MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA TĂNG ĐƯỜNG HUYẾT VỚI HỒI PHỤC<br />
CHỨC NĂNG VÀ TIÊN LƯỢNG TỬ VONG CỦA BỆNH NHÂN<br />
NHỒI MÁU NÃO TUẦN HOÀN TRƯỚC<br />
TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH TỪ 10-2007 ĐẾN 3-2008<br />
Lê Tự Phương Thảo*, Nguyễn Đức Lập **, Phạm Bảo Trân **<br />
TÓM TẮT<br />
Mục đích: Xác định sự ảnh hưởng của tăng đường huyết lúc nhập viện với sự hồi phục chức năng và tử<br />
vong ở bệnh nhân nhồi máu não sau ba tháng.<br />
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu được thực hiện trên 84 bệnh nhân nhồi máu não tuần hoàn trước trong<br />
vòng 72 giờ sau khởi phát nhập viện tại bệnh viện Nhân dân Gia Định từ 10-2007 đến 3-2008. Bệnh nhân khi<br />
mới nhập viện sẽ được thử đường huyết bằng test nhanh hay đường huyết lúc đói trong vòng 24 giờ sau nhập<br />
viện để phân làm hai nhóm: tăng đường huyết (≥ 126mg/dL hoặc ≥ 7mmol/L) và không tăng đường huyết (<<br />
126mg/dL hoặc < 7mmol/L); sau đó, chúng tôi so sánh sự hồi phục chức năng (chỉ số Barthel) và tiên lượng tử<br />
vong của hai nhóm này sau ba tháng. Các yếu tố tiền sử, lâm sàng và cận lâm sàng khác cũng được ghi nhận và<br />
đánh giá. Phân tích hồi quy đa biến logistic được thực hiện nhằm loại trừ các biến gây nhiễu để xác định vai trò<br />
của tăng đường huyết khi nhập viện lên tiên lượng bệnh nhân sau 3 tháng.<br />
Kết quả: Trong 84 bệnh nhân, tăng đường huyết lúc nhập viện có 32 ca (381%); trong đó, sau ba tháng,<br />
hậu quả chức năng tốt (Brathel ≥ 60 điểm) là 13 ca (15,5%), hậu quả chức năng xấu (Barthel < 60 điểm) là 13 ca<br />
(15,5%), tử vong là 6 ca (7,1%). Trong phân tích đơn biến, tăng đường quyết đều có liên quan ý nghĩa thống kê<br />
với hậu quả chức năng (RR = 3,6; KTC 95% = 1,6-8,02; p = 0,001) và tử vong (RR = 9,7; KTC 95% = 1,2-77,3; p<br />
= 0,011). Phân tích đa biến cho thấy tăng đường huyết là yếu tố tiên lượng độc lập với hậu quả hồi phục chức<br />
năng xấu (OR = 4,86; KTC 95% = 1,359-17,398) và tử vong (OR = 57,4; KTC 95% = 1,7-1902).<br />
Kết luận: Những bệnh nhân nhồi máu não có tăng đường huyết lúc nhập viện có nguy cơ hậu quả chức<br />
năng xấu và tiên lượng tử vong cao hơn những bệnh nhân có đường huyết bình thường. Đứng trước một bệnh<br />
nhân nhồi máu não có tăng đường huyết lúc nhập viện, điều cần thiết là phải thấy được tiên lượng nặng của<br />
bệnh nhân, để đưa ra hướng điều trị và tập vật lý trị liệu thích hợp cho họ.<br />
Từ khóa: Tăng cường huyết, đột quỵ thiếu máu não cấp.<br />
ABSTRACT<br />
CORRELATION BETWEEN HYPERGLYCEMIA WITH COMPLICATIONS AND MORTALITY AT<br />
THESE PATIENTS WHO HAVE AN ISCHEMIC STROKE AT GIA DINH HOSPITAL FORM OCTOBER<br />
2007 TO MARCH 2008<br />
Le Tu Phuong Thao, Nguyen Duc Lap, Pham Bao Tran<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 6 - 2009: 64 - 70<br />
Background and Purpose: determine the influence of hyperglycemia on the functionnal recuperation and<br />
the mortality at these patients who have an ischemic stroke after three months.<br />
Methods: eighty four patients with ischemic ischemic anterior circulation stroke during 72 hours after onset,<br />
