intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mẫu số chung của các vị thần khổng lồ trong kho tàng thần thoại một số tộc người ở Việt Nam

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

93
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thần thoại là sáng tác của người nguyên thủy, phản ánh trạng thái sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người trong buổi sơ khai của lịch sử. Thần thoại về những vị thần khổng lồ được coi là lớp thần thoại đầu tiên, xuất hiện sớm nhất trong lịch sử văn học các tộc người. Hình ảnh các vị thần khổng lồ - những người có tầm vóc và sức khỏe phi thường là một mô - típ quen thuộc trong hệ thống thần thoại của các tộc người. Thông qua bài viết này, tác giả muốn khái quát một số những đặc điểm chung, hay còn gọi là những “mẫu số chung” của các vị thần khổng lồ trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mẫu số chung của các vị thần khổng lồ trong kho tàng thần thoại một số tộc người ở Việt Nam

Chu Thị Vân Anh<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 94(06): 23 - 27<br /> <br /> MẪU SỐ CHUNG CỦA CÁC VỊ THẦN KHỔNG LỒ<br /> TRONG KHO TÀNG THẦN THOẠI MỘT SỐ TỘC NGƯỜI Ở VIỆT NAM<br /> Chu Thị Vân Anh*<br /> Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Thần thoại là sáng tác của người nguyên thủy, phản ánh trạng thái sinh hoạt vật chất và tinh thần<br /> của con người trong buổi sơ khai của lịch sử. Thần thoại về những vị thần khổng lồ được coi là lớp<br /> thần thoại đầu tiên, xuất hiện sớm nhất trong lịch sử văn học các tộc người. Hình ảnh các vị thần<br /> khổng lồ - những người có tầm vóc và sức khỏe phi thường là một mô - típ quen thuộc trong hệ<br /> thống thần thoại của các tộc người. Thông qua bài viết này, tác giả muốn khái quát một số những<br /> đặc điểm chung, hay còn gọi là những “mẫu số chung” của các vị thần khổng lồ trong kho tàng<br /> văn học dân gian Việt Nam. Với phương pháp tiếp cận liên ngành, trên cơ sở khảo cứu thần thoại<br /> của nhiều tộc người, bằng những kiến giải của mình, tác giả bước đầu giải mã hệ thống biểu tượng<br /> này trong kho tàng thần thoại của các tộc người ở Việt Nam.<br /> Từ khóa: Thần thoại, người Tày, người Thái biểu tượng, các vị thần khổng lồ.<br /> <br /> Thần thoại về những vị thần buổi khai thiên<br /> lập địa được coi là lớp thần thoại đầu tiên,<br /> xuất hiện sớm trong lịch sử văn học các tộc<br /> người. Vì vậy, trong nghiên cứu văn học<br /> dân gian đã có nhiều công trình nghiên cứu<br /> về đề tài này.*<br /> Ở khía cạnh lý thuyết, Nguyễn Đổng Chi là<br /> tác giả có công trình nghiên cứu khá sớm [2].<br /> Qua đó đưa ra những quan điểm chung nhất<br /> về lý thuyết “thần thoại”. Đây được coi là tác<br /> phẩm có tính chất gợi mở cho những nghiên<br /> cứu tiếp theo.<br /> Bên cạnh nghiên cứu của Nguyễn Đổng Chi<br /> còn có những công trình của các tác giả: Cao<br /> Huy Đỉnh [3], Cầm Trọng [9], Hoàng<br /> Lương[7]… Trong đó các tác giả đã bước đầu<br /> tiếp cận và giải mã biểu tượng Thánh Gióng<br /> của người Việt và biểu tượng các vị thần<br /> khổng lồ của cư dân Thái ở Tây Bắc Việt<br /> Nam. Đặc biệt, tác giả Hoàng Lương [7] đã<br /> đề cập đến mối giao lưu văn hóa Tày - Thái<br /> cổ với văn hóa Việt thông qua những địa danh<br /> liên quan đến người anh hùng làng Gióng ở<br /> vùng trung châu Bắc Bộ.