intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số bất cập trong khái niệm “người nộp thuế” theo pháp luật thuế hiện hành

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

44
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Để đảm bảo nguồn thu này, trách nhiệm pháp lý của các chủ thể nộp thuế trong từng sắc thuế phải được xác định rõ. Tuy nhiên, pháp luật thuế hiện hành đang còn những quy định chưa rõ ràng về khái niệm “người nộp thuế” trong Luật Quản lý thuế và trong từng sắc thuế.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số bất cập trong khái niệm “người nộp thuế” theo pháp luật thuế hiện hành

  1. THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG KHÁI NIỆM “NGƯỜI NỘP THUẾ” THEO PHÁP LUẬT THUẾ HIỆN HÀNH Nguyễn Thị Thủy* Đặng Hoàng Vũ** * TS, GV, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. ** ThS, GV, Trường Đại học Tài nguyên Môi trường TP. Hồ Chí Minh. Thông tin bài viết: Tóm tắt: Từ khóa: người nộp thuế. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Để đảm bảo nguồn thu này, trách nhiệm pháp lý của các chủ thể nộp thuế trong từng sắc Lịch sử bài viết: thuế phải được xác định rõ. Tuy nhiên, pháp luật thuế hiện hành đang Nhận bài: 12/07/2017 còn những quy định chưa rõ ràng về khái niệm “người nộp thuế” trong Biên tập: 10/08/2017 Luật Quản lý thuế và trong từng sắc thuế. Điều này đã gây sự khó khăn, Duyệt bài: 15/08/2017 lúng túng cho cơ quan quản lý thuế trong việc xác định trách nhiệm pháp lý của người nộp thuế. Article Infomation: Abstract: Keywords: taxpayers. Taxs are the main revenue of the state budget. The liability of the taxpayers in each tax must be determined to ensure this local revenue. Article History: However, the existing tax laws still have unclear provisions on the Received: 12 Jul. 2017 concept of "taxpayers" in the Law on Tax Administration and in Edited: 10 Aug. 2017 particular tax, which has made it difficult for the tax administration Appproved: 15 Aug. 2017 agency in determining the liability of taxpayers. Hiện nay, pháp luật về thuế ở nước ta thuế cụ thể bao gồm các quy phạm pháp luật được chia thành hai mảng: pháp luật về quản quy định về đối tượng chịu thuế, người nộp lý thuế và pháp luật quy định đối với từng thuế, những trường hợp không chịu thuế, sắc thuế cụ thể. (i) Pháp luật quản lý thuế căn cứ tính thuế, chế độ miễn giảm,… bao gồm những văn bản pháp luật quy định Điểm chung của hai mảng pháp luật về đăng ký kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế này là chúng đều sử dụng chung một thuật và xử lý vi phạm hành chính thuế. Trước ngữ “người nộp thuế” nhưng lại với hai cách đây, nội dung về đăng ký, kê khai, nộp thuế, định nghĩa, hàm chứa hai nhóm đối tượng quyết toán thuế được quy định trong từng khác nhau. Khái niệm “người nộp thuế” sắc thuế cụ thể. Tuy nhiên, từ năm 2006, trong Luật Quản lý thuế là một khái niệm những nội dung này được quy định trong rộng, bao gồm tổ chức, cá nhân làm phát Luật Quản lý thuế và áp dụng cho tất cả các sinh hành vi chịu thuế theo quy định của sắc thuế. (ii) Pháp luật quy định từng sắc pháp luật về thuế và những tổ chức, cá nhân Số 19(347) T10/2017 51