admitted to Gia Dinh hospital from october 2007 to march 2008. These patients were examined fasting glucose<br />
* Khoa Nội Thần kinh Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định<br />
** Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch<br />
Địa chỉ liên lạc: TS Lê Tự Phương Thảo ĐT: 0908.227.845 Email: letuphuongthao@gmail.com<br />
<br />
64<br />
<br />
during 24 hours after hospitalization for dividing into two groups: Hyperglycemia (≥ 126mg/dL or ≥ 7mmol/L)<br />
and non-hyperglycemia (< 126mg/dL or < 7mmol/L). We compaired the recuperation and the mortality between<br />
these group after three months. The antecedent factors, the clinic signs and the paraclinic signs were constated<br />
and valued. The multivariate logistic regression analysis was realized for excluding the bias factors and<br />
determining the part of hyperglycemia on the prediction of these patients after three months.<br />
Results: In 84 patients, hyperglycemia was found in 32 (38.1%): after three months, the bad recuperation<br />
(Barthel’s index < 60) was in 13(15.5%), the good recuperation (Barthel’s index ≥ 60) was in 13 (15.5%), and the<br />
death was in 6 (7.1%). With the univaiate analysis, the hyperglycemia have a significative statistic correlation<br />
with the functional recuperation (RR = 3.6; IC 95% = 1.6-8.0; p = 0.001) and the mortality (RR = 9.7; IC 95% =<br />
1.2-77.3; p = 0.011). By the multivariate logistic regression analysis, we was also constated that there was a<br />
relation between the hyperglycemia et the functional recuperation (OR = 4.863; IC 95% = 1.3-17.3) and the<br />
mortality (OR = 57.4; IC 95% = 1.7-1902).<br />
Conclutions: the hyperglycemia hospitalization was a independence factor predictive of the functional<br />
recuperation and the mortality. In front of the patients, the victim of the ischemic stroke, with a hyperglycemia<br />
hospitalization, there is necessary to forcast their grave prognostic for giving the appropriate treatments and<br />
kinesitherapies.<br />
Key words: Hyperglycemia, acute ischemic stroke.<br />
Assess the impact of health education program.<br />
ĐẶTVẤNĐỀ<br />
Trong tai biến mạch máu não, nhồi máu não<br />
(NMN) là bệnh cảnh thường gặp nhất chiếm 8085% các trường hợp(14). Mức độ gây hại và tính<br />
phổ biến của NMN dẫn đến nhiều nghiên cứu<br />
trên thế giới về các yếu tố ảnh hưởng lên tiên<br />
lượng của bệnh(4,6,11,18) như tuổi, giới tính, dân tộc,<br />
bệnh tim mạch, tăng đường huyết, đái tháo<br />
đường (ĐTĐ)… Trong số đó, tăng đường huyết<br />
là một yếu tố thường được nghiên cứu(16,9,3,17).<br />
Các tác giả thấy rằng tăng đường huyết có thể<br />
dẫn đến hậu quả chức năng xấu và tỷ lệ tử vong<br />
cao ở các bệnh nhân có ĐTĐ hoặc không. Trong<br />
NMN cấp, tăng đường huyết có thể làm tăng tổn<br />
thương nhồi máu hoặc gây nên phản ứng stress<br />
thứ phát(12).<br />
Ở Việt Nam, NMN trong cộng đồng đã được<br />
quan tâm trong những năm gần đây. Mặt khác,<br />
người ta cũng chú ý nhiều hơn đến ĐTĐ vì bệnh<br />
nhân ĐTĐ ngày càng tăng, chiếm 2,7% dân số.<br />