<br /> Trong công tác sưu tầm và nghiên cứu văn<br /> học dân gian, đã có những công trình chuyên<br /> khảo tập hợp các câu chuyện thần thoại của<br /> các tộc người ở Việt Nam [4],[5][6],[10]. Đây<br /> là nguồn tư liệu quý giá giúp chúng tôi hoàn<br /> thành bài viết này.<br /> *<br /> <br /> Tel: 0983834376; Email: vananhdth@gmail.com<br /> <br /> Tuy thần thoại về các vị thần khổng lồ đã<br /> được quan tâm nghiên cứu từ sớm, nhưng<br /> dường như nó chỉ được quan tâm ở khía cạnh<br /> văn học dân gian. Về cơ bản, những nội dung<br /> của thần thoại đã được tiếp cận ở nhiều khía<br /> cạnh. Tuy nhiên, với tư cách là đối tượng<br /> nghiên cứu của Dân tộc học - Nhân học nhằm<br /> giải mã về những biểu tượng chưa được các<br /> nhà nghiên cứu quan tâm thích đáng. Vì vậy,<br /> với mục đích tìm hiểu về những nét chung<br /> nhất - những “mẫu số chung” của các vị thần<br /> khổng lồ sẽ góp thêm một cái nhìn khái quát<br /> hơn về vấn đề này.<br /> Biểu tượng “Người khổng lồ” trong thần<br /> thoại một số tộc người ở Việt Nam<br /> Thần thoại ra đời khi mà trình độ nhận thức<br /> của con người đã có bước phát triển nhất<br /> định. Nội dung thần thoại chủ yếu phản ánh<br /> khát vọng hiểu biết và chinh phục tự nhiên<br /> phục vụ cho cuộc sống cộng đồng của người<br /> nguyên thuỷ. Do vậy, yếu tố hoang đường, ấu<br /> trĩ trong buổi sơ khai của lịch sử thể hiện rõ<br /> nét. Trong đó điển hình là hình ảnh về những<br /> vị thần khổng lồ - những người có sức vóc<br /> cao lớn dị thường và có sức khỏe phi thường,<br /> những người có công tạo ra cảnh quan tự<br /> nhiên mà người nguyên thuỷ đang sống.<br /> Thần thoại của người Thái phổ biến có hình<br /> tượng về lớp người khổng lồ Sô Công và Ải<br /> Lậc Cậc. Tương truyền rằng bảy cặp ông bà<br /> khổng lồ Sô Công được Then cử xuống để tạo<br /> 23<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Chu Thị Vân Anh<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> dựng lại Mường Then. Tuỳ từng công việc,<br /> các ông bà Sô Công được kèm theo những tên<br /> gọi khác nhau.<br /> Đóng vai trò quan trọng nhất là ông Sô Công<br /> Phạ (tức ông Sô Công Trời) tạo ra bầu trời và<br /> bà Sô Công Đin (bà Sô Công Đất) đẻ ra đất<br /> đai màu mỡ phủ lên vùng đồng bằng lòng<br /> chảo Mường Then, chuẩn bị cho Ải Lậc Cậc<br /> xuất hiện và sau đó là loài người.<br /> Chuyện kể về người khổng lồ Sô Công đã đi<br /> vào tâm linh Thái. Bài đọc trong lễ cúng thần<br /> mường (xên mương) đã khấn đến bốn vị này<br /> bằng câu:<br /> “Xong pú Sô Công Cặm Phạ<br /> Xong pú Sô Công Cặm Mók<br /> Pú Cặm Mók nó nen mương chắn mả<br /> Pú Cặm Phạ minh mương chắng đảy na”<br /> Nghĩa là:<br /> “Hai ông Sô Công chống trời<br /> Hai ông Sô Công chống mây<br /> Ông Chống Mây để hồn thiêng đất mường phát<br /> Ông Chống Trời để nền móng hồn thiêng của<br /> mường vững vàng”.<br /> Sau thế hệ của các Sô Công và Ải Lậc Cậc,<br /> Then mới cử xuống dưới trần lớp người mới.