Tạp chí Khoa học-Công nghệ Thủy sản Số 2/2006<br />
<br />
Trường Đại học Thủy sản<br />
<br />
MÔ HÌNH QUẢN LÝ KHU BẢO TỒN BIỂN DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG<br />
Ở THÔN XUÂN TỰ, XÃ VẠN HƯNG, HUYỆN VẠN NINH, KHÁNH HÒA<br />
Thạc sĩ Nguyễn Lâm Anh<br />
Khoa NTTS, Trường ĐHTS<br />
Các khu bảo tồn biển (KBTB) đóng một vai<br />
trò quan trọng trong quản lý nghề cá trên toàn<br />
thế giới. Đó là do chức năng của chúng trong<br />
việc bảo vệ và phục hồi các nguồn lợi biển đang<br />
dần cạn kiệt trước những tác động ngày càng<br />
tăng của con người, trực tiếp như khai thác<br />
nguồn lợi hay gián tiếp khi tác động lên các môi<br />
trường sống của sinh vật biển. Ở Việt Nam, hệ<br />
thống các KBTB đã và đang được thiết lập nhằm<br />
mục đích bảo vệ các hệ sinh thái dọc theo bờ<br />
biển. Các KBTB này được quản lý hoặc là đơn<br />
vị hành chính của các cấp chính quyền hoặc<br />
đồng quản lý với sự tham gia của cộng đồng<br />
dân cư địa phương.<br />
Được thành lập theo quyết định số 437/TSKT, ngày 26 tháng 9 năm 2000 KBTB Rạn Trào<br />
ra đời với tổng diện tích 40 ha, trong đó vùng lõi<br />
27 ha bao quanh rạn san hô. Cơ chế quản lý<br />
dựa vào cộng đồng với việc thành lập Nhóm hạt<br />
nhân do cộng đồng bầu ra để duy trì các hoạt<br />
động của KBTB như bảo vệ nguồn lợi và môi<br />
trường, trồng tái tạo nguồn lợi san hô, tham<br />
quan trao đổi học tập... đã chứng tỏ là một công<br />
cụ hiệu quả trong quản lý nghề cá bền vững.<br />
Các hoạt động khai thác hủy diệt bị ngăn chặn,<br />
các hoạt động khai thác thủy sản truyền thống<br />
chấm dứt ở vùng lõi và giảm nhiều ở vùng đệm<br />
đã làm cho mật độ cá tăng nhiều trong và xung<br />
quanh khu bảo tồn.<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Các Khu bảo tồn biển (KBTB) có chức năng<br />
duy trì và bảo vệ nguồn lợi cũng như sự đa dạng<br />
sinh học của sinh vật biển trong khu bảo tồn<br />
cũng như cung cấp sự bổ sung nguồn lợi cho<br />
các vùng xung quanh nó. Vào tháng 11-2001,<br />
Hội nghị nghề cá bền vững của các nước Đông<br />
Nam Á tổ chức ở Bangkok, Thái Lan đã nhấn<br />
mạnh việc cần thiết phải thiết lập hệ thống KBTB<br />
như một công cụ hiệu quả trong bảo vệ nguồn<br />
lợi trước nguy cơ cạn kiệt do các hoạt động khai<br />
thác của con người cũng như góp phần tái tạo<br />
nguồn lợi để góp phần đảm bảo an ninh lương<br />
thực cho nhu cầu ngày càng tăng của con người<br />
(ASEAN-SEAFDEC<br />
Conference.<br />
Technical<br />
document, p.88). Trên thế giới có rất nhiều<br />
KBTB được thành lập ở những nơi môi trường<br />
nhạy cảm và dễ bị tác động như rạn san hô,<br />
<br />
52<br />
<br />
rừng ngập mặn và thảm cỏ biển. Chẳng hạn như<br />
KBTB cho các rạn san hô ở vùng Nam Mỹ là 38,<br />
91 ở Bắc Mỹ và 21 cho quần đảo Hawaii (Status<br />
of Coral Reefs of the World: 2002) và 646 ở<br />
vùng Đông Nam Á (Nguồn: Reefs at Risk in<br />
Southeast Asia, WRI, 2002).<br />