Tuy nhiên, có ít nghiên cứu về tiên lượng của<br />
NMN có tăng đường huyết, trên cả bệnh nhân<br />
ĐTĐ và không ĐTĐ.<br />
Với những lí do nêu trên, chúng tôi thực<br />
hiện nghiên cứu này để khảo sát mối tương<br />
<br />
quan giữa tăng đường huyết với hồi phục chức<br />
năng và tử vong của bệnh nhân NMN tuần hoàn<br />
trước sau 3 tháng. Từ đó việc theo dõi và điều trị<br />
bệnh nhân sẽ được thực hiện chặt chẽ hơn, cũng<br />
như xác định chính xác hơn mục tiêu điều trị<br />
ngắn hạn và dài hạn, làm giảm đến mức ít nhất<br />
những hậu quả xấu có thể có.<br />
ĐỐI TƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊN CỨU<br />
Đây là một nghiên cứu cắt dọc phân tích trên<br />
các bệnh nhân nhồi máu não tuần hoàn trước<br />
nhập bệnh viện Nhân dân Gia Định từ tháng 10<br />
năm 2007 đến tháng 3 năm 2008. Bệnh nhân<br />
được đưa vào nghiên cứu theo tiêu chuẩn sau:<br />
<br />
Tiêu chuẩn chọn vào<br />
Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán NMN<br />
lần đầu.<br />
Bệnh nhân nhập viện trong 72 giờ sau<br />
khởi phát.<br />
Điểm Glasgow ≥ 10<br />
Bệnh nhân được xác định có NMN thuộc<br />
phân bố hệ tuần hoàn trước (hệ động mạch cảnh).<br />
<br />
Tiêu chuẩn loại trừ<br />
- Bệnh nhân chỉ có cơn thiếu máu não thoáng<br />
qua.<br />
<br />
65<br />
<br />
- Chấn thương vùng cổ.<br />
- NMN tuần hoàn sau.<br />
- Huyết khối tĩnh mạch não.<br />
- Dị dạng mạch máu não.<br />
- Bệnh nhân có các bệnh lý thần kinh hoặc<br />
bệnh lý khác trước đó có thể làm đánh giá sai<br />
lệch mức độ tổn thương thần kinh hoặc mức độ<br />
độc lập trong sinh hoạt hàng ngày.<br />
- Bệnh nhân không được theo dõi đầy đủ<br />
trong quá trình nghiên cứu.<br />
Nghiên cứu của chúng tôi có 84 bệnh nhân<br />
thoả điểu kiện các tiêu chuẩn nêu trên.Tất cả các<br />
bệnh nhân nhập viện được chẩn đoán NMN phù<br />
hợp các tiêu chuẩn chọn mẫu đã kể trên đều<br />
được ghi nhận hoàn cảnh khởi phát, diễn biến<br />
trước nhập viện, tiền sử bản thân và gia đình<br />
bệnh nhân.<br />
Thăm khám được tiến hành bao gồm: bắt<br />
mạch, đo huyết áp, khám thần kinh để đánh giá<br />
tình trạng hôn mê bằng thang điểm Glasgow,<br />
đánh giá theo thang điểm đột quỵ Viện sức khoẻ<br />
Quốc gia Hoa Kỳ.<br />
Các cận lâm sàng: tất cả các bệnh nhân đều<br />
được xét nghiệm đường huyết trong vòng 24 giờ<br />
sau nhập viện bằng test nhanh đường huyết<br />
hoặc đường huyết lúc đói để chia thành 2 nhóm:<br />
tăng đường huyết (≥ 126mg/dL hoặc ≥ 7mmol/L)<br />
và không tăng đường huyết (< 126mg/dL hoặc <<br />
7mmol/L). Với những bệnh nhân có tăng đường<br />
huyết, chúng tôi sẽ kiểm tra lại đường huyết lúc<br />
đói kèm thêm xét nghiệm HbA1c nhằm xác định<br />
bệnh nhân có tăng đường huyết phản ứng hay<br />
có bệnh ĐTĐ. Ngoài ra chúng tôi cũng làm thêm<br />
các xét nghiệm khác như bilan lipid máu, điện<br />
tâm đồ, siêu âm doppler tim, chụp cắt lớp điện<br />
toán và/ hoặc chụp cộng hưởng từ sọ não dựa<br />
vào đó đánh giá thang điểm ASPECTS.<br />
Sau 3 tháng kể từ ngày khởi phát, chức<br />
năng thần kinh của bệnh nhân được đánh giá<br />
