Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản <br />
<br />
Số 3/2015<br />
<br />
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br />
<br />
MỘT SỐ KÍ SINH TRÙNG GÂY BỆNH Ở TÔM CHÂN TRẮNG<br />
(Litopenaeus vannamei) NUÔI THƯƠNG PHẨM TẠI TỈNH NINH THUẬN<br />
PARASITIC PATHOGENS IN WHITELEG SHRIMP (Litopenaeus vannamei)<br />
FARMED IN NINH THUAN PROVINCE<br />
Nguyễn Thị Thùy Giang1, Phạm Quốc Hùng2<br />
Ngày nhận bài: 16/7/2015; Ngày phản biện thông qua: 06/9/2015; Ngày duyệt đăng: 15/9/2015<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Một số bệnh kí sinh trùng ở tôm chân trắng nuôi thương phẩm tại Ninh Thuận đã được nghiên cứu trong hai năm<br />
2013 - 2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy tôm chân trắng nuôi thương phẩm tại Ninh thuận thường bị nhiễm các các kí sinh<br />
trùng như: trùng tiêm mao bám ở trên cơ thể tôm (mang, vỏ, các phụ bộ) và vi bào tử trùng giống vi với Enterocytozoon<br />
hepatopenaei nội kí sinh trong gan tụy của tôm nuôi. Tỷ lệ cảm nhiễm trùng tiêm mao ở tôm nuôi tại Ninh thuận là khoảng<br />
30-60% nhưng cường độ cảm nhiễm thấp. Tôm nuôi bị nhiễm vi bào tử trùng ở gan tụy thường có bị chậm lớn hoặc chết<br />
rải rác. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hiện tượng đục cơ (bệnh tôm bông) ở tôm nuôi tại Ninh Thuận có có liên quan<br />
đến kí sinh trùng vi bào tử trùng. Một kết quả đáng ngạc nhiên là không tìm thấy sự có mặt của kí sinh trùng hai tế bào<br />
Gregarine ở đường ruột tôm chân trắng nuôi ao tại Ninh Thuận.<br />
Từ khóa: bệnh kí sinh trùng, tôm chân trắng, vi bào tử trùng, trùng loa kèn<br />
<br />
ABSTRACT<br />
Studies on Parasitic diseases on white leg shrimp (Litopenaeus vannamei) farmed in Ninh Thuan province were<br />
carried out during two years (2013-2014). The results showed that grow-out shrimp usually infected by parasites such as<br />
ciliates and microsporidia. Ciliates (Zoothamnium spp, Epistylis spp.) were found on the surface of the shrimp body, the<br />
gills and the appendages with the infection rate was about 30-60% but the intensity of infection was very low. Meanwhile,<br />
Enterocytozoon hepatopenaei liked microsporida were observed in the hepatopancreas of shrimps. The infected shrimp<br />
often had a slow growth rate or mortality. Microsporidia Enterocytozoon hepatopenaei was not detected on shrimp with<br />
clinical sign of milky muscle. Surprisingly, no detection of sporozoa Gregarine in shrimp’s gut.<br />
Keywords: parasitic disease, Litopenaeus vannamei, Enterocytozoon hepatopenaei, Ciliates<br />
<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Tôm chân trắng (L. vannamei) là một đối tượng<br />
nuôi trồng thủy sản chủ lực của Việt Nam. Tuy<br />
nhiên, dịch bệnh và những tổn thất do dịch bệnh<br />