Ở Việt Nam, với bờ biển dài trên 3.260 km<br />
và vùng biển trải dài trên 15 vĩ độ, có nguồn lợi<br />
rạn san hô và rừng ngập mặn khá phong phú.<br />
Việc quản lý hiệu quả các hệ sinh thái đặc biệt<br />
trên sẽ đóng góp rất nhiều vào việc phát triển<br />
bền vững nghề cá nước nhà. Cho đến nay nhiều<br />
KBTB đã và đang đươc thành lập như Vườn<br />
quốc gia Cát Bà, Vườn quốc gia Côn đảo, KBTB<br />
Hòn Mun... và trong đó có KBTB Rạn Trào ở xã<br />
Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh như một điển hình<br />
về KBTB có qui mô nhỏ và được quản lý dựa<br />
vào cộng đồng.<br />
Nằm dọc bờ biển, xã Vạn Hưng có các hệ<br />
sinh thái và nguồn lợi ven bờ phong phú với 13<br />
rạn san hô nổi và thảm cỏ biển sát bờ (Hue,<br />
N.T., Wade, H. and Vinh, N.V., 2001). Tuy nhiên<br />
nguồn lợi giàu có này đã và đang bị tàn phá do<br />
khai thác quá mức, khai thác hủy diệt như dùng<br />
chất độc và thuốc nổ, và môi trường nước ven<br />
bờ bị xuống cấp do mật độ lồng nuôi tôm hùm<br />
quá dày cũng như lượng hóa chất dùng xử lý<br />
trong các đìa nuôi tôm sú. Nếu các rạn san hô<br />
tiếp tục bị phá hủy, việc nuôi trồng thủy sản tiếp<br />
tục bị thất bại do môi trường và dịch bệnh,<br />
nguồn lợi thủy sản bị khai thác cạn kiệt thì sinh<br />
kế của cộng đồng cư dân địa phương sẽ bị đe<br />
dọa nghiêm trọng. Tình hình đó đòi hỏi phải tiến<br />
hành những biện pháp hiệu quả để bảo vệ<br />
nguồn lợi, cải thiện môi trường hướng đến sự<br />
phát triển bền vững cho địa phương. Một trong<br />
những lựa chọn hứa hẹn dẫn đến thành công là<br />
việc thành lập KBTB Rạn Trào với mô hình quản<br />
lý dựa vào cộng đồng theo xu hướng quản lý<br />
hiệu quả hiện nay với sự giúp đỡ của Tổ chức<br />
Liên minh sinh vật biển Quốc tế tại Việt Nam<br />
(IMA Việt Nam).<br />
Bài báo này nhằm giới thiệu KBTB Rạn<br />
Trào như một mô hình hiệu quả để bảo vệ và tái<br />
tạo nguồn lợi rạn san hô cũng như góp phần cải<br />
thiện môi trường ven bờ để hướng đến sự phát<br />
triển bền vững nghề cá của địa phương.<br />
<br />
Tạp chí Khoa học-Công nghệ Thủy sản Số 2/2006<br />
<br />
Trường Đại học Thủy sản<br />
<br />
Hình 1. Bản đồ vị trí vùng nghiên cứu (Nguồn: IMA Vietnam, 2003)<br />
2. Phương pháp nghiên cứu<br />
2.1. Địa điểm nghiên cứu được chọn là thôn<br />
Xuân Tự, xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh, tỉnh<br />
Khánh Hòa.<br />
2.2. Phương pháp đánh giá nhanh nông<br />
thôn (Rapid Rural Appraisal) được sử dụng.<br />
Ba nhóm đối tượng được chọn khảo sát là<br />
IMA Việt Nam, chính quyền và cộng đồng dân<br />
cư địa phương.<br />
Số liệu thứ cấp như các số liệu về kinh tế xã<br />
hội, nguồn lợi và hoạt động của KBTB được thu<br />
thập từ các báo cáo và số liệu thống kê của<br />
chính quyền địa phương và IMA Việt Nam.<br />
Số liệu sơ cấp về cơ cấu gia đình, nghề<br />
nghiệp, học vấn, quan điểm và nhận thức được<br />
thu thập thông qua phỏng vấn trực tiếp các cán<br />