<br /> Đó là tổ tiên của các tộc người sau này. Riêng<br /> đối với người Thái, họ vẫn luôn ghi nhớ công<br /> ơn khai phá ruộng đồng, tạo nên diện mạo<br /> tươi đẹp cho cảnh quan thiên nhiên nơi mà<br /> tộc người sinh sống. Trong bài cúng mo<br /> mường đặt tên cho vợ chồng Ải là “chủ ông<br /> Súc, bà San” có câu miêu tả: “ông cao bằng<br /> vách núi, bà lớn bằng núi non” (Chảu xung<br /> piêng phằng, gia năng piêng pu).<br /> Qua câu chuyện về lớp người khổng lồ có<br /> công khai thiên lập địa trong thần thoại Thái,<br /> “người Thái coi Sô Công và Ải Lậc Cậc là<br /> những vị thần sáng tạo, tượng trưng cho sức<br /> mạnh của tự nhiên và lực lượng lao động của<br /> con người, hoà đồng cùng hệ sinh thái nhân<br /> văn làm xuất hiện hệ sinh thái nông nghiệp<br /> phức hợp, lấy cây trồng là lúa nước làm trụ<br /> cột, ở trong các thung lũng lòng chảo vùng<br /> núi cao nguyên của miền nhiệt đới ẩm ướt.<br /> Theo tâm linh ấy, sự sinh trời, đất, nước cốt<br /> cho xã hội con người tồn tại” [8, 444].<br /> <br /> 94(06): 23 - 27<br /> <br /> Cùng chung chủ đề về những vị thần khổng lồ<br /> trong buổi bình minh của tộc người, kho tàng<br /> văn học dân gian của người Tày cũng có câu<br /> chuyện về vợ chồng “Báo Luông, Sao Cải”<br /> (ông To, bà Lớn). Truyền thuyết về cặp vợ<br /> chồng này nhằm giải thích cho sự hình thành<br /> tên đất cũng như sự ra đời của nghề nông<br /> trồng lúa nước của người Tày ở Cao Bằng.<br /> Nhờ khả năng sáng tạo của mình, hai vợ<br /> chồng cùng với đàn con đã có cuộc sống no<br /> đủ. Khi các con trưởng thành, ông bà lo dựng<br /> vợ gả chồng cho con rồi chia vùng cho chúng<br /> sinh sống:<br /> “Thằng Bế ở Bản Vạn<br /> Thằng Vạn nên đi Bản Ngần<br /> Thằng Hoàng thử về Đâu Ngả<br /> Thằng Mã trụ ở Nà Mè<br /> Thằng Hà làm nhà Tả Lạn<br /> Thằng Đàm sang tạm Ảng Giàng…”[6,105]<br /> Về sau, tên của các con trở thành tên gọi<br /> chính của các bản làng. Các con cái của Báo<br /> Luông - Sao Cải trở thành tổ tiên của các<br /> dòng họ người Tày ở Cao Bằng hiện nay. Họ<br /> đã nỗ lực hết mình gây dựng một cuộc sống<br /> tốt đẹp, no đủ cho con cháu về sau. Ngày nay<br /> ở Cao Bằng, mỗi dòng họ Tày đều có ý thức<br /> về những vị tổ của dòng họ và duy trì sự thờ<br /> cúng như một lòng tri ân đối với những người<br /> sáng lập ra dòng họ cũng như tộc người.<br /> Có thể nói, hình ảnh những vị thần khổng lồ những vị thần trong buổi bình minh của loài<br /> người - là mẫu số chung phổ biến trong thần<br /> thoại của các tộc người không chỉ ở nước ta<br /> mà có tính chất phổ biến toàn nhân loại.<br /> Trong văn học dân gian của các tộc người ở<br /> nước ta, không chỉ thấy hình ảnh này trong<br /> thần thoại cư dân Tày – Thái, mà còn phổ<br /> biến ở những tộc người khác. Ta bắt gặp<br /> trong thần thoại của người Việt (Kinh) hình<br /> ảnh của ông Thần Trụ Trời với một thân thể<br /> “to lớn không biết bao nhiêu mà kể; chân<br /> thần bước một bước cứ như bây giờ từ tỉnh<br /> này qua tỉnh nọ hay là từ đỉnh núi này sang<br /> đỉnh núi kia” [2,75]. Công việc của thần là<br /> "đứng dậy đội trời lên cao rồi đào đất, đá đắp<br /> thành một cái cột vừa cao vừa to để chống<br /> trời"[2,76]. Tiếp theo công việc phân khai trời<br /> <br /> 24<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Chu Thị Vân Anh<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> đất của thần Trụ Trời là đến công việc kiến<br /> tạo của một loạt các vị thần khác được nhắc<br /> tới trong câu ca quen thuộc của người Việt:<br /> “Nhất ông đếm cát,<br /> Nhì ông tát bể (biển),<br /> Ba ông kể sao,<br /> Bốn ông đào sông,<br /> Năm ông trồng cây,<br /> Sáu ông xây rú,<br /> Bảy ông trụ trời…”[2, tr77].