vẫn luôn là nỗi lo hàng đầu của người nuôi tôm.<br />
Hàng năm, các dịch bệnh xảy ra vẫn gây ra thiệt hại<br />
hàng tỷ đồng cho ngành nuôi tôm Việt Nam. Bệnh kí<br />
sinh trùng ở tôm nuôi cũng là một mối nguy hại cho<br />
người nuôi tôm với khả năng gây chết và chậm lớn<br />
ở tôm. Đề tài này được thực hiện nhằm tiến hành<br />
những nghiên cứu về một số bệnh kí sinh trùng<br />
thường gặp ở tôm chân trắng nuôi thương phẩm<br />
<br />
1<br />
<br />
tại Ninh thuận: bệnh do ngoại kí sinh trùng, bệnh do<br />
vi bào tử trùng, bệnh do trùng hai tế bào… Bên cạnh<br />
thông tin về dấu hiệu bệnh lý, mức độ cảm nhiễm,<br />
chúng tôi còn nghiên cứu những biến dổi bệnh lý do<br />
kí sinh trùng gây ra ở mô và tế bào của tôm chân<br />
trắng bị nhiễm kí sinh trùng.<br />
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
1. Vật liệu nghiên cứu.<br />
Những bệnh do ký sinh trùng ký sinh ở tôm he<br />
thường liên quan tới các dấu hiệu như đục trắng<br />
<br />
ThS. Nguyễn Thị Thùy Giang, 2 TS. Phạm Quốc Hùng: Viện Nuôi trồng thủy sản – Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
14 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản <br />
cơ hay các nội quan, gây chậm lớn, giảm tỷ lệ<br />
sống (bệnh do vi bào tử Microsporidia, bệnh do<br />
trùng hai tế bào-Gregarine hay do bào tử trùng<br />
Haplosporidia…). Do vậy, vật liệu dùng cho nghiên<br />
cứu này là các mẫu tôm chân trắng bị đục cơ, tôm<br />
bị chậm lớn còi cọc được thu ở các vùng nuôi tôm<br />
thuộc tỉnh Ninh Thuận.<br />
25 mẫu tôm (25-30 con/mẫu) (từ 30 ngày tuổi<br />
đến trước thu hoạch) có dấu hiệu còi cọc chậm<br />
lớn đã được thu. 18 mẫu tôm chân trắng có dấu<br />
hiệu đục cơ (25-30 con/mẫu) đã được thu từ các<br />
ao nuôi ở Ninh Thuận. Ngoài ra cũng có 15 mẫu<br />
tôm khỏe chưa bộc lộ dấu hiệu bệnh cũng được<br />
thu để làm đối chứng so sánh trong nghiên cứu<br />
bệnh lý.<br />
<br />
Số 3/2015<br />
2. Phương pháp nghiên cứu<br />
2.1. Quan sát và mô tả các dấu hiệu chính của bệnh<br />
Các dấu hiệu chính bộc lộ ở bên ngoài cơ thể<br />
và trên các nội quan như mang, ruột, gan tụy, cơ<br />
của các mẫu tôm bị bệnh được quan sát trực tiếp<br />
bằng mắt thường, mô tả và xác định tần suất xuất<br />
hiện của các dạng bệnh lý trên các mẫu tôm bệnh<br />
và tôm khỏe. Ngoài ra, các hình ảnh chụp tôm bệnh<br />
và tôm khỏe cũng trợ giúp minh chứng cho sự mô<br />
tả được cụ thể và rõ ràng.<br />
2.2. Phương pháp mô bệnh học<br />
Phương pháp mô bệnh học ứng dụng<br />
cho nghiên cứu ở tôm he được giới thiệu bởi<br />
Lightner (1996) đã được sử dụng cho nghiên cứu<br />
này. Phương pháp nghiên cứu này bao gồm các<br />
bước thực hiện được thể hiện ở hình 1.<br />
<br />
Hình 1. Quy trình làm các tiêu bản mô bệnh học của tôm he<br />
