Mô phỏng dài hạn diễn biến hình thái cửa Thuận An<br />
ThS. NGHIÊM TIẾN LAM<br />
Khoa Kỹ thuật Bờ biển, Trường đại học Thuỷ lợi<br />
Tóm tắt<br />
Vấn đề mô phỏng diễn biến hình thái dài hạn cửa triều có thể được giải quyết bằng mô hình toán học<br />
bán kinh nghiệm. Bài viết giới thiệu về mô hình ASMITA đại diện cho loại này và việc ứng dụng mô<br />
hình cho mô phỏng diễn biến cửa Thuận An sau trận lũ lịch sử 1999. Từ kết quả mô phỏng của mô hình<br />
có thể cung cấp thông tin dự báo về diễn biến hình thái của cửa và các đối tượng hình thái cận kề dưới<br />
các tác động của tự nhiên hay nhân tạo làm thay đổi chúng.<br />
1. Giới thiệu<br />
Cửa triều có thể được coi là một phần tử nằm trong một hệ thống bao gồm có cửa<br />
triều, đầm phá, bãi bồi triều xuống (ebb delta) và hai phần bờ biển liền kề. Diễn biến<br />
hình thái của cửa triều có mối liên hệ chặt chẽ với các biến đổi của các phần tử trong<br />
hệ thống. Tương ứng với mỗi điều kiện thuỷ động lực học thì hệ thống các phần tử<br />
này sẽ có một trạng thái cân bằng nhất định về mặt hình thái. Bất cứ sự phá vỡ cân<br />
bằng nào của một trong các phần tử trong hệ thống sẽ dẫn đến sự phá vỡ cân bằng và<br />
biến đổi của các phần tử còn lại trong hệ thống. Trạng thái cân bằng của cửa triều đạt<br />
được do sự cân bằng giữa năng lượng sóng với khuynh hướng lấp cửa và năng lượng<br />
thuỷ triều duy trì cửa mở. Ổn định và cân bằng của cửa triều được hiểu theo nghĩa<br />
tương đối. Không có cửa nào tồn tại “ổn định” hoặc trong trạng thái “cân bằng” một<br />
cách tuyệt đối trong khi có vận chuyển bùn cát dọc bờ đáng kể (de Vriend et al.,<br />
2000); cửa luôn được giả thiết là bị thay đổi về hình dạng trên mặt bằng cũng như là<br />
về diện tích và hình dạng mặt cắt ngang.<br />
Trong trận lũ lịch sử tháng 11 năm 1999 ở Miền Trung, cửa Thuận An được mở rộng<br />
cùng với những thay đổi lớn về mặt hình thái của bãi bồi triều xuống và sự xói lở bờ<br />
biển cận kề. Trận lũ này đã phá vỡ trạng thái cân bằng hình thái của hệ thống. Hệ<br />
thống sẽ phải mất một thời gian nhất định để tái lập lại trạng thái cân bằng mới. Khảo<br />
sát và dự báo diễn biến hình thái của các cửa có thể thực hiện được nhờ vào sự hỗ trợ<br />
của mô hình toán. Tuy nhiên việc dự báo dài hạn diễn biến hình thái của hệ thống cửa<br />
triều trong thời gian vài chục năm liên tục không thể thực hiện được nếu sử dụng các<br />
mô hình thuỷ động lực học dựa trên mô tả các quá trình vật lý diễn ra trong hệ thống.<br />
Khi đó chúng ta cần phải sử dụng đến một lớp mô hình toán khác đó là các mô hình<br />
bán kinh nghiệm mà một trong số đó là mô hình ASMITA (Stive et al., 1998).<br />
ASMITA là viết tắt của Aggregated Scale Morphological Interaction between a Tidal<br />
basin and the Adjacent coast – Mô hình mô tả tương tác hình thái qui mô tổng thể<br />
giữa thuỷ vực triều và bờ biển liền kề. Đây là một mô hình toán học bán kinh nghiệm<br />
dùng cho dự báo dài hạn (vài thập kỷ) sự phát triển hình thái của các cửa sông và các<br />
đầm phá thuỷ triều, dưới ảnh hưởng của các quá trình tự nhiên và sự can thiệp của con<br />
người. Mô hình này một phần dựa vào các mô tả quá trình và một phần dựa vào các<br />
quan hệ kinh nghiệm cho nên nó kết hợp các ưu điểm của các mô hình loại động lực<br />
học và các ưu điểm của các mô hình kinh nghiệm.<br />
