intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

75
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày nghiên cứu về mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và TC học sinh THCS, từ đó đề xuất các biện pháp nhằm ngăn ngừa, hỗ trợ học sinh ứng phó và vượt qua TC, nâng cao sức khoẻ tinh thần.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở

  1. HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2020-0037 Educational Sciences, 2020, Volume 65, Issue 4C, pp. 162-171 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn MỐI QUAN HỆ GIỮA PHONG CÁCH GIÁO DỤC CỦA CHA MẸ VÀ TRẦM CẢM Ở HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ Nguyễn Thị Ngọc Bé*, Nguyễn Thị Lan Oanh, Phạm Thị Thuý Hằng, Mai Thị Thanh Thuỷ và Nguyễn Thị Hà Khoa Tâm lí - Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế Tóm tắt. Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và trầm cảm (TC) ở học sinh trung học cơ sở (THCS). Tổng số 387 trường THCS Phan Tây Hồ và trường THCS Nguyễn Văn Trỗi huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam tham gia vào nghiên cứu thông qua việc trả lời trắc nghiệm TC, Lo âu và Stress (DASS – 21), trắc nghiệm Ký ức của tôi về sự giáo dục (s-EMBU) và phỏng vấn sâu. Kết quả nghiên cứu cho thấy 41,1% học sinh mắc TC; Có mối tương quan thuận giữa phong cách giáo dục của cha mẹ “từ chối” và “bảo vệ thái quá” với TC của học sinh THCS. Ngược lại, phong cách giáo dục của cha mẹ ấm áp tỉ lệ nghịch với TC. Phong cách giáo dục của cha mẹ “từ chối” và “bảo vệ thái quá” giải thích đến 20,3% sự biến thiên của điểm số TC. Kết quả nghiên cứu là cơ sở để đề xuất các biện pháp phù hợp trong việc phòng ngừa và hỗ trợ tâm lí cho học sinh THCS. Từ khóa: trầm cảm, học sinh THCS, phong cách giáo dục của cha mẹ. 1. Mở đầu Trầm cảm (TC) là một rối loạn tâm thần thường gặp, đặc trưng bởi sự buồn chán, mất hứng thú hoặc niềm vui, ngủ không yên giấc hoặc chán ăn, cảm giác mệt mỏi và kém tập trung. TC có thể kéo dài hoặc tái phát, làm suy giảm đáng kể khả năng làm việc, học tập hoặc đương đầu với cuộc sống hằng ngày của một cá nhân. Ở dạng nặng nhất, TC có thể dẫn đến tự tử. Nếu nhẹ, người bị TC có thể được chữa trị không cần dùng thuốc. Mức độ vừa và nặng, người bệnh cần được hỗ trợ điều trị bằng thuốc kết hợp với liệu pháp tâm lí [1]. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), ước tính đến năm 2030, trầm cảm sẽ là nguyên nhân đứng thứ nhất về gánh nặng bệnh tật cho y tế toàn cầu [2]. Tỉ lệ trầm cảm ở nữ giới cao gấp gần hai lần so với nam giới [3]. Dữ liệu dịch tễ học cho thấy tỉ lệ TC cao hơn ở Trung Đông, Bắc Phi, Nam Á và Mỹ so với các quốc gia khác. Ở Bắc Mỹ, xác suất TC trong bất kì khoảng thời gian nào trong năm là 3% đến 5% đối với nam và 8% đến 10% đối với nữ [4]. Thanh thiếu niên là nhóm tuổi có nguy cơ TC cao [5]. Ở Mỹ, tỉ lệ TC ở trẻ từ 13 đến 18 tuổi là 5,9% ở nữ và 4,6% ở nam. Tại bất kể thời điểm nào, ước tính trên thế giới có 1/13 trẻ vị thành niên mắc TC và gần 7% trẻ mắc TC có nỗ lực tự tử [6]. Ở Việt Nam một số nghiên cứu về TC ở trẻ vị thành niên đã cho thấy tỉ lệ khá cao học sinh mắc TC. Nghiên cứu của Đỗ Bích Ngọc (2017), cho thấy 60,8% học sinh THCS trên địa bàn Hà Nội có các biểu hiện TC ở các mức độ khác nhau [7]. Kết quả nghiên cứu thực trạng TC ở học sinh THPT của tác giả Trần Thị Mỹ Lương và Phan Diệu Mai (2019) ở địa bàn tỉnh Ninh Bình và thành phố Hà Nội cho thấy tỉ Ngày nhận bài: 1/2/2020. Ngày sửa bài: 17/3/2020. Ngày nhận đăng: 2/4/2020. Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Ngọc Bé. Địa chỉ e-mail: ngocbe190586@gmail.com 162