<br />
bộ địa phương, cán bộ IMA Việt Nam và đại diện<br />
của 299 hộ gia đình.<br />
Ngoài ra các số liệu định tính phục vụ cho<br />
phân tích cũng được thu thập qua quan sát<br />
quang cảnh KBTB, thôn làng, các hộ gia đình<br />
và nhất là thái độ của người được phỏng vấn.<br />
2.3. Số liệu được nhập và xử lý trên bảng<br />
tính Excel.<br />
3. Kết quả nghiên cứu<br />
3.1. Vùng nghiên cứu<br />
Theo số liệu thống kê của chính quyền địa<br />
phương, thôn Xuân Tự nằm phía bắc xã Vạn<br />
Hưng và có 4 km dọc theo vịnh Vân Phong.<br />
Tổng diện tích của thôn là 370 ha và được chia<br />
đôi bởi đường quốc lộ 1A: phần phía đông giáp<br />
biển với phần lớn dân số và phần phía tây giáp<br />
<br />
53<br />
<br />
Tạp chí Khoa học-Công nghệ Thủy sản Số 2/2006<br />
<br />
núi dân cư thưa thớt. Dân số của thôn là<br />
4164 người với 2046 nam giới (chiếm 49,2 %)<br />
và 2115 nữ giới (50,8% dân số). Cơ sở hạ tầng<br />
khá tốt với hệ thống đường liên thôn, có mạng<br />
lưới điện quốc gia và các công trình phục vụ<br />
cộng đồng như trường học, trạm y tế nằm trong<br />
khu vực thôn. Có 3 trạm sửa chữa tàu thuyền<br />
nhỏ.<br />
Thôn Xuân Tự có lịch sử phát triển hơn 100<br />
năm và cho đến đầu những năm 80 của thế kỷ<br />
trước người dân địa phương mới chuyển sang<br />
khai thác hải sản còn trước đó sinh kế chủ yếu<br />
vẫn là nông nghiệp. Việc khai thác quá mức và<br />
việc sử dụng những phương tiện khai thác hủy<br />
diệt đã làm cho nguồn lợi hải sản ven bờ ngày<br />
càng cạn kiệt. Trong những năm 1990-1991,<br />
nghề nuôi tôm hùm lồng và tôm sú xuất hiện và<br />
phát triển rất nhanh. Việc phát triển nuôi trồng<br />
thủy sản đã cải thiện đáng kể bộ mặt kinh tế xã<br />
hội của cộng đồng địa phương nhưng cùng lúc<br />
đó ảnh hưởng xấu đến môi trường ven bờ do<br />
mật độ nuôi quá dày và hóa chất trong quá trình<br />
nuôi dẫn đến những đợt dịch bệnh tôm bùng<br />
phát. Năm 2001, KBTB Rạn Trào được thành<br />
lập với tổng diện tích 40 ha, trong đó vùng lõi 27<br />
ha, cách bờ 3 km. KBTB là nỗ lực lớn của chính<br />
quyền và cộng đồng địa phương dưới sự giúp<br />
đỡ của IMA Việt Nam để nhằm bảo vệ sự đa<br />
dạng sinh học và tái tạo lại nguồn lợi ven bờ.<br />
3.2. Các hoạt động chủ yếu ở vùng bờ.<br />
Khai thác hải sản:<br />
Theo IMA Việt Nam (2001), có 428 hộ gia<br />
đình (53% tổng số hộ gia đình trong thôn) khai<br />
thác hải sản ven bờ nhưng chỉ có 70 hộ coi là<br />
sinh kế chủ yếu. Trong 299 hộ được phỏng vấn,<br />
có 136 hộ (45%) tham gia hoạt động khai thác<br />
hải sản với các nghề chủ yếu là lặn (34%), rê và<br />
soi (đều khoảng 24%), rê ghẹ (16%), bẫy mực<br />
nang và câu (đều 1%).<br />
Hoạt động khai thác hải sản trong thôn chủ<br />
yếu là quy mô nhỏ với các thuyền chỉ từ 6 đến<br />
12 mã lực với các nghề khai thác truyền thống ở<br />
vùng nước nông gần bờ với sản lượng khai thác<br />
hàng năm khoảng 100 tấn. Đối tượng khai thác<br />