Mô hình đã được ứng dụng thành công nhiều nơi trên thế giới để giải quyết các vấn đề<br />
dự báo diễn biến hình thái của các hệ thống cửa triều do dưới tác động dâng lên của<br />
mực nước biển, hay dưới ảnh hưởng của các tác động con người như là thu hẹp diện<br />
tích đầm phá do khai hoang, nạo vét luồng lạch mà vẫn chưa có thể dự báo được bằng<br />
các mô hình động lực học.<br />
<br />
2. Các giả thiết và nguyên lý cơ bản của mô hình<br />
<br />
<br />
<br />
1<br />
Giả thiết quan trọng nhất được sử dụng trong nhận thức của mô hình là một trạng thái<br />
cân bằng có thể được xác lập cho mỗi phần tử hình thái của hệ thống phụ thuộc vào<br />
các điều kiện thuỷ động lực học. Với các hệ thống vực triều thường tồn tại các quan<br />
hệ kinh nghiệm và chúng ta có thể dựa trên các mối quan hệ kinh nghiệm đó để xác<br />
định trạng thái cân bằng hình thái cho mỗi phần tử của hệ thống (de Vriend et al.,<br />
2000).<br />
<br />
Mô hình dựa trên triết lý cơ bản như sau. Nếu tất cả các phần tử trong hệ thống hình<br />
thái là cân bằng, thì sẽ không có sự tích tụ bùn cát hay nước ở bất cứ chỗ nào trong hệ<br />
thống. Nếu coi bùn cát được chuyển tải chủ yếu do lơ lửng thì trường lưu lượng bùn<br />
cát sẽ gần tỷ lệ với vận tốc dòng chảy. Tỷ lệ giữa lưu lượng bùn cát và vận tốc dòng<br />
chảy có thể được coi như là nồng độ bùn cát và được gọi là nồng độ bùn cát cân bằng<br />
tổng thể cE. Với mỗi phần tử trong hệ thống sẽ có một nồng độ bùn cát cân bằng cục<br />
bộ ce. Do vậy nồng độ bùn cát cân bằng cục bộ của một phần tử ce = cE nếu phần tử ở<br />
trong trạng thái cân bằng hình thái, ce > cE khi có xu hướng xói mòn (ví dụ diện tích<br />
mặt cắt ngang của lòng dẫn nhỏ hơn giá trị cân bằng), và ce < cE khi có xu hướng bồi<br />
lắng. Các biến đổi hình thái xuất hiện khi nồng độ bùn cát cục bộ thiên lệch so với giá<br />
trị cân bằng cục bộ của nó. Xói mòn xảy ra khi nồng độ bùn cát nhỏ hơn giá trị cân<br />
bằng và bồi lắng xảy ra khi nồng độ bùn cát lớn hơn giá trị cân bằng của nó.<br />
<br />
Nguyên lý cơ bản của mô hình có thể tóm tắt như sau<br />
<br />
a) Trong mỗi bước thời gian, có thể xác lập được một trạng thái cân bằng hình thái<br />
nếu đã biết các điều kiện thuỷ động lực học.<br />
<br />
b) Lượng vận chuyển bùn cát thực tế có thể được mô tả bằng phương trình đối lưu-<br />
khuyếch tán dựa vào trường dòng chảy dư. Khi toàn bộ hệ thống đạt cân bằng thì<br />
toàn bộ hệ thống sẽ đạt đến được nồng độ bùn cát cân bằng tổng thể.<br />
<br />
c) Khi một khu vực nào đó bị mất cân bằng, thì sẽ xuất hiện khuynh hướng bồi lắng<br />
hoặc xói mòn. Điều này dẫn đến việc điều chỉnh nồng độ cân bằng một cách cục<br />
bộ tại khu vực đó.<br />
<br />
d) Sự trao đổi bùn cát giữa thể nước và đáy cũng là sự thay đổi hình thái, nó được<br />
xác định bởi sự khác biệt giữa nồng độ thực tế cục bộ và nồng độ cân bằng cục bộ.<br />
Khi nồng độ bùn cát thực tế lớn hơn nồng độ cân bằng cục bộ: c > ce thì bồi lắng<br />
sẽ xảy ra làm tăng thể tích cát của đáy. Ngược lại, khi nồng độ bùn cát thực tế nhỏ<br />
hơn nồng độ cân bằng cục bộ: c < ce thì đáy có khả năng bị xói mòn làm giảm thể<br />
tích cát của đáy.<br />
3. Các phương trình cơ bản<br />
Xem xét một hệ thống bao gồm các phần tử hình thái được nối với nhau. Với mỗi<br />
phần tử ngoài một biến mô tả trạng thái hình thái, ví dụ là thể tích ướt V, còn có các<br />