  2. Mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở lệ học sinh có biểu hiện TC gần 20% (N=708) [8]. Về mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và TC cũng là một vấn đề được các nhà nghiên cứu ở nước ngoài quan tâm. Theo tác giả Armine Vardanyan (2013), nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển rối loạn TC ở trẻ vị thành niên Mỹ bao gồm giới tính nữ, tình trạng hôn nhân của bố mẹ, mồ côi bố hoặc mẹ, trải nghiệm các thay đổi tiêu cực về tài chính của bố mẹ, có rắc rối với bạn cùng lớp, lòng tự trọng thấp, bất mãn với điều kiện nhà ở [6]. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng các kiểu nuôi dạy của cha mẹ, đặc trưng bởi sự chăm sóc thấp, sự từ chối và bảo vệ quá mức, có liên quan đến một loạt các rối loạn tâm lí [9]. Trong các nghiên cứu trước đây, người ta đã phát hiện ra rằng sự nuôi dưỡng của cha mẹ có ảnh hưởng quan trọng đến tâm lí của người lớn [10]. Ngoài ra, theo các nghiên cứu trước đây, phương pháp giáo dục “từ chối” và “bảo vệ quá mức” được xem là thái độ tiêu cực của phụ huynh và nó có liên quan đến nhiều rối loạn tâm thần bao gồm rối loạn nhân cách ranh giới và rối loạn nhân cách tự ái [11]. Một mối tương quan tích cực mạnh mẽ đã được tìm thấy giữa phong cách giáo dục của cha mẹ tiêu cực (“từ chối” và “bảo vệ quá mức”) và tâm lí người lớn [12]. Theo kết quả của một trong những nghiên cứu trước đó, mối quan hệ bền chặt đã được tìm thấy giữa sự “từ chối” và TC. Ngoài ra, phong cách giáo dục của cha mẹ “ấm áp” đã được tìm thấy như là một cách để bảo vệ trẻ chống lại TC trong tương lai [13]. Theo kết quả nghiên cứu trước đó, người ta đã phát hiện ra rằng phong cách giáo dục của cha mẹ (từ chối và bảo vệ quá mức) sẽ dẫn đến rối loạn lo âu, lo âu lan tỏa và lo âu phân li, đó là những đặc điểm cơ bản của rối loạn nhân cách ranh giới [14- 15]. Phong cách nuôi dạy con cái có thể được định nghĩa là nhận thức của con cái về hành vi của cha mẹ chúng trong suốt thời thơ ấu. Mặc dù, đã có khá nhiều đề tài của các nhà khoa học Việt Nam cũng như trên thế giới nghiên cứu về TC. Tuy nhiên việc nghiên cứu cụ thể trên lứa tuổi học sinh THCS vẫn còn rất hạn chế và chưa đi sâu vào phân tích mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và TC ở học sinh. Vì vậy, việc nghiên cứu về mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và TC học sinh THCS là rất cần thiết, từ đó đề xuất các biện pháp nhằm ngăn ngừa, hỗ trợ học sinh ứng phó và vượt qua TC, nâng cao sức khoẻ tinh thần. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Phương pháp nghiên cứu Để đánh giá mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và TC của học sinh THCS, chúng tôi đã sử dụng phương pháp trắc nghiệm, phương pháp phỏng vấn sâu và phương pháp quan sát. * Phương pháp trắc nghiệm: Các thang đo được sử dụng trong đề tài này bao gồm: Thang đánh giá Trầm cảm, lo âu và stress (DASS 21), Thang đo Ký ức của tôi về sự giáo dục (s-EMBU) - Thang đánh giá Trầm cảm, Lo âu và Stress (Depression Anxiety and Stress Scales, DASS-21) Năm 1995, Lovibond P. F và Lovibond S. H và của khoa Tâm lí học thuộc đại học New South Wales, Australia đã xây dựng thang đo đánh giá stress, lo âu và TC ký hiệu là DASS – 42. Bên cạnh thang đo DASS – 42 còn có một phiên bản rút gọn là DASS – 21 được xây dựng năm 1997 [16]. Tính phù hợp của các tiểu mục trong mỗi phần ở cả 2 phiên bản DASS – 42 và DASS – 21 đều cao. Các nội dung trong thang đo DASS - 21 không có ý nghĩa chẩn đoán phân biệt người bệnh như các triệu chứng trong các triệu chứng được đưa ra trong hướng dẫn phân loại bệnh tật quốc tế lần thứ 10 (ICD – 10), mà mục đích là đưa ra một thực trạng trong quần thể nghiên cứu, giúp cho người nghiên cứu có được cái nhìn tổng quát về tình trạng TC, lo âu và stress từ đó có những biện pháp giúp đỡ đối tượng nghiên cứu. Đây cũng là thang đo đồng thời đánh giá được ba loại rối loạn tâm thần phổ biến TC, lo âu và stress. Thang đo này cũng được sử dụng phổ biến khi đồng thời nghiên cứu cả ba loại rối loạn tâm thần, đặc biệt là ở học sinh. 163
  3. Nguyễn Thị Ngọc Bé*, Nguyễn Thị Lan Oanh, Phạm Thị Thuý Hằng, Mai Thị Thanh Thuỷ và Nguyễn Thị Hà Từ những lí do trên, thang đo DASS – 21 đã được chọn sử dụng cho nghiên cứu. Thang đo DASS – 21 gồm 21 item. Mỗi item được tính điểm từ 0 (“Không đúng với tôi chút nào cả”) đến 3 (“Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời gian là đúng”). Cách tính điểm: Điểm của Trầm cảm, Lo âu và Stress được tính bằng cách cộng điểm các đề mục thành phần và nhân hệ số 2. Mức độ Trầm cảm Lo âu Stress Bình thường 0–9 0–7 0 – 14 Nhẹ 10 – 13 8–9 15 – 18 Vừa 14 – 20 10 – 14 19 – 25 Nặng 21 – 27 15 – 19 26 – 33 Rất nặng ≥ 28 ≥ 20 ≥ 34 Cách đánh giá: Mức độ bình