sản phẩ m đưa ra trao đổi trên thị trườ ng. Về điều kiện thứ hai, trong nền kinh tế nướ c ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Hơn nữa, nếu cho rằng, sự ra đờ i và tồn tại c ủa sản xuất hàng hóa là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì sẽ không giải thích được sự tồn tại c ủa sản xuất, lưu thông hàng hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì nền sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Vậy thì muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, có nghĩa là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong chủ nghĩa xã hội không c òn điều kiện thứ hai c ủa sản xuất hàng hoá. Như vậy thì mâu thuẫn với thực tế khách quan: trong chủ nghĩa xã hội sẽ vẫn còn kinh tế hàng hoá, ngay cả khi nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Còn trong chủ nghĩa xã hội thì kinh tế hàng hoá lại có thể tồn tại cả trong điều kiện hoàn toàn không có chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.Khi nghiên c ứu nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa, Lênin viết: “Về mặt lý luận, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể hoàn toàn đi đôi với việc không có chế độ tư hữu về ruộng đất, với việc quốc hữu hoá ruộng đất…”. Hiện nay, tuy thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế có sự 13
  14. khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật - công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất c ũng khác nhau. Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ hàng hoá - tiền tệ là chủ yếu, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là ngườ i chủ sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trườ ng thế giới. Sự trao đổi ở đây là theo nguyên tắc ngang giá. Như vậy, chúng ta không thể dùng ý chí chủ quan c ủa mình để xoá bỏ sự hiện hữu c ủa kinh tế hàng hoá, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trườ ng là một tồn tại tất yếu, khách quan ở nước ta. 1.2. Phát triển kinh tế thị trường theo đ ịnh hướng XHCN có tác dụng to lớn đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, nâng cao đ ời sống nhân dân và xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH: Nền kinh tế nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một điểm xuất phát rất thấp. Đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, cơ sở vật chất kỹ thuật bị tàn phá nặng nề, dự trữ quốc gia gần như không có. Hơn nữa, nền kinh tế nước ta còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc, lực lượ ng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất tàn dư còn nặng nề, trong khi quan hệ sản xuất mới chưa thực sự hình thành và hoàn thiện. Do vậy, khi chúng ta theo đuổi một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bằng mệnh lệnh hành chính, quan liêu từ trung ương và cơ cấu hướ ng nội là chủ yếu, đã kìm hã m sự phát triển c ủa đấ t nước, khiến cho nền kinh tế đã có lúc lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Ngọn gió “ đổi mới” với sự phát triển c ủa nền kinh tế hàng hoá ở nước ta đã tạo động lực thúc đẩ y lực lượ ng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những ngườ i sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giả m chi phí đế n mức tối thiể u nhờ đó có thể cạnh tranh về giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Nhờ vậy mà khoa học kỹ thuật phát triển, năng suất lao động xã hội tăng lên, thúc đẩ y lực lượ ng sản xuất phát triển mạnh. Kinh tế hàng hóa c ũng thúc đẩ y phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Nó sẽ phát huy được tiề m năng, lợi thế c ủa từng vùng, c ũng như lợi thế c ủa đất nước, có tác dụng mở rộng kinh tế đối ngoại. 14