biến của nồng độ bùn cát thực tế c và nồng độ cân bằng ce. Khi đó đối với mỗi phần<br />
tử có thể viết các phương trình sau:<br />
<br />
a. Phương trình trạng thái cân bằng<br />
<br />
Phương trình mô tả trạng thái cân bằng của mỗi phần tử thể hiện qua thể tích cân bằng<br />
Ve là hàm số phụ thuộc vào điều kiện thuỷ động lực học:<br />
<br />
<br />
<br />
2<br />
Ve = f(các thông số thuỷ động lực học) (1)<br />
<br />
b. Phương trình nồng độ cân bằng<br />
<br />
Nồng độ cân bằng cục bộ ce của mỗi phần tử phụ thuộc vào nồng độ cân bằng tổng<br />
thể cE, biến trạng thái V (thể tích khô hay ướt thực tế) và thể tích cân bằng Ve<br />
n<br />
V <br />
ce c E e (2)<br />
V <br />
<br />
Với n là hằng số.<br />
<br />
c. Phương trình cân bằng vật chất trong pha lỏng<br />
<br />
Phương trình mô tả cân bằng vật chất trong mỗi phần tử: trao đổi bùn cát của một<br />
phần tử với các phần tử xung quanh cân bằng với trao đổi bùn cát giữa thể nước và<br />
đáy của phần tử đó:<br />
<br />
T i ws Ac e c (3)<br />
i<br />
<br />
<br />
Trong đó: Ti là các chuyển tải ra dọc theo các biên của phần tử, A là diện tích nằm<br />
ngang của phần tử, ws là vận tốc trao đổi giữa nước và đáy.<br />
<br />
d. Phương trình biến đổi hình thái<br />
<br />
Phương trình diễn tả sự thay đổi thể tích hình thái của một phần tử là do các nguyên<br />
nhân xói hay bồi ở đáy, nạo vét và hiện tượng thay đổi của mực nước biển bình quân:<br />
<br />
dV d<br />
ws Ace c I A (4)<br />
dt dt<br />
<br />
Trong đó: I là lượng nạo vét hay lấp đổ (âm nếu nạo vét, dương nếu lấp đổ), là mực<br />
nước biển.<br />
<br />
Chuyển tải trong phương trình (3) được xác định cho mỗi liên kết giữa các cặp phần<br />
tử. Nó bao gồm một phần khuyếch tán và một phần đối lưu nhờ dòng dư:<br />
<br />
1<br />
T c1 c 2 Q c1 c2 (5)<br />
2<br />
<br />
Trong đó: T là chuyển tải từ phần tử 1 sang phần tử 2, là hệ số trao đổi ngang giữa<br />
hai phần tử do phân tán, Q là lưu lượng dòng dư từ phần tử 1 sang phần tử 2.<br />
<br />
Tại biên hở chuyển tải được xác định bằng cách tương tự. Nồng độ bên ngoài vùng<br />
mô hình phải được cho như là điều kiện biên và nó thường được giả thiết là bằng với<br />
nồng độ cân bằng tổng thể. Tại biên kín chuyển tải bằng 0.<br />
4. Ứng dụng mô hình cho cửa Thuận An<br />
BIỂN ĐÔNG<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
BÃI BỒI<br />
BỜ BIỂN 2 TRIỀU RÚT BỜ BIỂN 1 3<br />
Hình 1. Mô hình cửa Thuận An<br />
<br />
Với trường hợp của cửa Thuận An, mô hình được lựa chọn bao gồm 5 phần tử như<br />
sau: toàn bộ bãi bồi triều xuống (ebb delta); toàn bộ vùng bãi triều của đầm phá (tidal<br />
flats - phần đầm phá nằm trong khoảng dao động của thuỷ triều); toàn bộ thể tích lòng<br />
dẫn của đầm phá (tidal channel); bờ biển liền kề phía đông nam cửa; và một phần tử<br />
cho bờ biển cận kề ở phía tây bắc cửa. Giả thiết là trao đổi bùn cát chỉ xuất hiện giữa<br />
các phần: bãi triều và lòng dẫn trong đầm phá, giữa lòng dẫn trong đầm phá và bãi bồi<br />
triều xuống, giữa các phần bờ biển cận kề và bãi bồi triều xuống, và giữa các bờ biển<br />
và các biên liền đó. Sự trao đổi bùn cát với các vùng xung quanh bao gồm phần thềm<br />
lục địa ngoài khơi và các dải bờ biển ở xa hơn được giả thiết là không đóng vai trò gì<br />
trong các tương tác động lực học hình thái trong phạm vi được xem xét. Sơ đồ mô<br />