thường: vẫn còn trong giới hạn bình thường, không cần hỗ trợ; Mức độ nhẹ: có dấu hiệu khó khăn, chú ý thư giãn, giải trí nhẹ nhàng, theo dõi tình trạng nếu có biểu hiện tăng khó khăn thì tìm đến các dịch vụ chăm sóc hỗ trợ tâm lí; Mức độ vừa, nặng, rất nặng: tìm đến các dịch vụ tâm lí để được hỗ trợ kịp thời. * Thang đo Ký ức của tôi về sự giáo dục (Egna Minnen Betraffande Uppfostran- Short Form, s-EMBU) Thang đo s-EMBU (Viết tắt của tiếng Thuỵ Điển là Egna Minnen Betraffande Uppfostran- Short Form, tiếng Anh là My memories of upbringing), đây là thang đo rút gọn của EMBU ban đầu gồm 81 item [17]. Thang đo s-EMBU bao gồm 23 item được thiết kế để đánh giá nhận thức về hành vi giáo dục của cha mẹ được chia thành 3 tiểu mục, bao gồm Từ chối (7 item), Ấm áp (9 item), Bảo vệ thái quá (6 item). Mỗi item được đánh giá theo thang điểm từ 1 đến 4, tương ứng với 1 = không bao giờ, 2 = hiếm khi, 3 = thường xuyên, 4 = rất thường xuyên [18]. Thang đo này đã được chúng tôi khảo sát thử ở 100 học sinh THCS với độ tin cậy cao r = 0,89, với các câu thành phần đều thoả mãn điều kiện có trọng số lớn hơn 0,3, kết quả chỉ số KMO đạt tiêu chuẩn, phép thử Barlett với p < 0,05 và phương sai trích > 50%. Kết quả này chứng tỏ thang đo có tính hiệu lực và độ tin cậy đáp ứng yêu cầu nghiên cứu. Cách tính điểm: Điểm của 3 tiểu mục Từ chối, Ấm áp và Bảo vệ thái quá được tính bằng cách cộng điểm các đề mục thành phần. * Phương pháp phỏng vấn sâu: nhằm bổ sung thông tin và khẳng định về thực trạng TC, mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và TC ở học sinh THCS. Nội dung phỏng vấn sâu bao gồm: Thông tin nhân khẩu học, tình trạng TC, nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến TC, trong đó chú trọng đến phong cách giáo dục của cha mẹ đối với học sinh. Nghiên cứu được thực hiện ở 387 HS của 2 trường: Trường THCS Phan Tây Hồ và Trường THCS Nguyễn Văn Trỗi huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam, trong đó có 198 HS nam và 189 HS nữ. Kết quả được sử lí bằng phần mềm SPSS 20.0. 2.2. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 2.2.1. Khái quát thực trạng trầm cảm của học sinh trung học cơ sở huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam dưới lát cắt tổng quát Mức độ TC ở học sinh THCS được tính điểm dựa trên kết quả điều tra theo thang đáng giá DASS – 21 bao gồm 21 item về TC, lo âu và stress. Kết quả nghiên cứu dưới lát cắt tổng quát được thể hiện ở Biểu đồ 1. Dữ liệu ở Biểu đồ 1 cho thấy, số học sinh có TC chiếm đến gần một nửa số học sinh tham gia khảo sát với tỉ lệ 41,1%. Trong đó, số học sinh có mức độ TC “vừa” chiếm tỉ lệ cao nhất với 19,1%. Số học sinh có mức độ TC nặng, rất nặng chiếm tỉ lệ lần lượt là 5,4% và 1,6%. Tỉ lệ TC trong nghiên cứu này cũng tương đồng với các nghiên cứu về TC trong và ngoài nước. 164
  4. Mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở Tỷ lệ trầm cảm (%) 70 58.9 60 50 40 30 19.1 20 15 10 5.4 1.6 0 Bình thường Nhẹ Vừa Nặng Rất nặng Biểu đồ 1. Tỉ lệ trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam Nghiên cứu của Jane Costello và cộng sự (2006) ở trẻ em và vị thành niên ở Mỹ năm 2006 cho thấy, ước tính có 2,8% trẻ em dưới 13 tuổi và 5,6% trẻ vị thành niên từ 13 - 18 tuổi mắc TC [19]. Nghiên cứu của Lu Chen và cộng sự (2013) về tỉ lệ và mối tương quan giữa nhân khẩu học với TC ở sinh viên đại học Trung Quốc, cho thấy tỉ lệ sinh viên có biểu hiện TC chiếm 11,7% [20]. Theo báo cáo lần thứ 2 của Tổ chức Sức khỏe Tâm thần trẻ em và trẻ vị thành niên của Australia, năm 2015 có 2,8% trẻ em và trẻ vị thành niên đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán TC. Nghiên cứu của Khesht-Masjedi và cộng sự (2012) trên trẻ vị thành niên từ 13 đến 19 tuổi ở Iran cho thấy co 45% học sinh trung học có triệu chứng TC [21]. Trong một nghiên cứu về tỉ lệ TC và những yếu tố từ trường học ở Chandigard, Ấn Độ trên 542 trẻ vị thành niên từ 13 – 18 tuổi, Singh và cộng sự (2017) chỉ ra rằng có 40% trẻ mắc TC, trong đó 29,7% ở mức độ TC nhẹ, 15,5% ở mức độ vừa, 3,7% ở mức độ nặng, 1,1% ở mức độ rất nặng [22]. Theo các nghiên cứu ở Việt Nam, số lượng dân số nói chung và số lượng học sinh, sinh viên