<br />
2.2.1. Cố định mẫu dùng cho nghiên cứu mô bệnh học<br />
Cố định mẫu: 2ml dung dịch Davidson (gồm:<br />
330 ml cồn etylic 95% +220 ml formol 40%+ 115ml<br />
acid acetic đậm đặc + 335ml nước cất) được tiêm<br />
vào giáp đầu ngực của mỗi con tôm. Sau đó ngâm<br />
toàn bộ cơ thể tôm trong dung dịch Davidson với tỷ<br />
lệ về thể tích là 1/10. Thời gian cố định mẫu trong<br />
dung dịch cố định từ 24-36h tùy theo kích thước của<br />
tôm. Sau thời gian cố định, chuyển mẫu sang cồn<br />
etylíc 70% để lưu giữ ở nhiệt độ phòng và thường<br />
xuyên thay cồn mới nếu mầu của dung dịch cố định<br />
bị thay đổi. <br />
2.2.2. Xử lý, đúc và cắt mẫu<br />
Các mẫu sau khi lấy ra khỏi dung dịch cồn<br />
cố định, được làm mất nước bằng ngâm mẫu lần<br />
lượt vào các dung dịch cồn etylíc với nồng độ tăng<br />
dần (50%, 70%, 95% và 100%), mỗi thang cồn giữ<br />
khoảng 30-60 phút. Sau đó mẫu được làm cho mềm<br />
và trong bằng cách ngâm trong methyl salicylate<br />
nguyên chất với thời gian 12-24 giờ. Thấm mẫu<br />
trong paraphin nóng chảy ở nhiệt độ 650C trong thời<br />
gian 6-8h. Cuối cùng đúc mẫu trong paraphin tạo<br />
thành khối hình hộp. Cắt mẫu bằng máy microtom<br />
thành các lát có độ dày 5-6µm và đặt các lát mô này<br />
<br />
lên trên bề mặt 1 thau nước ấm có nhiệt độ 45-500C,<br />
trong nước có bổ sung albumin từ lòng trắng của<br />
1-2 quả trứng gà.<br />
2.2.3. Nhuộm các tiêu bản mô bệnh học<br />
Dùng lam sạch để vớt các lát cắt của mẫu (dày<br />
5-6µ) nổi trên mặt nồi nước ấm (450C). Đặt lam mẫu<br />
này lên máy sấy ở nhiệt độ 45-600C trong 1-4h (tùy<br />
theo nhiệt độ). Khi các lam mẫu đã khô, quá trình<br />
nhuộm các lam mẫu được thực hiện như sau: làm<br />
mất paraphin bằng cách nhúng các lam mẫu trong<br />
xilen 2 lần, 5 phút cho mỗi lần. Tiếp theo mẫu được<br />
làm no nước bằng cách nhúng trong cồn etanol<br />
với các nồng độ giảm dần (100%, 90%, 70% và<br />
50%), mỗi mức cồn giữ trong 2-3 phút. Sau khi đã<br />
no nước, các lam mẫu được nhúng với nước vòi<br />
3-6 lần rồi nhuộm với Hematoxylin trong thời gian<br />
4-6 phút, sau đó lấy mẫu ra rửa với nước vòi trong<br />
thời gian 4-6 phút trước khi nhuộm lần 2 với Eosine<br />
trong 2 phút. Tiếp tục làm mất nước của mẫu bằng<br />
cách nhúng 10 lần các lam mẫu trong dung dịch<br />
cồn với nồng độ tăng dần (50%, 70%, 90%, 95% và<br />
100%). Cuối cùng làm trong các lam chứa các lắt<br />
cắt mô bằng cách nhúng trong xilen 2 lần, 2-3 phút<br />
cho 1 lần. Để lam mẫu khô tự nhiên trong không khí,<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 15<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản <br />
đậy bằng lamel với keo dán Bomcanada. Các tiêu<br />
bản mô bệnh học được quan sát dưới kính hiển vi<br />