chủ yếu là mực nang, ghẹ và cá rạn. Hoạt động<br />
khai thác thường diễn ra trong một đêm nên<br />
không ướp đá. Đặc biệt, nghề lặn bắt cá rạn<br />
phát triển rất nhanh chiếm đến 34% hoạt động<br />
khai thác do việc đầu tư không lớn mà giá trị cá<br />
rạn lại cao. So với 3 năm trước khi KBTB thành<br />
lập, 100% số ngư dân được phỏng vấn đều cho<br />
rằng sản lượng ngày càng giảm.<br />
Nuôi trồng hải sản<br />
Theo IMA Việt nam (2001), 677 hộ gia đình<br />
(84% tổng số hộ gia đình trong thôn) tham gia<br />
nuôi trồng thủy sản ven bờ. Trong 299 hộ được<br />
phỏng vấn, có 187 hộ (63%) hoạt động nuôi<br />
<br />
54<br />
<br />
Trường Đại học Thủy sản<br />
<br />
trồng thủy sản với đối tượng nuôi chủ yếu là tôm<br />
hùm lồng (85%), tôm sú nuôi đìa chiếm 12% và<br />
một tỷ lệ nhỏ là ốc hương lồng (3%).<br />
Nghề nuôi tôm hùm lồng phát triển nhanh,<br />
tăng từ 1200 lồng (năm 1999) lồng lên đến 2000<br />
lồng (năm 2002) với mật độ 100 tôm hùm con<br />
trong mỗi lồng 4mx6m. Trong 299 hộ được<br />
phỏng vấn có 160 hộ nuôi tôm humg lồng với số<br />
lượng lồng từ 1 đến 12, trung bình 4 lồng/hộ.<br />
Tùy thuộc vào vốn, người nuôi tôm sẽ nuôi<br />
khoảng 20-24 tháng đến kích thước thương<br />
phẩm hay chỉ sau 6 tháng sẽ bán lại cho người<br />
khác nuôi tiếp. Họ mua tôm hùm con từ người<br />
địa phương cũng như người ngoài địa phương<br />
nhưng chỉ bán sản phẩm cho người thu mua địa<br />
phương. Tuy nhiên, mật độ lồng phát triển dày<br />
đặc đã ảnh hưởng xấu đến môi trường và tôm<br />
nuôi. Tổng sản lượng tôm hùm tăng chậm từ<br />
100 tấn trong năm 1999 đến 120 tấn trong năm<br />
2002, trong khi số lượng lồng tăng từ 1200 đến<br />
2000 chiếc đã phần nào thể hiện vấn đề trên<br />
(Nguồn: thủy sản huyện 2003). Hiện một số chủ<br />
lồng có xu hướng dùng lồng nổi và kéo ra xa bờ<br />
hơn để tránh ô nhiễm.<br />
Nghề nuôi tôm sú được nuôi cùng thời gian<br />
từ 1999-2002 trên cùng một diện tích vì không<br />
có thêm hộ tham gia do chi phí đầu tư cao, rủi ro<br />
lớn và diện tích đất chỉ có hạn. Trong 290 hộ<br />
được phỏng vấn có 22 hộ nuôi tôm sú, diện tích<br />
nuôi tôm sú có từ 0,06 ha đến 2 ha, trung bình<br />
0,67 ha cho mỗi hộ gia đình và hai vụ nuôi mỗi<br />
năm. Tất cả chủ nuôi đều sử dụng chlorine để<br />
xử lý đìa và chất kháng sinh để điều trị bệnh<br />
tôm. 100% chủ nuôi đều hiểu hóa chất có hại<br />
đến môi trường nhưng không có hộ nào có hệ<br />
thống xử lý nước thải. Họ mua tôm giống từ các<br />
trại quanh vùng và bán sản phẩm cho đầu nậu<br />
địa phương. Với cùng diện tích nuôi (30 ha) từ<br />
1999-2002 sản lượng tôm tăng trong năm thứ<br />
hai từ 45 tấn lên 60 tấn và giảm dần mỗi năm<br />
sau đó vì dịch bệnh. Theo người nuôi, dịch bệnh<br />
nguy hiểm nhất là đốm trắng.<br />
Từ 2001 đến 2002 khoảng 3% người nuôi<br />
trồng thôn Xuân Tự bắt đầu nuôi ốc hương. Họ<br />
mua giống từ nguồn tự nhiên và từ trại giống<br />