gặp phải tình trạng TC có xu hướng ngày càng tăng. Kết quả của tác giả Hoàng Cẩm Tú và cộng sự (2009) khảo sát thực trạng về sức khoẻ tâm thần ở 1.727 học sinh THCS ở thành phố Hà Nội cho thấy cho thấy số học sinh có vấn đề về SKTT chiếm 1/4, trong đó 50% có biểu hiện bất thường bệnh lí cần được hỗ trợ thuộc các vấn đề hướng nội và hướng ngoại. Hướng nội được biểu hiện dưới dạng rối loạn cảm xúc lo âu - buồn chán (TC) dạng cơ thể và hướng ngoại được biểu hiện dưới dạng có hành vi hung bạo công kích hoặc làm sai qui tắc xã hội. Yếu tố môi trường gia đình, chấn thương thể chất và tâm lí tác động đến các vấn đề liên quan đến sức khoẻ tâm thần của học sinh, trong đó 1/3 học sinh trải qua các biến cố stress [23]. Kết quả nghiên cứu trên 708 học sinh tại 6 trường trung học phổ thông ở hai tỉnh Ninh Bình và Hà Nội của nhóm tác giả Trần Thị Mỵ Lương và Phan Diệu Mai (2019) cho thấy có khoảng 20% học sinh TC ở các mức độ khác nhau. Hầu hết học sinh có biểu hiện TC ở mức trầm cảm nhẹ, tỉ lệ TC nặng chỉ chiếm khoảng 1% tổng số người tham gia khảo sát [24]. Nghiên cứu của Phan Đăng Thân năm 2010 trên 455 học sinh trung học phổ thông Trần Quang Khải- Hưng Yên khi sử dụng thang đo CES-D với điểm cắt 22 phát hiện được 31,7% học sinh có nguy cơ mắc TC. Hay nghiên cứu của tác giả Tô Thanh Phương (2016) khảo sát tình hình bệnh nhân TC được điều trị nội trú tại Bệnh viện Tâm thần Trung ương I năm 2016 cho thấy, ở nhóm tuổi 16-25 chiếm tỉ lệ TC cao nhất trong các nhóm độ tuổi còn lại (38,31%) [25]. Nghiên cứu của Đỗ Bích Ngọc (2017) về rối nhiễu TC ở học sinh THCS trên địa bàn thành phố Hà Nội, tỉ lệ học sinh có biểu hiện TC là 60,8%, trong đó biểu hiện TC ở mức độ nhẹ và vừa lần lượt là 32,5% và 24,2%. Giải thích tỉ lệ TC cao ở học sinh 165
  5. Nguyễn Thị Ngọc Bé*, Nguyễn Thị Lan Oanh, Phạm Thị Thuý Hằng, Mai Thị Thanh Thuỷ và Nguyễn Thị Hà THCS có thể là do sự thay đổi tâm sinh lí mạnh mẽ của lứa tuổi, não bộ vẫn đang phát triển: vỏ não trước trán, một phần của não kiểm soát sự tự điều chỉnh, chưa được phát triển đầy đủ ở tuổi thiếu niên. Do đó, điều này dẫn đến các hành vi nguy cơ ở tuổi vị thành niên, chẳng hạn như lạm dụng chất gây nghiện, có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tâm thần trong đó có TC. Sự chênh lệch về tỉ lệ TC so với các nghiên cứu khác có thể do sự khác biệt địa bàn nghiên cứu [7]. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ học sinh THCS mắc TC huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam là khá cao và đáng báo động. Tỉ lệ học sinh mắc TC là cao và không chỉ ở các mức độ nhẹ và vừa mà có cả mức độ nặng thậm chí rất nặng. Số học sinh có TC ở mức độ nặng và rất nặng mặc dù chiếm tỉ lệ thấp (7%) với 27/387 học sinh, nhưng yêu cầu phải có sự can thiệp từ gia đình và điều trị từ các nhà tham vấn, bác sĩ tâm lí. Ngoài ra, với tỉ lệ học sinh có TC chiếm gần một nửa trong tổng số số học sinh được khảo sát, điều này đòi hỏi phải có biện pháp hỗ trợ kịp thời để tránh tình trạng TC phát triển ở mức độ nặng hơn. Đặc biệt là cần có sự giúp đỡ và hỗ trợ tâm lí của các nhà tham vấn, tư vấn hay cán bộ tâm lí học đường, từ đó giúp học sinh ứng phó và vượt qua được tình trạng TC. 2.2.2. Mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở 2.2.2.1. Phong cách giáo dục của cha mẹ xét trên bình diện có và không có trầm cảm Để so sánh sự khác biệt về phong cách giáo dục của cha mẹ giữa có và không có rối loạn TC, chúng tôi sử dụng phần mềm thống kê SPSS phiên bản 20.0 để tiến hành kiểm định hai nhóm độc lập Independent Samples T-test. Kết quả so sánh điểm trung bình của từng yếu tố ảnh hưởng xét trên bình diện có và không có TC được trình bày cụ thể ở Bảng 1 dưới đây: Bảng 1. Phong cách giáo dục của cha mẹ xét trên bình diện có và không có trầm cảm Loại N M SD t P TC 0 228 7,76 2,036 0,008 Từ chối - 4,242 1 159 8,74 2,458 Phương pháp 0 228 16,08 3,547 0,004 Ấm áp 2,811 giáo dục 1 159 14,95 4,366 Bảo vệ thái 0 228 22,62 4,333 0,005 - 2,239 quá 1 159 23,60 4,083 Chú thích: 0: Không trầm cảm; 1: Trầm cảm Kết quả kiểm định t – test hai giá trị trung bình trong nghiên cứu này cho thấy, phong cách giáo dục của cha mẹ giữa có và không có TC có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê. Trong đó, ở phương pháp giáo dục “từ chối” và “bảo vệ thái quá”, học sinh mắc TC cao hơn nhóm học sinh không có TC. Ngược lại, ở phong cách giáo dục “ấm áp”, học sinh có TC thấp hơn so với học sinh không TC. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu ở nước ngoài. Nghiên cứu của Xu, Fang, Zhang, Lin, & Zhang (2008) cho rằng ở tuổi thanh thiếu niên, các cá nhân phát triển hai xu hướng độc lập và gắn bó với cha mẹ. Một mặt, thanh thiếu niên tìm kiếm sự tự chủ ngày càng tăng từ cha mẹ của họ. Mặt khác, thanh thiếu niên vẫn được hưởng lợi từ sự gắn bó an toàn với cha mẹ vì họ chưa đủ chín chắn để đương đầu với những thách thức trong cuộc sống mà không có sự hỗ trợ nào. Hai xu hướng mâu thuẫn này dẫn đến những thách thức trong tương tác giữa cha mẹ và con cái và do đó, các vấn đề tâm lí của trẻ em thường có liên quan đến chất lượng hoạt động của gia đình. Rối loạn chức năng gia đình (ví dụ: các chiến lược giải quyết vấn đề kém, giao tiếp không hiệu quả giữa các thành viên trong gia đình) có nghĩa là hệ thống gia đình không tạo điều kiện cho hoạt động thích hợp [26, 27]. Sheeber, Davis, Leve, Hops, và 166
  6. Mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở Tildesley (2007) cho rằng trẻ vị thành niên có những triệu chứng TC ít nhận được sự ủng hộ từ gia đình và có nhiều bất đồng với cha mẹ hơn so với trẻ không có triệu chứng TC. Khi trẻ cảm thấy được yêu thương và chăm sóc từ cha mẹ, trẻ sẽ cảm thấy an toàn [28]. Điều đó giúp trẻ ứng phó với stress và giảm nguy cơ TC [29]. Một mối tương quan tích cực mạnh mẽ đã được tìm thấy giữa sự chăm sóc của cha mẹ tiêu cực (“từ chối” và “bảo vệ quá mức”) và tâm lí người lớn [30]. Theo kết quả của một trong những nghiên cứu trước đó cho thấy có mối quan hệ bền chặt giữa sự “từ chối” và TC. Ngoài ra, phong cách giáo dục gia đình “ấm áp” như là một cách để bảo vệ trẻ chống lại TC trong tương lai [13]. Nghiên cứu của Daryanavard và cộng sự (2011) cho rằng hình phạt về thể chất của cha mẹ đối với học sinh là một yếu tố làm tăng tỉ lệ TC và nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe tinh thần của học sinh, những cuộc cãi vã bằng lời nói và thể chất của phụ huynh có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe tinh thần của các em và tỉ lệ TC cao hơn đáng kể ở nhóm học sinh này [31]. Dựa trên mô hình nhận thức xã hội, Yanhui Wang và các cộng sự (2020) đã kiểm tra vai trò trung gian của lòng tự trọng và sự cô đơn trong việc liên kết rối loạn chức năng gia đình với sự lo lắng và TC ở thanh thiếu niên. Khách thể được khảo sát bao gồm 921 học sinh trung học cơ sở (độ tuổi trung bình là 12,98; 51,7% là nữ) từ một thành phố hạng trung nằm ở phía Bắc Trung Quốc. Học sinh đã hoàn thành câu hỏi trắc nghiệm ở ba thời điểm, cách nhau sáu tháng và bắt đầu từ trung học cơ sở (lớp 7). Kết quả phân tích mô hình phương trình cấu trúc cho thấy mức độ rối loạn chức năng gia đình cao ở lần 1 có liên quan đáng kể đến sự gia tăng lo lắng và TC ở lần 3; lòng tự trọng và sự cô đơn ở thời điểm 2 đóng vai trò trung gian cho mối quan hệ giữa rối loạn chức năng gia đình ở thời điểm 1 và sự lo lắng và TC ở thời điểm 3. Những kết quả này cho thấy tầm quan trọng của các nỗ lực đa hệ thống (nghĩa là giải quyết đồng thời bối cảnh xã hội và các yếu tố nhận thức cá nhân) lo lắng và TC của thanh thiếu niên [32]. Một nhóm các nhà nghiên cứu do Giáo sư Nishimura Kazuo đứng đầu tại Trung tâm Đổi mới các hệ thống xã hội của trường đại học Kobe (Nhật Bản), và giáo sư Yagi Tadashi thuộc khoa kinh tế trường đại học Doshisha đã công bố những kết quả khảo sát cho thấy những đứa trẻ nhận được sự quan tâm và chăm sóc tích cực từ bố mẹ có thể sẽ có mức thu nhập cao hơn, vui vẻ hơn, thành công hơn và có nhân phẩm tốt trong tương lai so với những trẻ bình thường. Phát hiện này đã được đưa ra tranh luận ở Viện Nghiên Cứu Kinh Tế, Thương Mại và Kinh Doanh (RIETI) của Nhật Bản. Để có thể thu thập những số liệu này, các nhà nghiên cứu đã tạo ra một bản khảo sát online thuộc công trình nghiên cứu “Những nghiên cứu cơ bản giúp đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế ở Nhật” do RIETI tổ chức. Những số liệu được lấy từ 5000 phụ nữ và nam giới khác nhau để trả lời các câu hỏi và câu trình bày về mối quan hệ giữa họ và bố mẹ trong thời thơ ấu như “bố mẹ tôi tin tưởng tôi” hoặc “gia đình tôi không quan tâm đến tôi”. Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Vanderbilt, bang Tennessey, Mỹ chỉ ra rằng có nhiều cha mẹ bao bọc con quá mức mà không biết rằng con cái sẽ thiếu tự tin và trở nên quá dựa dẫm nếu cha mẹ kìm cặp và bao bọc quá mức [33]. 2.2.2.2. Mối tương quan giữa trầm cảm và phong cách giáo dục của cha mẹ Bảng 2. Mối tương quan giữa trầm cảm và phong cách giáo dục của cha mẹ R M SD 1 2 3 4 5 1. Trầm cảm 0,41 0,493 1 4. Từ chối 8,16 2,268 0,251** 0,006* 0,027* 1 Phong - - - cách giáo 5. Ấm áp 15,62 3,938 -0,003* 1 0,342** 0,092* 0,212* dục của cha mẹ 6. Bảo vệ 23,02 4,254 0,313** 0,011* 0,020* 0,589* 0,096* thái quá Chú thích: ** p
  7. Nguyễn Thị Ngọc Bé*, Nguyễn Thị Lan Oanh, Phạm Thị Thuý Hằng, Mai Thị Thanh Thuỷ và Nguyễn Thị Hà Kết quả từ Bảng 2 cho thấy có mối tương quan chặt chẽ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ theo hướng “từ chối” và “bảo vệ thái quá” với TC. Như vậy, phong cách giáo dục của cha mẹ càng hướng đến sự “từ chối” và “bảo vệ thái quá”, tỉ lệ TC ở trẻ càng tăng, và ngược lại, phong cách giáo dục của cha mẹ “ấm áp” và TC có mối tương quan nghịch (r = -0,342; p VIF > 10 [36]. Từ kết quả này có thể kết luận, giữa các biến không tồn tại đa cộng tuyến mạnh, có thể trực tiếp tiến hành phân tích hồi quy tuyến tính. Bảng 3. Mô hình hồi quy bội r2 hiệu Mô hình r r2 t F chỉnh 1 Phong cách giáo dục của 0,431a 0,186 0,184 9,772*** 95,484*** cha mẹ “từ chối” Phong cách giáo dục của 6,486*** 2 cha mẹ “từ chối” b 0,455 0,207 0,203 54,452*** Phong cách giáo dục của 3,334*** cha mẹ “bảo vệ thái quá” Tác giả sử dụng phương pháp phân tích hồi quy bội tiến hành phân tích tính dự báo của phong cách giáo dục của cha mẹ “từ chối” và “bảo vệ thái quá” với TC. Kết quả nghiên cứu cho 168
  8. Mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở thấy, phong cách giáo dục của cha mẹ “từ chối” và “bảo vệ thái quá” tham gia vào phương trình hồi quy và có hiệu lực dự báo sự biến thiên của điểm số TC. Phong cách giáo dục của cha mẹ “từ chối” và “bảo vệ thái quá” giải thích đến 20,3% sự biến thiên của điểm số TC, trong đó, phong cách giáo dục của cha mẹ “từ chối” có lực dự báo mạnh nhất, với tỉ lệ dự báo 18,4%. 3. Kết luận (1) Kết quả nghiên cứu điều tra 387 HS của trường THCS Phan Tây Hồ và trường THCS Nguyễn Văn Trỗi huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam cho thấy số học sinh có TC chiếm đến gần một nửa số học sinh tham gia khảo sát với tỉ lệ 41,1%. Trong đó, học sinh có có mức độ TC vừa chiếm tỉ lệ cao nhất, tiếp đến là học sinh có mức độ TC nặng và mức độ rất nặng chiếm tỉ lệ thấp nhất. (2) Ở phong cách giáo dục của cha mẹ “từ chối” và “bảo vệ thái quá”, học sinh có TC cao hơn học sinh không có TC. Ở phong cách giáo dục “ấm áp”, học sinh có TC thấp hơn so với học sinh không TC. (3) Có mối tương quan thuận giữa phong cách giáo dục của cha mẹ “từ chối” và “bảo vệ thái quá” với TC của học sinh THCS. Ngược lại, phong cách giáo dục của cha mẹ “ấm áp” tỉ lệ nghịch với TC. (4) Phong cách giáo dục của cha mẹ “từ chối” và “bảo vệ thái quá” giải thích đến 20,3% sự biến thiên của điểm số TC, trong đó, phong cách giáo dục của cha mẹ “từ chối” có lực dự báo mạnh nhất. Từ kết quả nghiên cứu trên chúng ta thấy rằng, phong cách giáo dục của cha mẹ “từ chối” và “bảo vệ thái quá” là những yếu tố nguy cơ dẫn đến TC. Chính vì vậy, các nhà tham vấn, trị liệu cần phải lưu ý đến những yếu tố này trong quá trình trị liệu cho học sinh có TC, giúp tiến trình can thiệp mang lại hiệu quả cao hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] World Health Organization, 1992. ICD-10, international statistical classification of diseases and related health problems, tenth revision, World Health Organization. [2] World Health Organization., 2008. The global burden of disease: 2004 update, Geneva World Health Organization, ed., 2015. Mental health atlas 2014, World Health Organization, Geneva, Switzerland. [3] Dina