quang học và xác định những biến đổi trong tổ chức<br />
dựa vào sự so sánh với mẫu làm từ tôm khỏe.<br />
2.3. Làm các mẫu mô ép hoặc mô phết để kiểm tra<br />
nhanh ký sinh trùng<br />
Phương pháp dùng các mẫu ép hoặc phết mô<br />
gan tụy, mẫu ép mang hoặc các phần phụ của tôm<br />
để kiểm tra phát hiện nhanh các loại ký sinh trùng<br />
ký sinh ở mang, gan tụy hay bám trên các phần phụ<br />
của tôm. Với các tiêu bản ép gan tụy được nhuộm<br />
với xanh malachite 0,5%, các tiêu bản phết mô gan<br />
tụy có thể được nhuộm với giemsa.<br />
2.4. Phương pháp xử lý số liệu<br />
Số liệu được thống kê và xử lý bằng phần mềm<br />
Excel 2007<br />
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
1. Tôm chân trắng bị nhiễm tiêm mao trùng/<br />
trùng lông (Ciliata)<br />
Kết qủa kiểm tra 43 mẫu tôm đã chỉ ra rằng<br />
mang và các phần phụ của tôm chân trắng nuôi ao<br />
ở Ninh Thuận thường bị nhiễm một số tiêm mao<br />
trùng thuộc hai giống Zoothamnium và Epistylis. Tỷ<br />
lệ nhiễm tiêm mao trùng trong các ao giao động từ<br />
40-60% với cường độ cảm nhiễm rất thấp: thường<br />
chỉ gặp một vài quần thể của 2 loại tiêm mao trùng<br />
này ký sinh ở các phần phụ như chân bơi, chân bò,<br />
cá biệt có gặp ở mang của tôm. Kết quả phân tích<br />
cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thông kê<br />
về mức độ cảm nhiễm của ngoại kí sinh trùng giữa<br />
những con tôm bị bệnh và chết với những con tôm<br />
khỏe mạnh.<br />
Bảng 1. Tỷ lệ cảm nhiễm kí sinh trùng trên tôm<br />
chân trắng nuôi thương phẩm<br />
Nguồn gốc<br />
<br />
Số ao<br />
<br />
Số tôm<br />
đã kiểm tra<br />
<br />
Tỷ lệ cảm nhiễm<br />
KST (%)<br />
<br />
Phước Dinh<br />
<br />
5<br />
<br />
55<br />
<br />
51<br />
<br />
An Hải<br />
<br />
14<br />
<br />
162<br />
<br />
43<br />
<br />
Tri Hải<br />
<br />
5<br />
<br />
54<br />
<br />
73<br />
<br />
Tân Hải<br />
<br />
15<br />
<br />
157<br />
<br />
67<br />
<br />
Hội Hải<br />
<br />
4<br />
<br />
50<br />
<br />
69<br />
<br />
å<br />
<br />
43<br />
<br />
478<br />
<br />
TB: 60.6%<br />
<br />
Các mẫu tôm thu có thời gian nuôi khoảng 30 ÷<br />
60 ngày. Trong đó, tỷ lệ cảm nhiễm kí sinh trùng ở<br />
tôm chân trắng nuôi tại xã Tri Hải là cao nhất (73%).<br />
Ngược lại, tỷ lệ nhiễm kí sinh trùng ở tôm chân trắng<br />
nuôi tại hai xã An Hải và Phước Dinh là thấp nhất<br />
(43-51%) so với các vùng nuôi khác. Nguyên nhân<br />
<br />
16 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Số 3/2015<br />
sự khác biệt trên có thể là do quy trình kĩ thuật nuôi,<br />
sự chăm sóc quản lý sức khỏe tôm trong quá trình<br />
nuôi, xử lý môi trường nước, sử dụng hóa chất,<br />
thuốc kháng sinh trong quy trình nuôi và chất liệu<br />
đáy của các ao nuôi ở từng vùng nuôi. Một điều<br />