  2. THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT không thực hiện hành vi chịu thuế nhưng có được từ hành vi chịu thuế. Chẳng hạn, tổ thực hiện việc “nộp thuế thay” cho những chức, cá nhân chỉ phải trả tiền thuế giá trị chủ thể làm phát sinh hành vi chịu thuế. gia tăng (GTGT) nếu hàng hóa, dịch vụ này Trong khi đó, khái niệm “người nộp thuế” có được từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong các sắc thuế lại là một khái niệm hẹp, hoặc nhập khẩu. Vì hoạt động sản xuất kinh chỉ bao gồm tổ chức, cá nhân làm phát sinh doanh hàng hóa, dịch vụ là hoạt động chịu hành vi chịu thuế theo quy định của pháp thuế GTGT. Trường hợp cũng là hành vi tiêu luật về thuế, mà không hàm chứa nhóm chủ dùng hàng hóa, nhưng hàng hóa này không thể “nộp thuế thay”. phải có được từ hành vi chịu thuế thì họ Như vậy, nếu “người nộp thuế” (hiểu cũng không phải trả tiền thuế cho Nhà nước. ở nghĩa là người nộp thay) theo quy định Ví dụ, hộ gia đình tự làm bánh biếu người của Luật Quản lý thuế năm 2006 không thực thân, bạn bè để sử dụng trong dịp Tết. Việc hiện hành vi nộp thuế có bị coi là hành vi tiêu dùng bánh trong trường hợp này không trốn thuế không? Ai sẽ phải chịu trách nhiệm phải trả tiền thuế cho Nhà nước vì hành vi trước pháp luật về việc không nộp thuế cho làm bánh của hộ gia đình không phải là hành Nhà nước? Người nộp thuế thay hay người vi chịu thuế. thực hiện hành vi chịu thuế (tức người nộp Chủ thể chịu thuế không được đề cập thuế theo quy định tại các sắc thuế?). trong pháp luật về quản lý thuế và cũng 1. Các chủ thể thực hiện nghĩa vụ thuế đối không được quy định trong pháp luật đối với với Nhà nước từng sắc thuế. Chủ thể chịu thuế chỉ có trong - Chủ thể chịu thuế: Trong lý luận về lý luận về thuế. Chính vì vậy, chủ thể chịu thuế, chủ thể chịu thuế là tổ chức, cá nhân thuế (người trả tiền thuế trong thuế gián thu) phải trả tiền thuế cho Nhà nước hay còn không phải chịu trách nhiệm pháp lý theo gọi là người chịu thuế. Người chịu thuế là quy định của pháp luật về thuế3. Ví dụ: một chủ thể sử dụng những hàng hóa, dịch vụ món hàng được bán với giá 10.500.000đ có được từ hoạt động sản xuất kinh doanh (giá đã có thuế GTGT) nhưng người bán hoặc nhập khẩu (đối với thuế gián thu)1 và thỏa thuận nếu ngưới mua không lấy hóa những chủ thể có thu nhập chịu thuế (đối với đơn thì chỉ phải trả 10.000.000đ. Nếu người thuế trực thu)2. Trong thuế gián thu, các tổ mua đồng ý không lấy hóa đơn thuế GTGT chức, cá nhân khi sử dụng hàng hóa, dịch vụ và chỉ trả 10.000.000đ, mặc dù 500.000đ chịu thuế phải trả tiền thuế cho Nhà nước. tiền thuế GTGT người mua không phải trả Tiền thuế của các sắc thuế gián thu được cấu nhưng người mua không vi phạm pháp luật thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ, vì vậy, về thuế mà chỉ vi phạm quy định của pháp nghĩa vụ trả tiền thuế của các chủ thể này sẽ luật về hóa đơn (do không yêu cầu người bán cùng lúc với việc họ thanh toán tiền hàng xuất hóa đơn). Trong tình huống này, người hóa, dịch vụ cho người bán. bán phải chịu trách nhiệm pháp lý trước Nhà Sở dĩ, chủ thể chịu thuế phải thực hiện nước (vì vi phạm pháp luật thuế) do nghĩa nghĩa vụ trả tiền thuế cho Nhà nước vì họ có vụ của người bán (người nộp thuế) phải thu hành vi tiêu dùng những hàng hóa, dịch vụ khoản tiền thuế này từ người mua để nộp 1 Thuế gián thu là loại thuế cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ. Trong thuế gián thu người trả tiền thuế là người tiêu dùng, người nộp thuế là người cung ứng hàng hóa, dịch vụ. 2 Thuế trực