dựa trên thang điểm Barthel bằng cách trực<br />
tiếp (vãng gia) hoặc gián tiếp (điện thoại).<br />
<br />
Thang điểm Barthel với điểm cắt 60 được chọn<br />
để phân biệt giữa mức độ phụ thuộc và độc<br />
lập của bệnh nhân.<br />
Các số liệu thu thập sẽ được xử lý trên phần<br />
mềm SPSS 16 for Windows. Đầu tiên chúng tôi<br />
mô tả đặc điểm các biến, các biến số định lượng<br />
được mô tả bằng giá trị trung bình và độ lệch<br />
chuẩn, các biến số định tính được mô tả bằng tần<br />
số và tỉ lệ phần trăm. Tiếp theo, chúng tôi phân<br />
tích đơn biến: tìm mối liên quan giữa các biến<br />
với hồi phục chức năng và tử vong tại thời điểm<br />
3 tháng sau NMN. Cuối cùng chúng tôi thực<br />
hiện phân tích hồi quy đa biến logistic được thực<br />
hiện nhằm loại trừ các biến gây nhiễu để xác<br />
định vai trò của tăng đường huyết khi nhập viện<br />
lên tiên lượng bệnh nhân sau 3 tháng.<br />
KẾTQUẢ<br />
Sau 6 tháng, chúng tôi thu thập được 84<br />
bệnh nhân thoả tiêu chuẩn đề ra đưa vào<br />
nghiên cứu. Trong đó, có tăng đường huyết<br />
lúc nhập viện 32 trường hợp, không tăng<br />
đường huyết là 52.<br />
Bảng 1: Trình bày các dự liệu liên quan cácbiến số<br />
lâm sàng, cận lâm sàng với kết quả về phục hồi chức<br />
năng của bệnh nhân sau 3 tháng.<br />
BI < 60<br />
n (%)<br />
Tuổi<br />
≥ 75 tuổi 9 (45)<br />
< 75 tuổi<br />
11<br />
(19,2)<br />
Giới<br />
Nữ<br />
12<br />
(30,8)<br />
Nam<br />
8 (21)<br />
Glassgow ≤ 13 7 (77,8)<br />
> 13<br />
13<br />
(19,1)<br />
Điểm NIH ≥ 16<br />
12<br />
(70,5)<br />
< 16<br />
8 (13,3)<br />
ASPECTS ≤ 7<br />
>7<br />
<br />
BI ≥ 60<br />
n (%)<br />
11 (55)<br />
46<br />
(80,8)<br />
27<br />
(69,8)<br />
30 (79)<br />
2 (22,2)<br />
55<br />
(80,9)<br />
5 (29,5)<br />
<br />
RR KTC 95%<br />
2,3<br />
<br />
1,1-4,9 0,024<br />
<br />
1,5<br />
<br />
0,7-3,2 0,331<br />
<br />
4,1<br />
<br />
2,2-7,4 0,004<br />
<br />
5,3 2,6-10,8 0,000<br />
<br />
52<br />
(86,7)<br />
6 (60) 4 (40) 2,9<br />
14<br />
53<br />
(20,9) (79,1)<br />
13 (50) 13 (50) 3,6<br />
<br />
Đường<br />
≥<br />
huyết lúc 126mg/dL<br />
nhập viện<br />
<<br />
7 (13,7)<br />
44<br />
126mg/dL<br />
(86,3)<br />
<br />
p<br />
<br />
1,4-5,7 0,016<br />
<br />
1,7-8<br />
<br />
0,001<br />
<br />
66<br />
<br />
Theo bảng 1, qua phân tích đơn biến, chúng<br />
ASPECTS), đường huyết tăng lúc nhập viện liên<br />
tôi ghi nhận được tuổi, tri giác lúc nhập viện<br />
quan có ý nghĩa thống kê với kết quả hồi phục<br />
(điểm Glassgow), mức độ thiếu sót thần kinh<br />
chức năng của bệnh nhân sau 3 tháng (đánh giá<br />
(đánh giá theo điểm NIH), mức độ tổn thương<br />
theo chỉ số Barthel - BI) với p < 0,05.<br />
não trên CTScanner (đánh giá theo thang điểm<br />
Bảng 2: Trình bày các dự liệu liên quan cácbiến số lâm sàng, cận lâm sàng với kết quả về phục hồi chức năng của<br />
bệnh nhân sau 3 tháng.<br />
Tuổi<br />
Giới<br />
Glassgow<br />
ASPECTS<br />
Đường huyết lúc<br />
nhập viện<br />
<br />
≥ 75 tuổi<br />
< 75 tuổi<br />
Nữ<br />
Nam<br />
≤ 13<br />
> 13<br />
≤7<br />
>7<br />
≥ 126mg/dL<br />
< 126mg/dL<br />