quan trọng được ghi nhận là tỷ lệ nhiễm và cường<br />
độ nhiễm cao hơn thường bắt gặp ở những hộ nuôi<br />
thiếu hệ thống ao xử lý lắng lọc. Điều này cho thấy<br />
rằng sự tăng lên về số lượng của các ngoại kí sinh<br />
trùng trong ao nuôi có liên quan đến chất lượng môi<br />
trường trong ao nuôi giàu hợp chất hữu cơ. Nhiều<br />
nhà khoa học đã cho rằng sự xuất hiện và có mặt<br />
của các kí sinh trùng có thể là một cảnh báo về chất<br />
lượng môi trường không tốt (Blanar & CTV, 2009;<br />
Marcogliese, 2005;)<br />
Bảng 2. Thành phần và mức độ cảm nhiễm<br />
của các loài KST trên tôm chân trắng nuôi<br />
thương phẩm<br />
Mức độ cảm nhiễm<br />
Thành phần KST<br />
<br />
Epistylis sp.<br />
Zoothamnium sp.<br />
<br />
Cơ quan kí sinh TLCN<br />
(%)<br />
<br />
Chân<br />
<br />
35,67<br />
<br />
Thân, chân,<br />
64,33<br />
mang<br />
<br />
CĐCN<br />
<br />
min - max<br />
TB<br />
<br />
1-3<br />
2,6<br />
5 - 17<br />
5,8<br />
<br />
Có sự khác biệt khá lớn về tỷ lệ và cường độ<br />
nhiễm tiêm mao trùng ở tôm chân trắng so với các<br />
kết quả tương tự thu được ở tôm sú nuôi trong<br />
những nghiên cứu trước kia. Đỗ Thị Hòa & CTV<br />
(1996) đã từng thông báo về những trường hợp<br />
tôm sú (P. monodon) nuôi trong ao bị bẩn mình, đen<br />
mang và chết rải rác vào các buổi sáng do nhiễm<br />
trùng tiêm mao với tỷ lệ (70-100%) và cường độ<br />
nhiễm cao (>25). Sự khác biệt này có lẽ liên quan<br />
tới việc tôm sú thường bị nhiễm rất cao các loại<br />
virus như MBV (50-80%) hay HPV (30-50%) (Đỗ<br />
Thị Hòa & CTV, 1996; Lightner, 1996) gây ra hiện<br />
tượng còi cọc, chậm lớn. Hiện tường còi cọc chậm<br />
lớn của tôm sú, kết hợp với thời gian nuôi kéo dài<br />
(4-5 tháng) và trình độ quản lý với các sản phẩm<br />
hỗ trợ còn hạn chế đã dẫn tôm sú thời đó bị nhiễm<br />
trùng tiêm mao cao và có thể gây tác hại cho tôm.<br />
Những năm gần đây, tôm P. vannamei được nuôi<br />
trong ao đất với mật độ cao, 80-120 con/m2 nhưng<br />
chất lượng môi trường được quản lý khá tốt, thời<br />
gian nuôi tôm chân trắng ngắn hơn tôm sú, các<br />
hộ nuôi dùng các loại chế phẩm sinh học để quản<br />
lý chất lượng nước, nên đã hạn chế sự sinh sôi<br />
phát triển của các tiêm mao trùng, do vậy dù vẫn<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản <br />
gặp sự hiện diện của ký sinh trùng này ở tôm chân<br />
trắng tại Ninh Thuận, nhưng cường độ nhiễm thấp,<br />
hầu như không ảnh hưởng tới sức khỏe của tôm<br />
(hình 2).<br />
Mặc dù ít gây tác hại ở giai đoạn lớn, nhưng<br />
trùng loa kèn có khả năng gây chết hàng loạt ở giai<br />
đoạn ấu trùng và hậu ấu trùng tôm khi cảm nhiễm<br />
với cường độ cao (Lightner, 1996). Với số lượng<br />
<br />
Số 3/2015<br />