Cagliostro, 2017. Persistent Sadness & Loss of Interest in Life. Truy cập ngày 11/8/2019, tại trang https://www.psycom.net/depression.central.html. [4] Laurence Steinberg, 2017. Anxiety and Depression in Adolescence. Truy cập ngày 11/8/2019, tại trang https://childmind.org/report/2017-childrens-mental-health- report/anxiety-depression-adolescence/. [5] Armine Vardanyan, 2013. Risk factors and prevalence of adolescent depression in Yerevan, Armenia. Master of Public Health Integrating Experience Project Professional Publicantion Framework. [6] Đỗ Bích Ngọc, 2017. Rối nhiễu trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở trên địa bàn Hà Nội. Luận văn thạc sĩ Tâm lí học. Đại học sư phạm Hà Nội. [7] Trần Thị Mỹ Lương và Phan Diệu Mai, 2019. Thực trạng trầm cảm ở học sinh trung học phổ thông nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và thành phố Hà Nội. Tạp chí Giáo học, số đặc biệt tháng 4/2019, tr. 146-150; 166. [8] Gerlsma, C., Emmelkamp, P. M., & Arrindell, W. A., 1990. Anxiety, depression, and perception of earli parenting: A meta-analisis. Clinical Psychology Review, 10(3), 251–277. 169
  9. Nguyễn Thị Ngọc Bé*, Nguyễn Thị Lan Oanh, Phạm Thị Thuý Hằng, Mai Thị Thanh Thuỷ và Nguyễn Thị Hà [9] Eisemann, M., Richter, G., Richter, J., 2000. Temperament, Character and Perceived Parental Rearing in Healthy Adults: Two Related Concepts? Psychopathology, 33, 36-42. 55. 54. [10] Qian, M., Xia, G., 2001. The Relationship of Parenting Style to Self-Reported Mental Health among two subcultures of Chinese. Journal of Adolescence, 24, 251-260. [11] Marmorstein, N., Malone, S., & Iacono, W., 2004. Psychiatric disorders among offspring of depressed mothers: Associations with paternal psychopathology. American Journal of Psychiatry, 161, 1588-1594. [12] Eisemann, 1997. M. EisemannParental Rearing and Adult Psychopathology. Psiquatrica Clinica, 18, pp. 169-174. [13] Bijl R.V., Cuijpers P, Smit F, 2002. Psychiatric disorders in adult children of parents with a history of psychopathology. Social Psychiatric Epidemiology, 37:7-12. [14] Hulsenbeck, P., Meesters, C., Merkelbach, H., & Munis, P., 2000. Worry in Children is related to Perceived Parental Rearing and Attachment. Behaviour Research and Therapy, 38, 487-497. [15] Lovibond PF, Lovibond SH, 1995. The structure of negative emotional states: comparison of the Depression Anxiety Stress Scales (DASS) with the Beck Depression and Anxiety Inventories. Behav Res Ther. 33(3):335-43. [16] Perris et al, 1980. Development of a new inventory assessing memories of parental rearing behavior. Acta Psychiatrica Scandinavica 61(4):265-74. DOI: 10.1111/j.1600- 0447.1980.tb00581.x [17] Willem A Arrindell et al, 1999. The development of a short form of the EMBU1: Its appraisal with students in Greece, Guatemala, Hungary and Itali. Personality and Individual Differences. Volume 27, Issue 4, October 1999, Pages 613-628. https://doi.org/10.1016/S0191-8869(98)00192-5 [18] Jane Costello E, Erkanli A, Angold A., 2006. Is there an epidemic of child or adolescent depression?. J Child Psychol Psychiatry. 47(12):1263-71. [19] Chen L, Wang L, Qiu XH, Yang XX, Qiao ZX, et al., 2013. Correction: Depression among Chinese University Students: Prevalence and Socio-Demographic Correlates. PLOS ONE8(11):10.1371/annotation/e6648eb3-37d6-44d7-8052-979af14fa921. [20] Khesht-Masjedi, M.F. et al., 2012. Development of Anxiety and Depression Inventory for Secondary School Students in Iran (A & D Inventory) truy cập tại trang: https://www.researchgate.net/publication/332041471_The_relationship_between_gender_a ge_anxiety_depression_and_academic_achievement_among_teenagers. [21] S. Singh, S. Tiwari, U.C. Dumka, R. Kumar, P.K. Singh, 2017. Source region and sector contributions of atmospheric soot particle in a coalfield region of Dhanbad, eastern part of India. Atmos. Res., 197, 2017), pp. 415-424, 10.1016/j.atmosres.2017.07.020 [22] Đặng Hoàng Minh, Hoàng Cẩm Tú, 2009) Thực trạng sức khỏe tâm thần ở học sinh THCS ở Hà Nội và nhu cầu tham vấn sức khỏe tâm thần học đường, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, tập 25, số 1S, 2009, trang106-112. [23] Trần Thị Mỵ Lương, Phan Diệu Mai, 2019. Thực trạng trầm cảm ở học sinh trung học phổ thông: nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Ninh Bình và thành phố Hà Nội. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 4/2019, tr 146-150. [24] Tô Thanh Phương, 2016. Khảo sát tình hình bệnh nhân trầm cảm được điều trị nội trú tại Bệnh viện Tâm thần Trung ương I năm 2016. Truy cập tại trang: http://www.bvtttw1.gov.vn/?lang=V&func=newsdetail&newsid=872&CatID=34&MN=7 170