  15. Ngoài ra, để cạnh tranh được trong nền kinh tế hàng hoá, ngườ i sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu c ủa ngườ i tiêu dùng, c ủa thị trườ ng để quyết định sản xuất sản phẩ m gì, với khối lượ ng bao nhiêu, chất lượ ng, mẫu mã như thế nào. Vì vậy, nó kích thích tính năng động, sáng tạo c ủa chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượ ng, cải tiến mẫu mã c ũng như tăng khối lượ ng hàng hóa, dịch vụ. Nhờ đó mà người tiêu dùng sẽ có điều kiện được tiếp cận với nhiều loại hàng hoá hơn, giá rẻ hơn và chất lượ ng cao hơn. Đờ i sống nhân dân sẽ được nâng cao lên một bước, nền kinh tế sẽ có sức cạnh tranh cao hơn. Sự phát triển c ủa kinh tế thị trườ ng sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đờ i của sản xuất lớn có xã hội hoá cao; đồng thời chọn lọc những ngườ i sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển c ủa đất nước. Tóm lại, phát triển kinh tế thị trườ ng là một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu c ủa nước ta thành nền kinh tế hiện đạ i, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đườ ng đúng đắ n để phát triển lực lượ ng sản xuất, khai thác hiệu quả tiềm năng c ủa đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đạ i hoá. 2. Quá trình hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta: Sau khi giành độc lập, học tập theo nhưng nước Đông Âu và Liên Xô cũ, Việt Nam đã xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Trong thời gian này, mô hình nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã cung cấp phương tiện vật chất phục vụ cuộc kháng chiến c ứu nước đồng thời khôi phục lại sản xuất sau chiến tranh. Tuy nhiên, sau một thời gian phát huy tác dụng thì mô hình kinh tế nay đã nảy sinh những hạn chế to lớn. Điều này thể hiện qua tình hình kinh tế Việt Nam trong thời kỳ trươc nhưng nă m đổi mới: năng suất lao động giảm, phúc lợi xã hội giả m, lạ m phát tăng, cơ chế điều hành quan liêu bao cấp gây cản trở cho việc phát triển kinh tế. Tại Đạ i hội Đả ng lần thứ VI (1986), Đả ng ta đã rút ra những bài học và quyết định xây dựng một nên kinh té thị trườ ng có s ự quản lý c ủa nhà nước định hướ ng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay, chúng ta đã trải qua ba giai đoạn với những đặc trưng khác nhau c ủa từng giai đoạn. Giai đoạn 1986-1990: Cơ chế thị trườ ng bắt đầu được thực hiện, một số loại thị trườ ng được hình thành, đã tạo ra động lực mới, nhất là trong sản xuất nông nghiệp và một số xí nghiệp quốc doanh. Do đó thị trườ ng hàng 15
  16. tiêu dùng đã dồi dào hơn, đa dạng hơn, thị trườ ng tư liệu sản xuất c ũng nhuc nhích lên chút ít, lưu thông bắt đầ u tương đối thuận lợi, thị trườ ng xuất nhập khẩu bắt đầ u được mổ rộng và phát triển khá mạnh mẽ. Tuy nhiên, tinh hình kinh tế nước ta còn trong khủng hoảng, phát triển chậm, phân phối và lưu thông còn rối ren, ngân sách nhà nước còn htiếu hụt lớn, nguồn vốn thiếu nghiêm trọng, tiền mặt thiếu thườ ng xuyên, lạm phát tăng cao. Tốc độ tăng giá năm1986 là 87,2%, giá cả biến động, giá lương thực, thực phẩm có lúc tăng đột biến, nợ nước ngoài tăng thê m. Nhìn một cách tổng thể, thì ở giai đoạn này, nền kinh tế có sự mất cân đối lớn, tổng cầu quá lớn so với tổng cung. Nguyên nhân là do cơ chế thị trườ ng và các nhân tó c ủa nó là giá cả thị trườ ng, canh tranh thị trườ ng và cung-cầu hình thành từ s ự vận hành c ủa thị trườ ng chưa được phát huy thuận lợi. Giai đoạn 1991-1995: Các chính sachs về cơ chế thị trườ ng được thực hiện một cách mạnh mẽ, đã lay động các lĩnh vực c ủa nền kinh tế-xã hội. Hệ thống chủ thể thị trườ ng c ủa các thành phần kinh tế đã thay thế các cơ sở kinh tế