<br /> Như vậy, theo quan niệm của người Việt xưa,<br /> thiên nhiên xung quanh họ chính là thành quả<br /> lao động miệt mài của những vị thần khổng lồ<br /> - những vị thần có sức mạnh sáng tạo trong<br /> buổi khai thiên lập địa.<br /> Trong thần thoại về buổi đầu lịch sử tạo dựng<br /> cuộc sống cho con người, trong thần thoại của<br /> người Việt còn có hình ảnh của cặp đôi Nữ<br /> Oa - Tứ Tượng (hai thần Đực - Cái). Hai thần<br /> này không chỉ là biểu tượng cho sức sáng tạo<br /> của con người mà còn là biểu tượng cho sự<br /> hoà hợp âm dương, cho quan niệm về hôn<br /> nhân và gia đình của người Việt cổ.<br /> Cũng nằm trong đề tài này, cư dân vùng trung<br /> châu Bắc Bộ vẫn còn lưu truyền câu chuyện<br /> về ông Đổng - được người dân địa phương<br /> coi là cha của thánh Dóng sau này, bởi có liên<br /> quan đến dấu chân khổng lồ mà mẹ ông Dóng<br /> dẫm phải trên một tảng đá ở Dóng - mốt (bây<br /> giờ là thôn Đổng Viên, xã Phù Đổng). Dấu<br /> chân đó chính là bắt đầu cho câu chuyện về<br /> ông Dóng [3].<br /> Từ lao động chinh phục tự nhiên, một sự lao<br /> động hết sức cần cù, tỉ mỉ và vất vả trên từng<br /> tấc đất, từng dòng nước, với từng cây cà, bó<br /> mạ, con ốc, con cua, con cá, với từng mảnh<br /> đá, hòn quặng của người Việt cổ trên vùng<br /> trung châu đã từng bị hạn hán, bị dông bão<br /> hoành hành, mà vẽ ra một ông Đổng to bằng<br /> vũ trụ. Rồi từ ông Đổng khổng lồ đó, nghĩa là<br /> từ lý tưởng chinh phục tự nhiên ấy, ta lại có<br /> một ông Dóng đánh thắng giặc Ân mạnh mẽ<br /> chẳng kém gì sự chuyển vần của tạo hoá<br /> thành sông núi, sự rung động của trời đất<br /> thành mưa gió, sấm sét.<br /> <br /> 94(06): 23 - 27<br /> <br /> Có thể thần thoại về ông Đổng cũng như ông<br /> Dóng ra đời muộn hơn so với các thần thoại<br /> khác, nhưng xét cho cùng nó cũng đều nằm<br /> trong khuôn khổ nội dung phản ánh ước mơ,<br /> khát vọng chinh phục tự nhiên của con người<br /> nhằm đảm bảo cho cuộc sống ổn định của cả<br /> cộng đồng. Do vậy mà thần thoại về ông<br /> Đổng, ông Dóng gắn liền với các lễ hội dân<br /> gian vẫn được các cư dân vùng trung châu<br /> Bắc Bộ duy trì cho đến tận ngày nay.<br /> Trong thần thoại của người Xê đăng cũng có<br /> truyền thuyết về người khổng lồ - ông Rờ Xí vị thần sáng tạo, khai thiên lập địa [1]. Hay<br /> như câu chuyện về Taman Xơ ri - vị thần<br /> sáng tạo của tộc người Co[5].<br /> Khi giải thích về nguồn gốc của loài người,<br /> thần thoại của người Mảng cũng đề cập đến<br /> vai trò kiến tạo thiên nhiên của hai vị thần Ai<br /> Húi - Ai Hĩnh. Các thần được Monten giao cho<br /> nhiệm vụ xuống trần gian “đắp núi, xẻ sông<br /> suối, làm ra cây cối và muôn loài” [10, tr 26].<br /> Hình tượng về người khổng lồ cũng được tìm<br /> thấy trong thần thoại các tộc người thiểu số<br /> khác như người Bana với hai thần tạo hoá là<br /> nam thần Cơi - Dơi và nữ thần Con - Két.