  10. Mối quan hệ giữa phong cách giáo dục của cha mẹ và trầm cảm ở học sinh trung học cơ sở [25] J. Xu, X. Fang, J. Zhang, D. Lin, L. Zhang, 2008. Effect mechanism of famili functioning on adolescent’s emotional problem. Psychological Development and Education, 24 (2008), pp. 79-85. [26] A.S. Mousavi, 2004. Functional famili therapy with a systemic approach (2nd ed.), Alzahra University Press, Tehran. [27] Sheeber LB, Davis B, Leve C, Hops H, Tildesley E, 2007. Adolescents' relationships with their mothers and fathers: associations with depressive disorder and subdiagnostic symptomatology. J Abnorm Psychol. 2007 Feb;116(1):144-54. [28] Amato, P. R., & Gilbreth, J. G., 1999. Nonresident fathers and children's well-being: A meta-analisis. Journal of Marriage and the Famili, 61(3), 557–573. https://doi.org/10.2307/353560 [29] Marmorstein, N., Malone, S., & Iacono, W., 2004. Psychiatric disorders among offspring of depressed mothers: Associations with paternal psychopathology. American Journal of Psychiatry, 161, 1588-1594. [30] Daryanavard et al., 2011. Prevalence of Depression among High School Students and its Relation to Famili Structure. American Journal of Applied Sciences 8(1):39-44 [31] YanhuiWang, Lili Tian, Leilei Guo. E. Scott Huebner, 2020. Famili dysfunction and Adolescents' anxiety and depression: A multiple mediation model. Journal of Applied Developmental Psychology. Volume 66, January–February 2020, 101090 [32] Tuần tin khoa học và công nghệ chọn lọc, số 6: 26/6-2/7/2016. Truy cập tại trang: http://www.vista.gov.vn/LinkClick.aspx?fileticket=pCOgfZBvjmo%3D&tabid=187&lang uage=vi-VN [33] Irem Anl and T. Alper Karsl, 2010. Perceived parenting style, depression and anxiety levels in a Turkish late-adolescent population. Procedia - Social and Behavioral Sciences. Volume 2, Issue 2, 2010, Pages 724-727. https://doi.org/10.1016/j.sbspro.2010.03.091 [34] Zhao Sibo & Yiyue Guo, 2018. The effects of mother's education on college student's depression level: The role of famili function. https://doi.org/10.1016/j.psychres.2018.08.030 [35] Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2005. Phân tích dữ liệu nghiên cứu với spss. Nxb Thống kê Hà nội. ABSTRACT Relationship between parents' education style and depression in junior highschool students Nguyen Thi Ngoc Be*, Nguyen Thi Lan Oanh, Pham Thi Thuy Hang, Mai Thi Thanh Thuy and Nguyen Thi Ha 2 Faculty of Psychology - Education, Hue University of Education, Hue University This study aims to understand the relationship between parents' educational style and depression in junior high school students. There were 387 students from Phan Tay Ho Junior High School and Nguyen Van Troi Junior High School in Phu Ninh District, Quang Nam Province participating in the study through answering the Depression, Anxiety and Stress test (DASS – 21), My memories of upbringing test (s-EMBU) and in-depth interviews. Research results show that 41.1% of students have depression. There is a positive correlation between “rejecting” and “overprotective” parents’ education style with junior highschool students' depression. In contrast, the “warm” parents' educational style is inversely proportional to depression. The “reject” and “overprotective” parents' educational style explains up to 20.3% of the variation in depression scores. The research results are the basis for proposing appropriate measures in prevention and psychological support for junior high school students. Keywords: depression, junior high school students, parents' educational style. 171
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0