hình hoá của cửa Thuận An như trên Hình 1. Các biến trạng thái cho các phần tử của<br />
hệ thống được chọn như sau:<br />
<br />
biến trạng thái của bãi bồi triều xuống là tổng thể tích của bãi Vd phía trên so với<br />
đáy biển tưởng tượng trong trường hợp không có cửa triều (thể tích cát);<br />
<br />
biến trạng thái của bãi triều là tổng thể tích của bãi Vf giữa MLW và MHW (thể<br />
tích cát); với MLW là mực nước chân triều bình quân và MHW là mực nước đỉnh<br />
triều bình quân.<br />
<br />
biến trạng thái của lòng dẫn là tổng thể tích của lòng dẫn dưới MLW Vc (thể tích<br />
nước);<br />
<br />
biến trạng thái của hai phần tử bờ biển là thể tích dưới MSL và trên một đường<br />
đẳng sâu nhất định Vc1 và Vc2 (thể tích nước); với MSL là mực nước biển bình<br />
quân.<br />
<br />
Các thông số thuỷ động lực học để xác định trạng thái cân bằng được chọn là độ cao<br />
thuỷ triều (H) và lăng trụ triều (P), khi đó (1) trở thành:<br />
<br />
Ve = f(P,H) (6)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
4<br />
Nếu giả thiết kích thước của đầm phá được coi là đủ nhỏ so với chiều dài của sóng<br />
triều để sự biến đổi theo không gian của mực nước trong đầm phá được bỏ qua thì<br />
lăng trụ triều có thể xác định theo:<br />
<br />
P = H·Ab - Vf (7)<br />
<br />
với Ab là tổng diện tích của đầm phá.<br />
<br />
Khi đó các thể tích cân bằng của các phần tử được xác định như sau:<br />
<br />
thể tích cân bằng của bãi triều giữa MLW và MHW (Eysink, 1990):<br />
<br />
V fe f Ab H (8)<br />
<br />
thể tích cân bằng của phần lòng dẫn dưới MLW được sửa đổi từ quan hệ của<br />
Eysink (1991) với một lượng bổ sung của dòng chảy từ các sông thượng lưu đổ về<br />
Vinf vì lượng dòng chảy nhập lưu từ các sông cũng đóng góp cùng với thuỷ triều<br />
để duy trì cho lòng dẫn:<br />
<br />
Vce c P Vinf <br />
1.5<br />
(9)<br />
<br />
thể tích cân bằng của bãi bồi triều xuống (Walton và Adams, 1976; Biegel, 1993):<br />
<br />
Vde d P 1.23 (10)<br />
<br />
Các hệ số f,c, d, và các nồng độ cân bằng cE cùng với số mũ n của các phần tử<br />
được coi như là các thông số của mô hình và được xác định thông qua quá trình hiệu<br />
chỉnh mô hình.<br />
<br />
Dựa vào các số liệu địa hình của đầm phá khảo sát năm 2000 và số liệu khảo sát địa<br />
hình của khu vực cửa Thuận An và vùng bờ biển lân cận do các cơ quan khác nhau<br />
thực hiện trong các năm 1977, 1999, 2000, 2001 và 2002 mô hình đã được hiệu chỉnh<br />
để xác định các thông số. Trong đó số liệu trước trận lũ lịch sử tháng 11 năm 1999<br />
được dùng để xác định trạng thái cân bằng của các phần tử trong hệ thống. Trong quá<br />
trình hiệu chỉnh mô hình, lưu lượng dòng chảy từ các sông thượng lưu được lấy bằng<br />
hằng số là giá trị dòng chảy năm bình quân. Kết quả diễn biến hình thái của các phần<br />
tử trong hệ thống trong trường hợp này được trình bày trong Hình 2. Trong trường<br />
hợp sử dụng phân bố lưu lượng dòng chảy bình quân tháng cho lượng nhập lưu ta có<br />
diễn biến hình thái thể hiện qua sự thay đổi thể tích theo thời gian của các phần tử như<br />
trong Hình 3.<br />
<br />
Qua Hình 2 và Hình 3 cho thấy rằng do hậu quả của trận lũ lịch sử năm 1999 cửa<br />
Thuận An bị đào sâu và mở rộng. Rất nhiều bùn cát đã được vận chuyển ra bãi bồi<br />