lớn các trại sản xuất tôm giống phân bố trong tỉnh<br />
Ninh Thuận, việc trùng loa kèn phân bố và tồn tại<br />
ở khu vực này cũng là một mối nguy hiểm tiềm<br />
tàng cần được quan tâm trong các chương trình<br />
phòng ngừa và kiểm soát bệnh của địa phương.<br />
Con giống sạch bệnh là một biện pháp hữu hiệu để<br />
phòng ngừa dịch bệnh và sản xuất thương phẩm<br />
thành công.<br />
<br />
Hình 2. Trùng tiêm mao cảm nhiễm ở tôm chân trắng nuôi tại Ninh Thuận<br />
<br />
1. Hình ảnh mô bệnh học của trùng tiêm mao (Zoothamnium sp) nhiễm ở trên cơ thể tôm (100x)<br />
2. Tiêm mao trùng bao phủ trên bề mặt và các phần phụ của tôm<br />
3. Hình dưới: Zoothamnium sp. kí sinh ở mang tôm<br />
<br />
2. Bệnh đục cơ ở tôm chân trắng không liên quan tới vi bào tử (Microsporida)<br />
<br />
Hình 3. Tôm chân trắng bị bệnh đục cơ và đặc điểm bệnh lý ở các vùng cơ vân bị đục mờ<br />
<br />
Hình trái: Tôm chân trắng bị đục cơ thu ở Ninh Thuận (ở trên là tôm khỏe, ở dưới là tôm bị đục cơ)<br />
Hình phải: Bệnh lý thể hiện ở vùng cơ vân bị đục mờ, nhưng không bị dập nát, không có mặt của vi bào tử, cũng không có các thể vùi của IMNV (mũi tên<br />
trắng chỉ vùng cơ bình thường, mũi tên đen chỉ vùng cơ bị đục mờ)<br />
<br />
Từ 18 mẫu tôm P. vannamei bị đục cơ thu tại<br />
Ninh Thuận, vùng cơ vân dọc phần bụng bị đục mờ<br />
đã được kiểm tra nhanh trên các tiêu bản ép tươi<br />
và tiêu bản mô bệnh học để phát hiện sự tồn tại của<br />
<br />
các vi bào tử. Tuy nhiên, tất cả các mẫu tôm bị đục<br />
cơ này đều không phát hiện sự có mặt của vi bào tử<br />
(hình 3). Bệnh lý thể hiện ở vùng cơ vân bị đục mờ<br />
cho thấy không bị dập nát, không có mặt của vi bào<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 17<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản <br />
tử, cũng không có các thể vùi của IMNV (hình 3, mũi<br />
tên trắng chỉ vùng cơ bình thường, mũi tên đen chỉ<br />
vùng cơ bị đục mờ). Kết quả mô bệnh học này có sự<br />
khác biệt với kết quả về được công bố bởi Prasertsri<br />
& CTV (2009) và Limsuwan & CTV (2008) về bệnh<br />
tôm đục cơ ở tôm chân trắng nuôi tại Thái lan. Hai<br />
nhóm tác giả này đều tìm thấy sự có mặt của vi<br />
bào tử trùng cũng như sự biến dạng của vùng cơ<br />
bị đục. Với kết quả nghiên cứu này, chúng tôi cho<br />
rằng hiện tượng tôm chân trắng bị đục cơ xảy ra ở<br />
một số ao nuôi tôm chân trắng tại Ninh Thuận không<br />
liên quan tới vi bào tử, cụ thể hơn rằng đây không<br />
phải bệnh tôm sữa như đã được giới thiệu bởi<br />
Lightner (1996), Limsuwan & CTV (2008) và<br />
Prasertsri & CTV (2009).<br />
<br />
Số 3/2015<br />
3. Tôm chậm lớn với vi bào tử cảm nhiễm ở gan tụy<br />
Nghiên cứu của chúng tôi trên 43 mẫu tôm chân<br />
trắng nuôi thương phẩm tại Ninh thuận cũng đã phát<br />