<br /> Trong kho tàng văn học dân gian về buổi<br /> đầu lịch sử của tộc người, người Cao Lan<br /> cũng có thần thoại về vợ chồng Trời Đất có<br /> vai trò sáng tạo ra muôn vật, người Lô Lô<br /> có cặp đôi Két giơ - Cagiê, hay ông Thu<br /> Tha, bà Thu Thiên, ông Đùng - bà Đà trong<br /> thần thoại Mường [4].<br /> Từ những khảo cứu trên, chúng tôi đã đi đến<br /> nhận định rằng, hình ảnh về những vị thần<br /> khổng lồ có vai trò kiến tạo trời và đất đã trở<br /> thành mô típ quen thuộc trong thần thoại của<br /> các tộc người ở nước ta. Vậy liệu giữa những<br /> vị thần khai thiên lập địa của các tộc người ở<br /> Việt Nam có những điểm nào giống nhau?<br /> Tại sao lại có những sự tương đồng như vậy?<br /> Mẫu số chung của các vị thần sáng tạo<br /> Qua những tìm hiểu cụ thể về các vị thần sáng<br /> tạo phổ biến trong thần thoại các tộc người ở<br /> Việt Nam, chúng tôi xin khái quát về những<br /> đặc điểm chung nhất, được coi là “mẫu số<br /> chung” của các vị thần.<br /> 25<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Chu Thị Vân Anh<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Thứ nhất: họ là những người có sức vóc phi<br /> thường, là những người “khổng lồ” để đảm<br /> nhận công việc nặng nhọc “khai phá và kiến<br /> tạo thế giới”. Sức mạnh của họ sánh ngang<br /> với sức sáng tạo của thiên nhiên.<br /> Thứ hai: Họ là những người có lai lịch khác<br /> thường. Có thể là con trời (trường hợp Ai Húi<br /> - Ai Hĩnh, Sô Công và Ải Lậc Cậc…), hay<br /> được sinh ra trong mớ hỗn mang của trời và<br /> đất (thần Bàn Cổ), hoặc có nguồn gốc thần bí<br /> (Inganua mangan)… Vì những công việc mà<br /> họ làm hết sức đặc biệt, không giống với<br /> những công việc của những người bình<br /> thường nên lai lịch của họ cũng phải đặc biệt<br /> để có thể đảm nhận những trọng trách không<br /> giống với con người thông thường. Chính<br /> những điều kiện xuất thân như vậy mà ngay<br /> từ đầu đã khiến cho các vị thần này trở nên<br /> thật phi thường.<br /> Thứ ba: trong các thần thoại về thuở khai<br /> thiên lập địa của con người, thường có sự<br /> xuất hiện đồng thời của một cặp đôi nam thần<br /> và nữ thần. Sự ghép đôi này là rất phổ biến<br /> trong thần thoại của các tộc người không chỉ<br /> ở nước ta mà còn trên phạm vi toàn thế giới.<br /> Phải chăng, trong buổi đầu của lịch sử nhân<br /> loại, khi mà nhận thức của con người còn<br /> nhiều hạn chế, quan niệm về sự hoà hợp âm dương đã bước đầu được con người nhận thức<br /> và trở thành tư tưởng chi phối mọi hoạt động<br /> sáng tạo?<br /> Thứ tư: những công việc của các vị thần sáng<br /> tạo chẳng qua cũng chỉ là sự mô phỏng lại<br /> những hoạt động lao động thường nhật của con<br /> người. Hay nói cách khác, các vị thần “khổng<br /> lồ” là sự “thần thánh hoá”, “thiêng hoá” quá<br /> trình lao động, sáng tạo của con người. Bằng<br /> những việc làm hết sức cụ thể, thông qua hình<br /> tượng các vị thần có tầm vóc khác thường,<br /> sánh ngang với tầm vóc của thiên nhiên, của<br /> vũ trụ, con người muốn thể hiện khát vọng cải<br /> biến thế giới theo hướng có lợi cho mình. Ước<br /> vọng đó mang tính phổ quát đối với toàn nhân<br /> loại thông qua một hình tượng khái quát những vị thần “khổng lồ”.