hoạt động dướ i thời bao cấp. Các nhân tố thị trườ ng hình thành và phát huy tác dụng thực sự thay thế cho các quyết đinh hành chính. Do đó, các loại hình thị trườ ng phát triển một cách nhanh chóng, từ thị trườ ng hàng hoá tiêu dùng thông thườ ng, cho đế n thị trườ ng vất tư, nguyên liệu, thị trườ ng các dịch vụ và thị trườ ng xuất nhập khẩu. Thị truờng lao động, thị trườ ng tiền tệ, thị trườ ng bất động sản cũng bắt đầ u hoạt động. Hệ thống cơ cấu thị trườ ng đã được xác lập. Trên thực tế thj trườ ng đã có sự biến đổi về chất. Tình trạng khan hiếm hàng hoá trong giai đoạn chiến tranh và bao cấp đã chấm dứt. Kết quả là thị trườ ng nước ta lần đầ u tiên có được sự câ đối giữa tổng cung và tổng cầu xã hội. Trong suốt 5 năm, lượ ng hàng hoá lưu thông tăng liên tục với tốc độ cao, mặt hàng ngày càng phong phú, chất lượ ng tăng cao, thị trườ ng xuất nhập khẩu phát triển mạnh. Tuy nhiên, nhìn chung thị trườ ng còn thô sơ, nhỏ hẹp, phân tán, manh mún, chất lượ ng chưa cao, chủng loại hàng hoá còn nghèo nàn, dịch vụ thương mại yếu kém, tính tự phát còn nghiêm trọng. Thị trườ ng nông thôn, thị trườ ng yếu tố sản xuát còn chưa phát triển, thị trườ ng chứng khoán chưa có, tệ nạn buôn lậu, gian lận thương mại còn nhiều. Kết quả c ủa giai đoạn này là nền kinh té nước ta đã ra khỏi khủng hoảng, thị trườ ng phát triển ổn định, đả m bảo được cân bằng cung-cầu Giai đoạn 1996-nay: Tình hình thị trườ ng nước ta có những đặc trưng mới. Đặc trung tổng quát c ủa thị trườ ng lúc này là tổng cung vượt xa tổng 16
  17. cầu trong tình hình tổng cung và tổng cầu đều giả m mạnh. Trên thị trương xuất hiện những cơn “sốt” lạnh trên diện rộng, kéo dài, nhiều mặt hàng công nghiệp có số lượ ng tồn kho lớn như giấy 16000 tấn, thép 400000tấn.... Thực trạng này còn nặng nề hơn nhiều vào năm 1999: lượ ng than tồn kho vào tháng 6/1999 lên tới gàn 5 triệu, tính tới tháng 10/1999 lượ ng giấy tồn kho là 15186 tấn, thép chỉ khai thác được 50-60% công suất thiết kế, Tổng công ty phân đạ m và hoá chất Hà Bắc sản xuấ cả năm chỉ đạt 20-40% công suất, các dịch vụ về du lịch và khách sạn c ũng cung thừa.Mặc dù cho tới những nă m sau chính phủ đã có chủ trương kích cầu nhưgn mọi chuyện vẫn không được giải quyết. Tuy thị trườ ng trong nước gặp nhiều khó khăn nhưng thị trườ ng xuất nhập khẩu lại hoạt động rất sôi động, trong đó xuất khẩu thì tăng mạnh, nhập khẩu thì giảm. Trên thị trườ ng đầ u tư, sự tiến triển rất chậ m chạp, nguyên nhân chủ yếu là do đầu tư nước ngoài liên tục giảm sút. Nếu trong những năm 1994-1997 FDI dạt bình quân 2 tỷ USD/năm, thì nă m 1998 chỉ còn 800 triệu và năm 1999 là vào khoảng 600 triệu. Thị trườ ng các yếu tố sản xuất khác như thị trườ ng cốn còn sơ khai, thị trườ ng lao động mới đang hình thành, thị trườ ng bất động sản chưa đuợc khai thông, thị trườ ng chứng khoán mới được thành lập, thị trườ ng dịch vụ giả m sút. Trên từng địa bàn, thị trườ ng c ũng chưa thực sự thông suốt do vẫn còn các trạm kiểm soát thu phí bất hợp lý, thậm chí ở một số nơi còn bị chính quyền sở tại dùng biện pháp hành chính để bảo hộ các cơ sở sản xuất địa phương. Một đặc trưng thứ hai c ủa thị trườ ng nước ta trong thời gian này là lạm phát giả m mạnh, hơn nữa còn có hiện tượ ng giảm phát. Chỉ số lạ m phát năm 1996 là 4,5%, năm 1997 là 3,6%, tính cung năm 1999 chỉ số lạ m phát là 1%, nhưng trong suốt 8 tháng từ tháng 3 đé tháng 10/1999 chỉ có chỉ số giá âm. Trên thị trườ ng hối đoái thì đồng tiền Việt Nam lên giá trong thời gian nổ ra cuộc khủng hoảng kinh tế. 3. M ục tiêu và đặc trưng bản chất c ủa nền kinh tế thị trường có sự quản lý c ủa Nhà nước theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Kinh tế thị trườ ng định hướ ng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyển tắc và quy luật c ủa kinh tế thị trườ ng, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất c ủa chủ nghĩa xã hội. Do đó, kinh tế thị trườ ng định hướ ng XHCN có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là nhó m nhân tố c ủa kinh tế thị trườ ng và nhóm nhân tố c ủa xã hội đang định hướ ng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò như động lực thúc đẩ y sản xuất xã hội phát 17