triều xuống. Bờ biển cả hai phía của cửa đều bị xói lở mạnh. Sau trận lũ điều kiện<br />
thuỷ động lực học bị chi phối chủ yếu bởi sóng có khuynh hướng xói dần bãi bồi triều<br />
xuống và bồi lấp cả lòng dẫn cửa lẫn 2 phía bờ biển. Thời gian phản ứng của hệ thống<br />
để trở lại trạng thái cân bằng ngắn hơn 10 năm là khá nhanh, tương ứng với sự xói<br />
mòn nhanh bãi bồi triều xuống và bồi lấp nhanh chóng lòng dẫn và bãi biển. Sự bồi<br />
tạo bãi biển diễn ra nhanh chóng hơn so với bồi lấp lòng dẫn cửa. Điều này xảy ra là<br />
do các bãi biển và bãi bồi triều xuống nằm ở phía ngoài hứng chịu trực tiếp tác động<br />
<br />
<br />
5<br />
của sóng. Ngoài ra dòng triều và dòng chảy từ sông có tác dụng cố gắng duy trì độ mở<br />
của lòng dẫn cửa. Cũng vì lý do này mà tương ứng với sự thay đổi dòng chảy nhập<br />
lưu từ các sông theo các tháng khác nhau thì sự dao động thể tích của lòng dẫn bị ảnh<br />
hưởng mạnh nhất. Sự biến đổi của dòng chảy thượng nguồn ảnh hưởng ít hơn đổi với<br />
bãi bồi triều xuống và bãi triều. Phản ứng của các bờ biển đối với sự thay đổi của<br />
dòng chảy thượng nguồn từ các sông là rất nhỏ và hầu như không nhận biết được.<br />
<br />
18<br />
Bãi triều<br />
16 Lòng dẫn<br />
Bãi bồi triều rút<br />
14<br />
Bờ biển 1<br />
Thể tích (triệu m3)<br />
<br />
12 Bờ biển 2<br />
10 Thực đo<br />
Thực đo<br />
8<br />
6<br />
4<br />
2<br />
0<br />
01/01/00<br />
<br />
31/12/00<br />
<br />
31/12/01<br />
<br />
31/12/02<br />
<br />
31/12/03<br />
<br />
30/12/04<br />
<br />
30/12/05<br />
<br />
30/12/06<br />
<br />
30/12/07<br />
<br />
29/12/08<br />
<br />
29/12/09<br />
<br />
29/12/10<br />
<br />
29/12/11<br />
Thời gian<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 2. Diễn biến hình thái cửa Thuận An với dòng chảy thượng nguồn không thay đổi<br />
<br />
18<br />
Bãi triều<br />
16 Lòng dẫn<br />
Bãi bồi triều rút<br />
14<br />
Bờ biển 1<br />
Thể tích (triệu m3)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
12 Bờ biển 2<br />
10 Thực đo<br />
Thực đo<br />
8<br />
6<br />
4<br />
2<br />
0<br />
01/01/00<br />
<br />
31/12/00<br />
<br />
31/12/01<br />
<br />
31/12/02<br />
<br />
31/12/03<br />
<br />
30/12/04<br />
<br />
30/12/05<br />
<br />
30/12/06<br />
<br />
30/12/07<br />
<br />
29/12/08<br />
<br />
29/12/09<br />
<br />
29/12/10<br />
<br />
29/12/11<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Thời gian<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 3. Diễn biến hình thái cửa Thuận An với phân bố bình quân tháng của dòng chảy thượng nguồn<br />
<br />
5. Kết luận<br />
<br />
Mô hình ASMITA đã được sử dụng để nghiên cứu và dự báo dài hạn nhiều năm cho<br />
cửa Thuận An sau khi bị ảnh hưởng bởi trận lũ lịch sử năm 1999. Qua mô hình ta có<br />
thể nghiên cứu phản ứng về mặt hình thái của từng phần tử trong hệ thống và khoảng<br />
thời gian để chúng trở lại trạng thái cân bằng. Mặc dù mô hình không cho kết quả chi<br />
tiết về hình thái của từng phần tử trong hệ thống nhưng chúng ta cũng có thể ứng<br />
dụng mô hình để nghiên cứu và dự báo diễn biến hình thái của hệ thống một cách<br />
định lượng về thể tích bùn cát bồi hay xói đối với mỗi thành phần của hệ thống. Kết<br />
quả của mô hình có thể giúp ích cho người quản lý ra quyết định đối với các tác động<br />
đến cửa bao gồm các ảnh hưởng của tự nhiên như sự dâng lên của mực nước biển,<br />
<br />
<br />
6<br />
thay đổi cửa do bão, lũ hay các hoạt động của con người như là nạo vét, khai thác cát<br />
sỏi, thu hẹp đầm phá để khai hoang hay nuôi trồng thuỷ sản.<br />
<br />
Tài liệu tham khảo<br />
De Vriend, H.J., Dronkers, J., Stive, M.J.F., Van Dongeren, A. and Wang, Z.B., 2000. Coastal inlets<br />
and Tidal basins, Lecture Notes, TU Delft.<br />
Eysink, W.D., 1990. Morphological response of tidal basins to change. Proc. 22nd Int. Conf. on Coastal<br />
Engineering. ASCE, Delft. Vol. 2, pp1948-1962.<br />
Eysink, W.D., 1991. Impact of sea-level rise on the morphology of the Wadden Sea in the scope of its<br />
ecological function. ISOS*2 Project, Phase 1, Inventory of available data and literature and<br />
recommendations on aspects to be studied. WL | Delft Hydraulics, Report H1300.<br />
Kragtwijk, N.G., Stive, M.J.F., Wang, Z.B., and Zitman, T.J., 2002. Morphological response of tidal<br />
basins to human interventions. Submitted to Coastal Engineering.<br />
Nortier, R.J., 2004. Morphodynamics of the Lister Tief Tidal Basin. MSc Thesis, TU Delft.<br />
Stive, M.J.F., Capobianco, M., Wang, Z.B., Ruol, P., and Buijsman, M.C., 1996. Morphodynamics of a<br />
tidal lagoon and the adjacent coast. Revised manuscript (version October 1997). Submitted for the<br />
Proceedings of the 8th International Biennial Conference on Physics of Estuaries and Coastal Seas, The<br />
Hague.<br />
Stive, M.J.F., Capobianco, M., Wang, Z.B., Ruol, P., and Buijsman, M.C., 1998. Morphodynamics of a<br />
tidal lagoon and the adjacent coast. In: J.Dronkers and M. Scheffers (eds.), Physics of estuaries and<br />
coastal seas, Balkema, Rotterdam, pp397-407.<br />
Van Goor, M.A., Stive, M.J.F., Wang, Z.B., and Zitman, T.J., 2001. Influence of relative sea level rise<br />
on coastal inlets and tidal basin. Proceedings of the 4th Conference on Coastal Dynamics, ASCE, Lund,<br />
Sweden, 2001, pp242-252.<br />
Walton, T.L., A dams, W.D., 1976. Capacity of Inlet outer bars to store sand. Proc. 15th Int. Conf. on<br />
Coastal Engineering. ASCE, Hawaii. pp1919-1937.<br />
Wang, Z.B., Karssen, B., Fokkink, R.J., and Langerak, A., 1998. A dynamic-empirical model for the<br />
long-term morphological development of estuaries. Proceedings of the 8th International Biennial<br />
Conference on Physics of Estuaries and Coastal Seas, The Hague, 1996, pp279-286.<br />
<br />
Wang, Z.B., Langerak, A., and Fokkink, R.J., 1999. Simulation of long-term morphological<br />
development in the Western Scheldt. IAHR symposium on River, Coastal and Estuarine<br />
Morphodynamics, Genova.<br />
<br />
Simulation of longterm morphological development<br />
in the Thuan An inlet<br />
Abstract<br />
Longterm morphological development in tidal inlets can be simulated using a semi-empirical model.<br />
The paper introduces ASMITA model as one of this model class and its application in simulation<br />
morphological development of the Thuan An inlet after the historical flood event of November 1999.<br />
Model results can be used as predictive information for morphological changes in the inlet and<br />
adjacent morphologic elements like tidal flats, ebb delta, and adjacent coasts under influences of<br />
nature or human interventions.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
7<br />