thu là loại thuế thu trực tiếp vào người nộp thuế. Trong thuế gián thu, người nộp thuế và người chịu thuế (người phải trả tiền thuế cho Nhà nước) là một. 3 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính về thuế không quy định hành vi vi phạm trong trường hợp người mua hàng không trả tiền thuế khi mua hàng. Duy chỉ có khoản 1, Điều 24, Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ quy định nghĩa vụ của người mua hàng: “Yêu cầu người bán lập và giao hóa đơn khi mua hàng hóa, dịch vụ”. 52 Số 19(347) T10/2017
  3. THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT cho Nhà nước nhưng họ không thực hiện. Với những phân tích trên đây, thì - Chủ thể nộp thuế: Là tổ chức, cá nghĩa vụ nộp thuế của người thực hiện nhân phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho hành vi chịu thuế là nghĩa vụ theo luật định. Nhà nước. Nghĩa vụ nộp thuế này cấu thành Nghĩa vụ nộp thuế của chủ thể nộp thuế từ hành vi chịu thuế được quy định tại các thay là nghĩa vụ được thiết lập trên cơ sở sắc thuế. Tùy từng sắc thuế mà hành vi chịu thỏa thuận của người thực hiện hành vi chịu thuế là khác nhau. Chẳng hạn, đối với các thuế và chủ thể nộp thuế thay. Trong quan sắc thuế gián thu như thuế tiêu thụ đặc biệt hệ pháp luật về thuế, có hai chủ thể cơ bản (TTĐB), thuế GTGT thì hành vi chịu thuế là là các cơ quan quản lý thu thuế và đối tượng hành vi sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch nộp thuế. Đối tượng nộp thuế là tất cả các tổ vụ chịu thuế hoặc nhập khẩu hàng hóa chịu chức, cá nhân có đủ điều kiện phải nộp một thuế. Đối với thuế xuất khẩu, nhập khẩu loại thuế nhất định. Các văn bản pháp luật thì hành vi chịu thuế là hành vi xuất khẩu, thuế cụ thể đều nêu rõ đối tượng này6. Vậy, nhập khẩu hàng hóa chịu thuế. Đối với các nếu chủ thể nộp thuế thay thực hiện nghĩa vụ sắc thuế trực thu như thuế thu nhập doanh nộp thuế cho chủ thể thực hiện hành vi chịu nghiệp, thuế thu nhập cá nhân thì hành vi thuế thì có là chủ thể tham gia quan hệ pháp chịu thuế là hành vi làm phát sinh thu nhập luật thuế thay chủ thể thực hiện hành vi chịu thuộc đối tượng chịu thuế. Chủ thể nộp thuế thuế được không? phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà 2. Quy định của pháp luật về người nộp nước vì họ thực hiện hành vi chịu thuế. Căn thuế và chủ thể làm thủ tục về thuế thay cứ vào các yếu tố lý luận trên đây, thì chủ người nộp thuế thể nộp thuế trong pháp luật về thuế chính là Luật Quản lý thuế năm 2006 và văn “Người nộp thuế” được quy định trong các bản hướng dẫn thi hành không đưa ra khái sắc thuế. “Người nộp thuế là các chủ thể có niệm đối tượng nộp thuế và đối tượng nộp nghĩa vụ kê khai, nộp thuế theo luật định. thuế thay mà chỉ đưa ra khái niệm người Nếu không thực hiện nghĩa vụ này hoặc thực nộp thuế. Theo quy định tại Điểm c, Khoản hiện không đúng sẽ chịu các chế tài pháp 1, Điều 2, Luật Quản lý thuế năm 2006 thì luật. Trong các văn bản pháp luật thuế quy người nộp thuế có thể tạm phân thành hai định rõ các người nộp thuế”4. nhóm7: - Chủ thể nộp thuế thay: Là những tổ Nhóm một: Đối tượng nộp thuế là chức, cá nhân thực hiện hành vi nộp thuế chủ thể có nghĩa vụ đăng ký, kê khai, nộp thay cho chủ thể thực hiện hành vi chịu thuế. thuế theo quy định của từng sắc thuế cụ thể. Chủ thể này mặc dù không thực hiện hành Nhóm chủ thể này được quy định cụ thể vi