  18. triển nhanh, nhó m thứ hai đóng vai trò hướ ng dẫn, chế định sự vận động c ủa nền kinh tế theo những mục tiêu đã được xác định. Như vậy, nền kinh tế thị trườ ng định hướ ng XHCN ở nước ta có những mục tiêu, dặc trưng bản chất khác biệt cơ bản về nguyên tắc so với nền kinh tế thị trườ ng TBCN. Điều đó được thể hiện như sau: 3.1. Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường đ ịnh hướng XHCN ở nước ta: Mục tiêu hàng đầ u phát triển kinh tế thị trườ ng ở nước ta được xác định là: Giải phóng và phát triển lực lượ ng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật c ủa CNXH, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao c ủa nền kinh tế; trên cơ sở đó, cải thiện từng bước đờ i sống c ủa nhân dân, từng bước thực hiện s ự công bằng, bình đẳ ng và lành mạnh các quan hệ xã hội. Phát triển kinh tế thị trườ ng sẽ khắc phục được tình trạng tự túc tự cấp c ủa nền kinh tế, thúc đẩ y phân công lao động xã hội phát triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho ngườ i lao động; áp dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động xã hội, tăng số lượ ng, chất lượ ng và chủng loại hàng hoá dịch vụ; thúc đẩy tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, với các nước trên thế giới, động viên mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài; thúc đẩ y việc phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi ngườ i lao động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưở ng kinh tế cao, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh theo con đườ ng XHCN. Sự thành công c ủa nền kinh tế thị trườ ng định hướ ng XHCN không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưở ng kinh tế cao, mà còn phải không ngừng nâng cao đờ i sống nhân dân, đả m bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳ ng trong xã hội. Đả ng ta đã chủ trương tăng trưở ng kinh tế gắn liền với đả m bảo tiế n bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tóm lại, phát triển kinh tế thị trườ ng ở nước ta là phương tiện khách quan để xã hội hoá XHCN nền sản xuất, để công nghiệp hoá, hiện đạ i hoá nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. 3.2. Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần cùng tồn tại và phát triển nhưng kinh tế Nhà nước phải luôn giữ vai trò chủ đ ạo: 18
  19. Nền kinh tế thị trườ ng định hướ ng XHCN ở nước ta là nền kinh tế cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu, trong đó sở hữu Nhà nước làm chủ đạo. Do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó nền kinh tế Nhà nước giữu vai trò chủ đạo. Trong nền kinh tế thị trườ ng ở nước ta, tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Các thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầ u tư nước ngoài. Do đó không chỉ ra s ức phát triển các thành phần kinh tế thuộc chế độ công hữu, mà còn phải khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân để hình thành nền kinh tế thị trườ ng rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước, các hình thức đan xen và thâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế đề u có thể tham gia thị trườ ng với tư cách chủ thể thị trườ ng bình đẳng. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trườ ng định hướ ng XHCN ở nước ta với kinh tế thị trườ ng c ủa các nước khác.Tính định hướ ng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trườ ng ở nước ta đã quy định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ, mỗi một chế độ xã hội đề u có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước, nói đúng ra kinh tế dựa trên chế độ công hữu bao gồm kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác, tạo cơ sở kinh tế cho chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Việc vin vào tình trạng ké m hiệu quả c ủa kinh tế nhà nước trong thời gian qua để phủ định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sai lầm về lý luận. Vấn đề chủ yếu không phải là phủ định vai trò của kinh tế nhà nước, mà là cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước và đổi mới cơ bản cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước để chúng hoạt động có hiệu quả. 3.3. Trong nền kinh tế thị trường đ ịnh hướng XHCN, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao đ ộng là chủ yếu. Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định. 19
  20. Phân phối có liên quan đế n chế độ xã hội, đến chính trị. Dướ i chủ nghĩa tư bản, phân phối theo nguyên tắc giá trị: đối với ngườ i lao động theo giá tr ị sức lao động, còn đối với nhà tư bản theo giá trị tư bản. Như vậy, thu nhập ngườ i lao động chỉ giới hạn ở sức lao động mà thôi. Chủ nghĩa xã hội có đặc trưng riêng về sở hữu, do đó chế độ phân phối c ũng có đặc trưng riêng; phân phối theo lao động là đặc trưng c ủa chủ nghĩa xã hội. Thu nhập c ủa ngườ i lao động không chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động, mà nó phải vượt qua đạ i lượ ng đó, nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên việc đo lườ ng trực tiếp lao động là một vấn đề phức tạp và khó khăn, nhưng trong nền kinh tế thị trườ ng, có thể thông qua thị trườ ng để đánh giá kết quả lao động, sự cống hiến thực tế và dựa vào đó để phân phối. Nền kinh tế thị trườ ng định hướ ng XHCN ở nước ta gồm nhiều thành phần kinh tế. Vì vậy cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, và phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội, trong đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý. Chúng ta không coi bất bình đẳ ng xã hội như là một trật tự tự nhiên, là điều kiện c ủa sự tăng trưở ng kinh tế, mà thực hiện mỗi bước tăng trưở ng kinh tế gắn liền với cải thiện đờ i sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Chỉ có như vậy mới khai thác được khả năng c ủa cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, huy động được mọi nguồn lực của đất nước vào phát triển kinh tế, đồng thời vẫn đả m bảo giữ vững con đườ ng tiến lên chủ nghĩa xã hội. 3.4. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước XHCN: Nền kinh tế thị trườ ng định hướ ng XHCN cũng vận động theo yêu cầu của những quy luật vốn có c ủa kinh tế thị trườ ng, như quy luật giá trị, quy luật cung-cầu, cạnh tranh,…; giá cả do thị trườ ng quyết định, thị trườ ng có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực c ủa nền kinh tế. Nền kinh tế thị trườ ng tư bản chủ nghĩa đã đưa đến những hậu quả nghiêm trọng về mặt xã hội. Ngay từ năm 1848, trong “Tuyên ngôn c ủa Đảng Cộng sản”, C.Mác và F.Ăng-ghen đã chỉ ra rằng: xã hội tư bản “không để lại giữa ngườ i với ngườ i một mối quan hệ nào khác, ngoài mối lợi lạnh lùng và lối “trả tiền ngay” không tình nghĩa”. Ngày nay, chính một nhà nghiên cứu phương Tây Ê-gát Mo-ring đã đưa ra nhận xét chua chát: “Trong 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2