<br /> Thứ năm: những vị thần thường là những<br /> người bộc trực, nóng tính nhưng cũng hết<br /> lòng vì công việc. Cũng giống như con người,<br /> <br /> 94(06): 23 - 27<br /> <br /> bên cạnh những ưu điểm, các vị thần sáng tạo<br /> cũng có những hạn chế nhất định trong tính<br /> cách cũng như cách hành xử. Tính cách đó<br /> chính là sự hiện thực hoá tính cách của mỗi cá<br /> nhân trong cộng đồng. Hay nói cách khác,<br /> hình ảnh các vị thần cũng chính là hình ảnh<br /> của con người trong buổi đầu của lịch sử.<br /> Thứ sáu: biểu tượng về những vị thần khổng<br /> lồ là đặc trưng cho các cư dân trồng lúa nước,<br /> gắn liền với tín ngưỡng phồn thực truyền<br /> thống. Điển hình như trong tâm thức của<br /> người Thái, các vị Sô Công và Ải Lậc Cậc có<br /> vai trò quan trọng và được thờ cúng như<br /> những vị thần nông. Trong văn hoá của người<br /> Tày cũng vậy! Vợ chồng Báo Luông, Sao Cải<br /> cũng được coi là những người đầu tiên có<br /> công truyền dạy nghề nông cho tộc người.<br /> Hay ta cũng bắt gặp hình ảnh những vị thần<br /> khổng lồ trong thần thoại của người Việt<br /> (phong phú hơn cả), của người Mường (ông<br /> Đùng, bà Đà) là những cư dân trồng lúa nước<br /> điển hình. Chính việc đề cao vai trò của<br /> những vị thần khổng lồ này là khởi nguồn cho<br /> tín ngưỡng phồn thực của các cư dân trồng<br /> lúa nước ở nước ta.<br /> Giải thích cho sự tương đồng về hình tượng<br /> giữa các tộc người, có lẽ chúng ta phải đề cập<br /> đến sự quy định bởi yếu tố kinh tế do điều<br /> kiện tự nhiên chi phối. Tất cả các tộc người<br /> được khảo cứu ở đây đều là những cư dân<br /> trồng lúa nước, sinh sống ở những vùng đồng<br /> bằng chiêm trũng hoặc vùng thung lũng trước<br /> núi. Do sinh tụ trên dải đất nhiệt đới, lại cư<br /> trú ở vùng đất đai màu mỡ, họ đã sớm chọn<br /> nghề nông trồng lúa nước làm nền tảng kinh<br /> tế chính của tộc người. Chính vì vậy mà nó<br /> trở thành một nếp cảm nghĩ, một mô típ trùng<br /> lặp trong văn học dân gian các tộc người.<br /> KẾT LUẬN<br /> Khác với những vị thần trong các loại truyện<br /> cổ tích, truyền thuyết ở những giai đoạn sau<br /> này thường mang trong mình yếu tố thần tiên,<br /> hoang đường, hình ảnh của các vị thần trong<br /> thần thoại được coi là bản sao của đời sống<br /> hiện thực được phản ánh vào trong văn học. Ở<br /> đó, các vị thần không phải là những lực lượng<br /> cao siêu với những phép màu kỳ ảo, mà đó<br /> chỉ là hình ảnh về xã hội và con người trong<br /> <br /> 26<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Chu Thị Vân Anh<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> buổi ban sơ của lịch sử. Với khát vọng tìm<br /> hiểu về những hiện tượng tự nhiên để chinh<br /> phục nó, với ý thức về sức mạnh của lao<br /> động, con người đã qui mọi sự vật trong tự<br /> nhiên là do khả năng sáng tạo của các vị thần<br /> - thực chất là những con người đã được “thần<br /> thánh hoá”. Thiên nhiên trở nên quá đỗi gần<br /> gũi với con người, trở thành đối tượng tác<br /> động thường xuyên của con người. Tầm vóc<br /> to lớn, phi thường của các vị thần sáng tạo<br /> cũng chính là biểu tượng đầy đủ và khái quát<br /> nhất cho sức mạnh sáng tạo của bản thân con<br /> người, cho sức mạnh cải biến thế giới mà con<br /> người đã, đang và sẽ làm trong suốt lịch sử<br /> tồn tại của mình.