của Viện Nuôi trồng thủy sản III và bán cho<br />
người thu mua địa phương. Mỗi vụ khoảng 5<br />
tháng và hầu hết các hộ nuôi hai vụ mỗi năm.<br />
Từ 30 lồng trong năm 2001 đã tăng lên 100 lồng<br />
trong năm 2002 và sản lượng tăng từ 6 tấn lên<br />
đến 20 tấn sau một năm.<br />
3.3. KBTB Rạn Trào<br />
3.3.1. Quá trình hình thành KBTB<br />
Nhằm xây dựng Dự án khai thác không hủy<br />
diệt và bền vững cá rạn san hô sống vì mục đích<br />
thương mại, từ ngày 21 đến 27 tháng 9 năm<br />
2000, IMA Việt Nam đã đến làm việc tại tỉnh<br />
<br />
Trường Đại học Thủy sản<br />
<br />
Tạp chí Khoa học-Công nghệ Thủy sản Số 2/2006<br />
<br />
Khánh Hòa. Qua quá trình làm việc, IMA<br />
Việt Nam đã quyết định chọn xã Vạn Hưng<br />
huyện Vạn Ninh làm địa điểm triển khai Dự án.<br />
Tuy nhiên, sau quá trình điều tra khảo sát, trước<br />
tình hình thực tế tại địa phương, việc xây dựng<br />
một KBTB nhằm bảo vệ và tái tạo nguồn lợi san<br />
hô cùng nguồn lợi sinh vật sống trong rạn cũng<br />
như cải thiện môi trường vùng ven bờ đã trở<br />
thành vấn đề bức thiết. Do đó, với sự hỗ trợ của<br />
IMA Việt Nam và sự nỗ lực của chính quyền và<br />
cộng đồng nhân dân địa phương, KBTB Rạn<br />
Trào đã chính thức ra đời theo quyết định số<br />
2479/UB của Ủy ban Nhân dân tỉnh Khánh Hòa<br />
ngày 7 tháng 11 năm 2001 tại thôn Xuân Tự, xã<br />
Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh.<br />
KBTB Rạn Trào có tổng diện tích 40 ha với<br />
phần lõi là rạn san hô Trào có diện tích 27 ha là<br />
nơi bảo vệ nhiêm ngặt để bảo vệ và phục hồi<br />
nguồn lợi san hô và các sinh vật sống trong rạn,<br />
vùng đệm quanh vùng lõi là nơi diễn ra hoạt<br />
động nuôi tôm hùm lồng nhất là về phía bờ cần<br />
được bảo vệ và cải thiện môi trường.<br />
3.3.2. Cơ chế hoạt động của KBTB<br />
Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu bảo vệ<br />
và tái tạo nguồn lợi rạn san hô và các sinh vật<br />
<br />
IMA<br />
Vietnam<br />
<br />
sống trong rạn và góp phần cải thiện môi trường<br />
ven bờ, một khung quản lý với cơ chế đồng<br />
quản lý đã được thiết lập (hình 2). Ban Quản lý<br />
KBTB có 6 thành viên bao gồm Phó Chủ tịch<br />
UBND huyện Vạn Ninh, Trưởng phòng Nông<br />
nghiệp và Phát triển nông thôn huyện, Trưởng<br />
ban thủy sản, Chủ tịch xã Vạn Hưng, đại diện<br />
Trạm kiểm ngư và đại diện cộng đồng dân địa<br />
phương. Ban Quản lý chịu trách nhiệm về mặt<br />
Nhà nước và các hoạt động quản lý. Nhóm hạt<br />
nhân gồm 9 người dân và 1 chiến sĩ biên phòng.<br />
9 người dân được cộng đồng tín nhiệm bầu lên<br />
theo nhiệm kỳ 2 năm với trách nhiệm thực hiện<br />
các hoạt động hàng ngày tại KBTB như đánh<br />
dấu vùng lõi, trồng lại san hô và bảo vệ KBTB cả<br />
ngày. Họ giám sát và ghi lại hiện trạng hàng<br />
ngày của KBTB để đề xuất ý kiến lên Ban Quản<br />
lý và IMA Việt Nam. Quy chế của KBTB Rạn<br />
Trào ra đời là kết quả các cuộc họp giữa Ban<br />
Quản lý, Nhóm hạt nhân, cộng đồng địa phương<br />