hiện được một loại vi bào tử tồn tại trong nguyên<br />
sinh chất các tế bào biểu mô hình ống của gan tụy<br />
ở một số mẫu tôm chân trắng nuôi ở Ninh Thuận bị<br />
chậm lớn hay bị hoại tử gan tụy. Tỷ lệ nhiễm khoảng<br />
15-20%. Trên các tiêu bản ép mô gan tụy tươi có<br />
nhuộm xanh Malachite 0,5%, khi các tế bào biểu<br />
mô gan tụy hình ống của vật chủ vỡ ra, phóng thích<br />
các vi bào tử ra ngoài tế bào được phát hiện rõ ràng<br />
dưới kính hiển vi quang học ở độ phóng đại >400X.<br />
Tuy nhiên, hiện tượng nhiễm vi bào tử loại này cũng<br />
mới chỉ gặp ở một số ít mẫu tôm bị chậm lớn hay bị<br />
hoại tử gan đưa vào xét nghiệm và trên một vài tiêu<br />
bản mô bệnh học được làm từ tôm chân trắng nuôi<br />
ở Ninh Thuận (hình 4).<br />
<br />
Hình 4. Vi bào tử tương tự như loài<br />
Enterocytozoon hepatopenaei nội ký sinh ở gan<br />
tụy của tôm chân trắng tại Ninh Thuận<br />
Hai hình trên: Vi bào tử ký sinh nội bào ở tiêu bản ép mô gan<br />
tụy tươi, nhuộm malachite green, độ phóng đại 400x (mũi tên)<br />
Hình dưới: Tiêu bản mô bệnh học của gan tụy tôm chân trắng<br />
đã bị teo nhỏ, chuyển màu trắng thể hiện các tế bào biểu mô<br />
gan tụy đã hoại tử, với nhiều hạt giống vi bào tử được phóng<br />
thích ra bên ngoài (H & E, 200x)<br />
<br />
Để đánh giá chính xác mức độ cảm nhiễm của<br />
loại vi bào tử ở gan tụy của tôm chân trắng nuôi ở<br />
Ninh Thuận , cần phải thu mẫu và phân tích thêm<br />
bằng PCR. Theo Tangprasittipap & CTV (2013) khi<br />
nghiên cứu ở tôm P.vannamei nuôi ở Thái Lan đã<br />
cho rằng, phương pháp mô bệnh học có thể không<br />
đánh giá được chính xác về tỷ lệ và cường độ<br />
nhiễm của vi bào tử này ở tôm. Các tác giả này<br />
đề nghị nên chẩn đoán bằng kỹ thuật PCR hoặc kỹ<br />
thuật lai tại chỗ (ISH), tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay<br />
vẫn chưa phát triển thành công cặp mồi đặc hiệu<br />
hay đầu dò DNA đặc hiệu cho ký sinh trùng này để<br />
có thể chẩn đoán bằng PCR hay ISH.<br />
<br />
18 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Ở Việt Nam, trong năm 2009-2010, đã có 2<br />
nhóm nhà khoa học thuộc Viện NCNTTS I đã phát<br />
hiện được một loài vi bào tử cảm nhiễm khá cao ở<br />
gan tụy của tôm sú P. monodon nuôi ở Hải Phòng,<br />
Nghệ An, Huế, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau<br />
bằng phương pháp làm các tiêu bản ép hay phết<br />
mô gan tụy tụy tươi, kết hợp với kính hiển vi điện<br />
tử truyền qua (TEM). Đặc biệt, các nhà khoa học<br />
này đã cho rằng, vi bào tử này có liên quan tới hội<br />
chứng phân trắng (white feces syndrome-WFS)<br />
ở tôm sú nuôi ở Việt Nam (Hà N.T.T & CTV, 2010).<br />
Năm 2009, Tourtip & CTV đã xác định được loài<br />
vi bào tử trùng Enterocytozoon hepatopenaei<br />
<br />