<br /> “Giải mã” biểu tượng là công việc rất khó<br /> khăn, bởi dù cố gắng đến đâu chúng ta cũng<br /> chỉ mới chạm được vào một phần ý nghĩa của<br /> nó. Chính vì vậy, trong bài viết này, chúng tôi<br /> chỉ tập trung vào giải quyết những vấn đề đặt<br /> ra theo quan điểm nghiên cứu của mình,<br /> nhằm có cách tiếp cận mới mẻ hơn về một đối<br /> tượng nghiên cứu khá phổ biến trong văn học,<br /> dân tộc học cũng như trong văn hoá dân gian<br /> (folklore).<br /> <br /> 94(06): 23 - 27<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1. Ngô Vĩnh Bình (1982), Truyện cổ Xê-đăng,<br /> NxbVăn học, Hà Nội.<br /> 2. Nguyễn Đổng Chi (1956), Sơ lược về thần thoại<br /> Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.<br /> 3.Cao Huy Đỉnh (1969), Người anh hùng làng<br /> Dóng, Nxb Khoa học – Xã hội, Hà Nội.<br /> 4. Nguyễn Thị Huế, Trần Thị An (ST&BS)<br /> (2000), Tuyển tập văn học Việt Nam, Tập 1: Thần<br /> thoại - Truyền thuyết, Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br /> 5. Vũ Hùng (1992), Truyện cổ Co, Nxb Đà Nẵng.<br /> 6. Vương Hùng (2000), “Pú Luông, Gia Cải”,<br /> trong “Lịch sử cổ đại Cao Bằng - Kỷ yếu Hội<br /> thảo”, Nxb Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Cao Bằng.<br /> 7. Hoàng Lương (2010), “Những địa danh Tày –<br /> Thái cổ ở xung quanh vùng Hà Nội”, Tạp chí Dân<br /> tộc học, số 4/2010 (tr 50 - 57)<br /> 8. Cầm Trọng (1987), Mấy vấn đề cơ bản vê lịch<br /> sử kinh tế- xã hội cổ đại người Thái ở Tây Bắc<br /> Việt Nam, Nxb Khoa học – Xã hội, Hà Nội.<br /> 9. Cầm Trọng (2008), Huyền thoại Mường Then,<br /> Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội.<br /> 10. Đặng Nghiêm Vạn (1994), Truyện cổ các dân<br /> tộc ít người Việt Nam; Tập 3: dòng Nam Á, Nxb<br /> Văn học, Hà Nội.<br /> <br /> SUMMARY<br /> GENERAL FORM OF GIANT GODS IN MYTHOLOGY<br /> OF SOME ETHNICS IN VIETNAM<br /> Chu Thi Van Anh*<br /> College of Sciences - TNU<br /> <br /> Mythology is composed by primitive people, reflecting the state of living matter and the human<br /> spirit in the dawn of history. The myth of giant gods are considered the first class mythology<br /> appearing early in the history of ethnic literature. Image of the giant gods who have the statue and<br /> extraordinary health is a familiar motif in the system of ethnic myths. Through this article, the<br /> author would like to cover some of the common features, also known as the “common<br /> denominator” of giant gods folklore treasure of Vietnam. With cross – sectoral approach, on the<br /> basis of many researches on ethnic myths, with their insights, the author initially decoded symbol<br /> system in the mythical treasure of the ethnic people in Vietnam.<br /> Key words: Mythology, Tay ethnic, Thai ethnic, symbol, giant gods<br /> <br /> Ngày nhận: 12/03/2012; Ngày phản biện:20/03/2012; Ngày duyệt đăng:12/06/2012<br /> <br /> *<br /> <br /> Tel: 0983834376; Email: vananhdth@gmail.com<br /> <br /> 27<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.lrc-tnu.edu.vn<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2