với sự hỗ trợ của IMA Việt Nam gồm 12 điều<br />
nằm trong 5 chương là những chương về quy<br />
đinh chung, tổ chức quản lý, bảo vệ khu bảo tồn,<br />
khen thưởng-xử phạt và các điều khoản thi<br />
hành.<br />
<br />
Ban Quản lý KBTB<br />
<br />
UBND huyện Vạn<br />
Ninh<br />
<br />
Biên phòng, Kiểm<br />
ngư huyện<br />
<br />
Nhóm hạt nhân<br />
<br />
KBTB Rạn Trào<br />
Hình 2: Cơ chế quản lý KBTB Rạn Trào<br />
<br />
55<br />
<br />
Trường Đại học Thủy sản<br />
<br />
Tạp chí Khoa học-Công nghệ Thủy sản Số 2/2006<br />
<br />
Sơ đồ trên thể hiện hiện trạng quản lý tại<br />
KBTB Rạn Trào, mũi tên đậm chỉ sự liên quan<br />
trực tiếp và mũi tên nhạt chỉ sự gián tiếp hay sự<br />
hỗ trợ của IMA Việt Nam. Ban Quản lý quản lý<br />
mọi hoạt động của KBTB thông qua Nhóm hạt<br />
nhân với sự hỗ trợ của IMA Việt Nam và báo<br />
cáo lên UBND huyện để đạt được sự hỗ trợ của<br />
tất cả các cấp có thẩm quyền nhằm tăng cường<br />
tuyên truyền vận động và áp chế thực hiện quy<br />
chế KBTB. KBTB El Nido ở Palawan<br />
(Philippines) ra đời năm 1995 cũng với mục đích<br />
khuyến khích và lôi kéo sự tham gia của cộng<br />
đồng địa phương vào việc hoạch định quản lý và<br />
các hoạt động của KBTB. Do đó, Ban Quản lý<br />
với thành phần gồm có đại diện của chính quyền<br />
địa phương, các tổ chức phi chính phủ, cộng<br />
đồng dân cư và các cơ sở tư nhân có chức<br />
năng hoạch định chính sách, đề ra các kế hoạch<br />
hoạt động phù hợp, và tìm kiếm nguồn tài chính<br />
cho hoạt động bền vững (Villavicencio and<br />
Baling, 1995).<br />
KBTB ở Việt Nam được coi như một công<br />
cụ quản lý mới để bảo vệ nguồn lợi thủy sản.<br />
Vườn Quốc gia Cát Bà, với một phần nằm trên<br />
biển, thành lập năm 1986 được coi như là KBTB<br />
đầu tiên ở Việt Nam cho đến nay đã có một số<br />
KBTB được thành lập mà mới nhất là KBTB Hòn<br />
Mun (2002). Cơ chế quản lý cũng khác nhau,<br />
trong khi Vườn Quốc gia Cát Bà do Nhà nước<br />
quản lý mà không có sự tham gia của cộng đồng<br />
địa phương, KBTB Hòn Mun do Tỉnh quản lý với<br />
sự tham gia của người dân địa phương và<br />
KBTB Rạn Trào do chính quyền địa phương cấp<br />
huyện và cộng đồng dân cư quản lý.<br />
Vườn Quốc gia Cát Bà theo Viet (2001)<br />
hiện đang phải đối mặt với những vấn đề về khai<br />
thác quá mức nguồn lợi, lặn bắt cá rạn và dùng<br />
các phương tiện hủy diệt như thuốc nổ, việc phá<br />
hủy ràng ngập mặn ven bờ, việc phát triển du<br />
lịch không kiểm soát đe dọa đến môi trường<br />
đảo, đã chứng tỏ việc quản lý chưa hiệu quả.<br />
KBTB Hòn Mun cũng đang phải giải quyết<br />
những vấn đề về khai thác trái phép và quá mức<br />
nguồn lợi, ô nhiễm từ du lịch và các hoạt động<br />
trên bờ (Nguồn: Hon Mun MPA project).<br />
Sau hai năm hoạt động, KBTB Rạn Trào có<br />
thể hài lòng với những thành quả bước đầu. Cơ<br />
chế quản lý có sự tham gia của cộng đồng đã<br />