<br />
Tử vong n (%)<br />
5 (20)<br />
2 (3,4)<br />
2 (4,9)<br />
5 (11,6)<br />
5 (35,7)<br />
2 (2,8)<br />
6 (85,7)<br />
1 (14,3)<br />
13 (50)<br />
7 (13,7)<br />
<br />
Sống n (%)<br />
20 (80)<br />
57 (96,6)<br />
39 (95,1)<br />
38 (88,4)<br />
9 (64,3)<br />
68 (97,2)<br />
10 (14,7)<br />
58 (85,3)<br />
13 (50)<br />
44 (86,3)<br />
<br />
RR<br />
5,9<br />
<br />
KTC 95%<br />
1,3-28,4<br />
<br />
p<br />
0,022<br />
<br />
0,42<br />
<br />
0,09-2,1<br />
<br />
0,237<br />
<br />
12,5<br />
<br />
2,7-58,1<br />
<br />
0,001<br />
<br />
22,1<br />
<br />
2,9-170,8<br />
<br />
0,000<br />
<br />
3,6<br />
<br />
1,7-8<br />
<br />
0,001<br />
<br />
Theo bảng 2, qua phân tích đơn biến, chúng tôi ghi nhận tuổi, tri giác lúc nhập viện (điểm<br />
Glassgow), mức độ tổn thương não trên CTScanner (đánh giá theo thang điểm ASPECTS), đường<br />
huyết tăng lúc nhập viện liên quan có ý nghĩa thống kê với tử vong của bệnh nhân sau 3 tháng với p <<br />
0,05.<br />
Tất cả các biến số độc lập trong nghiên cứu của chúng tôi, sau khi phân tích đơn biến có p < 0,25 sẽ<br />
được đưa vào phân đa biến.<br />
Bảng 3: Kết quả phân tích hồi quy logistic đa biến tìm tương quan các yếu tố và tiên lượng hồi phục chức năng 3<br />
tháng sau khởi phát<br />
Biến số<br />
Điểm NIH (≥ 16)<br />
Tăng ñường huyết<br />
lúc nhập viện<br />
Hằng số<br />
<br />
B<br />
2,550<br />
1,582<br />
<br />
OR<br />
12,8<br />
4,9<br />
<br />
-1,647<br />
<br />
0,193<br />
<br />
KTC 95%<br />
3,3-49,9<br />
1,4-17,4<br />
<br />
p<br />
0,000<br />
0,015<br />
0,015<br />
<br />
Theo bảng 3, sau khi hiệu chỉnh các yếu tố khác chỉ còn 2 yếu tố được giữ lại trong mô hình cuối<br />
cùng, đó là điểm NIH ≥ 16, tăng đường huyết lúc nhập viện. Như vậy, điểm NIH và tăng đường huyết<br />
lúc nhập viện có ý nghĩa dự đoán độc lập với hậu quả chức năng xấu sau 3 tháng với tỷ lệ tiên đoán<br />
đúng 83,1%.<br />
Bảng 4: Kết quả phân tích hồi quy logistic đa biến tìm tương quan các yếu tố và tiên lượng tử vong 3 tháng sau<br />
khởi phát<br />
Biến số<br />
Tuổi (≥ 75 tuổi)<br />
Giới (nữ)<br />
ASPECT (≤ 7)<br />
Tăng ñường huyết<br />
lúc nhập viện<br />
Hằng số<br />
<br />
B<br />
2,699<br />
-3,137<br />
3,642<br />
3,994<br />
<br />
OR<br />
15,2<br />
0,04<br />
43,1<br />
57,4<br />
<br />
-0,253<br />
<br />
0,8<br />
<br />
KTC 95%<br />
0,9-270,1<br />
0,001-1,1<br />
2,6-749,7<br />
1,7-1902<br />
<br />
p<br />
0,064<br />
0,059<br />
0,010<br />
0,023<br />
0,837<br />
<br />
67<br />
<br />
Theo bảng 4, có 4 yếu tố còn được giữa lại trong mô hình cuối cùng, đó là tuổi ≥ 75, giới<br />
nữ, ASPECTS ≤ 7, tăng đường huyết lúc nhập viện. Tuy nhiên tuổi và giới nữ không có ý<br />
nghĩa thống kê với p > 0,05. Như vậy ASPECTS ≤ 7 và tăng đường huyết lúc nhập viện có ý<br />
nghĩa dự đoán độc lập với tiên lượng tử vong sau 3 tháng với tỷ lệ tiên đoán đúng 95,2%.<br />
BÀN LUẬN<br />
Bệnh nhân có tăng đường huyết lúc nhập viện (≥ 126mg/dL) có hậu quả chức năng xấu<br />
gấp 3,4 lần bệnh nhân có đường huyết bình thường (KTC 95% = 1,7-8) (bảng 1). Sau khi<br />