chứng tỏ là công cụ hiệu quả để bảo vệ và tái<br />
tạo nguồn lợi rạn san hô ven bờ cũng như cải<br />
thiện chất lượng môi trường. Nhận thức của<br />
cộng đồng được nâng cao, hầu hết ngư dân<br />
chấp hành quy chế KBTB được đặt ra với sự<br />
đóng góp của cộng đồng. Theo sổ theo dõi của<br />
Nhóm hạt nhân, việc khai thác hủy diệt trong<br />
KBTB hầu như đã chấm dứt. Mật độ cá trong<br />
KBTB đã tăng đáng kể so với hai năm trước với<br />
<br />
56<br />
<br />
việc tăng về số lượng cá rạn cũng như sự xuất<br />
hiện của các đàn cá nổi, đặc biệt có cả cá heo<br />
xuất hiện như minh chứng cho lượng thức ăn<br />
dồi dào cho các loài cá ăn thịt. 73,1% các chủ<br />
nuôi tôm hùm lồng cũng cho rằng môi trường<br />
nước vùng nuôi đã được cải thiện và có tác<br />
động tích cực đến hoạt động nuôi của họ.<br />
Tuy nhiên, vẫn còn 3,6% trong số 137 ngư<br />
dân được phỏng vấn tỏ ra không hài lòng vì ngư<br />
trường của họ phải thay đổi, và một ít trong số<br />
họ vẫn tiếp tục khai thác trái phép trong KBTB.<br />
Nhóm hạt nhân không có đủ thẩm quyền chế tài<br />
để đối phó với các vi phạm. Mối liên hệ giữa<br />
Nhóm hạt nhân và Ban Quản lý ở cấp huyện còn<br />
lỏng lẻo dẫn đến việc giải quyết các vấn đề bức<br />
thiết còn chậm trễ.<br />
4. Kết luận và đề xuất ý kiến<br />
Như vậy, việc thiết lập các KBTB qui mô<br />
nhỏ như KBTB Rạn Trào là cần thiết ở cấp độ<br />
địa phương để bảo vệ và tái tạo các nguồn lợi<br />
đang bị đe dọa cũng như cải thiện môi trường<br />
ven bờ.<br />
Mô hình quản lý KBTB dựa vào cộng đồng<br />
đã bước đầu khẳng định tính hiệu quả.<br />
Tuy nhiên để đẩy mạnh hiệu quả hoạt động<br />
của KBTB Rạn Trào nhằm đạt đến các mục tiêu<br />
đề ra, một số kiến nghị sau được đề xuất:<br />
Đẩy mạnh việc tham gia của cộng đồng vào<br />
quá trình hoạt động KBTB.<br />
Tăng cường vai trò của Nhóm hạt nhân và<br />
chính quyền xã.<br />
Thiết lập một kế hoạch quản lý toàn diện<br />
các hoạt động của KBTB để đảm bảo việc bảo<br />
vệ và tái tạo nguồn lợi cũng như cải thiện môi<br />
trường thông qua đẩy mạnh việc phân vùng<br />
chức năng và giám sát đánh giá.<br />
Tài liệu tham khảo<br />
Alternative Livelihoods<br />
http://www.komodonationalpark.org/Alternative%<br />
20Livelihoods.htm<br />
[ Downloaded 6/12/2003]<br />
Bunce, L., Pomeroy, B., 2003. Socioeconomic<br />
monitoring guideline for coastal management in<br />
Southeast Asia: SocMon Sea<br />
Chou, L.M., Tuan, V.S., Reefs, P., Yeemin, T.,<br />
Cabanban, A., Suharsono and Kessna, I., 2002.<br />
Status of Southeast Asia coral reefs. Status of<br />
coral reefs of the world: 2002. Australian Institute<br />
of marine Science, 2002, p.129-130.<br />
Co-Management of Living Coastal Resources in<br />
ASEAN: Theory, Practice and Implications for<br />
Vietnam. Ministry of Fisheries, Hanoi, 1995.<br />
Fisheries Sector Strategy. Ministry of Fisheries,<br />
Hanoi, 1995.<br />
Guidelines for Marine Protected Areas<br />
<br />