phân tích đơn biến nhằm xác định tương quan giữa các yếu tố với hồi phục chức năng của<br />
bệnh nhân 3 tháng sau khởi phát, chúng tôi chọn những yếu tố có ý nghĩa thống kê và yếu<br />
tố có p < 0,25 đưa vào phân tích hồi quy logistic đa biến. Sau khi hiệu chỉnh nhằm loại dần<br />
những yếu tố gây nhiễu khác, thang điểm NIH và tăng đường huyết lúc nhập viện là hai<br />
yếu tố còn lại trong mô cuối cùng có giá trị tiên đoán hậu quả chức năng với p < 0,05 (Wald<br />
test). Tăng đường huyết lúc nhập viện sẽ làm tăng nguy cơ hậu quả chức năng xấu sau 3<br />
tháng lên 5 lần và độc lập với các yếu tố nguy cơ khác (bảng 3). Kết quả này hoàn toàn phù<br />
hợp với nghiên cứu của Bùi Thị Vân Hương (2007)(2), tác giả kết luận bệnh nhân tăng đường<br />
huyết lúc nhập viện có khả năng hồi phục vận động tốt sau 3 tháng thấp hơn so với bệnh<br />
nhân không có tăng đường huyết (58,3% so với 92,9%), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê<br />
(p = 0,000). Nghiên cứu đa trung tâm về đột quy của Châu Âu (European BIOMED Stroke<br />
Project)(9) đã khẳng định có tình trạng tàn phế và mất chức năng nhiều hơn ở người tăng<br />
đường huyết lúc nhập viện so với người không tăng đường huyết. Cũng như nghiên cứu<br />
của van Kooten và cs (1993)(16) ghi nhận bệnh nhân ở ngưỡng test nhanh đường huyết ≥<br />
6,7mmol/L hoặc đường huyết bất kỳ ≥ 8mmol/L làm tăng hậu quả chức năng xấu gấp 2,7<br />
lần (KTC 95% = 1,17-6,16). Weir và cs (1997)(18) nhận thấy đường máu ≥ 8mmol/L sau NMN<br />
báo trước tiên lượng xấu xếp sau các yếu tố tuổi, mức độ nặng của NMN và thể NMN.<br />
Khi xét đến tiên lượng tử vong chúng tôi xác định tăng đường huyết lúc nhập viện<br />
làm tăng nguy cơ tử vong lên 9,7 lần (KTC 95% = 1,2-77,3) (bảng 2). Sau khi đưa các yếu<br />
tố tiên lượng tử vong vào phân tích hồi quy logistic đa biến, chúng tôi ghi nhận 4 yếu tố<br />
được giữ lại ở mô hình cuối cùng bao gồm tuổi, giới, ASPECTS và tăng đường huyết lúc<br />
nhập viện. Tuy nhiên chỉ có hai yếu tố được xem là có ý nghĩa thống kê với p < 0,05<br />
(Wald test), đó là ASPECTS và tăng đường huyết lúc nhập viện. Tăng đường huyết lúc<br />
nhập viện sẽ làm tăng nguy cơ tử vong sau ba tháng lên 57 lần và độc lập với các yếu tố<br />
nguy cơ khác (bảng 4). Nghiên cứu của Sacco và cs (1993)(11) ghi nhận tình trạng tăng<br />
đường huyết (đường huyết bất kỳ > 7,8 mmol/L) bao gồm cả bệnh nhân ĐTĐ và không<br />
bệnh ĐTĐ làm tăng nguy cơ tử vong lên 3 lần (KTC 95% = 1,5-7,5). Nghiên cứu của<br />
Capes và cs (2001)(3) tổng hợp 32 nghiên cứu khác nhau đã xác định mức đường huyết<br />
lúc nhập viện > 6-8mmol/L (108-144mg/dL) đều có nguy cơ tương đối với tử vong tại<br />
thời điểm nhập viện và sau 30 ngày ở cả bệnh nhân có bệnh ĐTĐ và bệnh nhân không<br />
có ĐTĐ.<br />
Tương quan giữa tăng đường huyết và hậu quả chức năng cũng như tử vong ở bệnh<br />
nhân NMN là tương quan có ý nghĩa được nhiều nghiên cứu ghi nhận. Tuy nhiên vấn đề<br />
còn bàn cãi chính là tình trạng tăng đường huyết này có liên quan đến ĐTĐ hay không, hay<br />
chỉ là một đáp ứng stress của cơ thể(7,18).<br />
<br />
68<br />
<br />