chịu thuế nhưng họ thực hiện nghĩa vụ trong các đạo luật thuế. cuối cùng của người nộp thuế trong các sắc thuế đó là nộp thuế vào ngân sách nhà nước. Nhóm hai: Tổ chức, cá nhân khấu trừ Những chủ thể nộp thuế không phải phát thuế; tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế sinh từ nghĩa vụ của họ theo quy định của thay người nộp thuế. Nhóm chủ thể này pháp luật thuế mà theo thỏa thuận của họ được quy định cụ thể tại Điểm D, Khoản 1, đối với người nộp thuế. Trong quy định của Điều 2 Thông tư số 156/2013/TT-BTC của pháp luật thuế thì họ chính là “Tổ chức, cá Bộ Tài chính ngày 06/11/2013. nhân khấu trừ thuế; tổ chức, cá nhân làm thủ Nghĩa vụ nộp thuế của các chủ thể tục về thuế thay người nộp thuế”5. thuộc nhóm một là nghĩa vụ theo luật định. 4 Giáo trình Luật Thuế tái bản (2016) - Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 46. 5 Điểm c khoản 1 Điều 2 Luật Quản lý thuế năm 2006. 6 Giáo trình Luật Thuế Việt Nam (2008), Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, tr. 33. 7 Giáo trình Luật Thuế tái bản (2016), Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 66. Số 19(347) T10/2017 53
  4. THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT Cụ thể, khi tham gia quan hệ pháp luật thuế, thuế nên không chịu trách nhiệm đối với những chủ thể này có hành vi tác động lên những vấn đề pháp lý phát sinh từ hành vi đối tượng chịu thuế (tức thực hiện hành thực hiện thủ tục về thuế, trách nhiệm này vi chịu thuế) thì phải có nghĩa vụ đăng ký thuộc về đối tượng nộp thuế. Chủ thể kinh thuế, khai thuế, nộp thuế và thực hiện các doanh dịch vụ về thuế chỉ chịu trách nhiệm thủ tục về thuế theo quy định của pháp luật. pháp lý đối với những hành vi vượt quá Tuy nhiên, do tính phức tạp và yêu cầu ứng phạm vi ủy quyền theo quy định của pháp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động luật dân sự. quản lý thuế nên thủ tục hành thu đòi hỏi - Chủ thể cung cấp dịch vụ về thuế phải ngày càng tỉ mỉ, có tính chuyên môn được đối tượng nộp thuế ủy quyền ký các hóa cao. Chính vì vậy, pháp luật quản lý thủ tục về thuế và chịu trách nhiệm pháp lý thuế ghi nhận quyền của người thực hiện phát sinh từ hành vi đó. Tuy nhiên, vì chủ hành vi chịu thuế (để tiện theo dõi, chúng thể cung cấp dịch vụ về thuế không trực tiếp tôi gọi nhóm chủ thể này là đối tượng nộp tham gia quan hệ pháp luật thuế mà tham gia thuế) được ký hợp đồng với tổ chức kinh với tư cách chủ thể làm thủ tục về thuế thay doanh làm dịch vụ về thuế để những tổ chức đối tượng nộp thuế, do đó trong trường hợp này thực hiện các thủ tục về thuế thay. Cụ này, họ gián tiếp thực hiện nghĩa vụ của đối thể, Khoản 1, Điều 2, Thông tư số 117/2012/ tượng nộp thuế đối với Nhà nước, còn trách TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 19/7/2012 nhiệm pháp lý phát sinh vẫn thuộc về đối hướng dẫn về hành nghề dịch vụ làm thủ tục tượng nộp thuế trước cơ quan thuế. về thuế quy định: “Tổ chức kinh doanh dịch Như vậy, chủ thể cung cấp dịch vụ về vụ về thuế thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, thuế tham gia vào quan hệ pháp luật thuế với nộp thuế, quyết toán thuế, lập hồ sơ đề nghị tư cách là người thực hiện một số thủ tục về miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế và các thủ thuế thay đối tượng nộp thuế. Hành vi của tục hành chính về thuế khác thay người nộp họ không làm phát sinh nghĩa vụ nộp thuế thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế và của đối tượng nộp thuế mà họ chỉ thực hiện hợp đồng dịch vụ đã ký kết”. nghĩa vụ nộp thuế thay. Nghĩa vụ nộp thuế Với quy định này, tổ chức kinh doanh phát sinh từ hành vi chịu thuế của đối tượng dịch vụ về thuế chỉ được tiến hành cung cấp nộp thuế. Do đó, nếu người nộp thuế thay dịch vụ thuế cho đối tượng nộp thuế trong tham gia vào quan hệ pháp luật thuế với tư giới hạn pháp luật cho phép, một số hoạt cách là chủ thể cung cấp dịch vụ thuế cho động không được phép như rà soát sổ sách đối tượng nộp thuế mà vừa phải chịu trách kế toán, khiếu nại thuế, đại diện người thực nhiệm trước chủ thể thực hiện hành vi chịu hiện hành vi chịu thuế giải trình các số liệu thuế với tư cách là người vi phạm nghĩa vụ trước cơ quan thuế, cơ quan tiến hành tố trong hợp đồng (trách nhiệm dân sự), vừa tụng. Như vậy, chủ thể làm dịch vụ về thuế phải chịu trách nhiệm hành chính hoặc trách thay không mặc nhiên được đại diện cho đối nhiệm hình sự trước Nhà nước (hành vi của tượng nộp thuế thực hiện tất cả các dịch vụ đối tượng nộp thuế) tùy theo tính chất, mức về thuế mà bị giới hạn bởi phạm vi hợp đồng độ vi phạm là điều không thể. dịch vụ thuế đã ký kết. Chúng ta có thể chia 3. Một số bất cập trong khái niệm “người trách nhiệm của chủ thể cung cấp dịch vụ về nộp thuế” thuế làm hai trường hợp sau8: Trong hai mảng pháp luật quản lý thuế - Chủ thể cung cấp dịch vụ về thuế và pháp luật quy định đối với từng sắc thuế không trực tiếp tham gia quan hệ pháp luật cụ thể, có sự giao nhau ở một khái niệm 8 Xem Trần Minh Hiệp (2010), Pháp luật về tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr. 17. 54 Số 19(347) T10/2017
  5. THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT chung, đó là khái niệm về “người nộp thuế”. đây gọi là người nhập khẩu)”, hoặc “người Tuy nhiên các văn bản pháp luật hiện nay nộp thuế” trong Luật Thuế TTĐB năm 2008, chưa có quy định nào để phân biệt khái niệm Điều 4 có quy định “người nộp thuế TTĐB “người nộp thuế” theo “Luật Quản lý thuế” là tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng (cái chung) và khái niệm “người nộp thuế” hóa và kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng trong các sắc thuế cụ thể (cái riêng), mặc chịu thuế TTĐB”. dù nội hàm của hai khái niệm này là khác Từ những so sánh trên cho thấy, các nhau, nó chỉ giống nhau ở khía cạnh ngôn sắc thuế cụ thể không thể gom quy định chủ ngữ, còn về định nghĩa trong các quy định thể “nộp thuế thay” (tức là nhóm (2) trong của pháp luật thì nó là khác nhau. Sự khác Luật Quản lý thuế, theo phân tích ở trên) nhau đó được thể hiện ở một số điểm chính vào quy định “người nộp thuế ”. Nghĩa là, như sau: trong các sắc thuế cụ thể thì chủ thể nào làm Thứ nhất, theo khoản 1 Điều 2 Luật phát sinh “hành vi chịu thuế” thì đó chính Quản lý thuế năm 2006, “người nộp thuế” là “người nộp thuế”, còn “người nộp thuế gồm những đối tượng sau đây: thay” không được định nghĩa, nó có thể là (a) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp một hành vi dịch vụ hay một chủ thể trung thuế theo quy định của pháp luật về thuế; gian nào đó (chịu sự điều chỉnh của các pháp luật khác, chứ không phải pháp luật về thuế). (b) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp Tuy nhiên, cũng có một số sắc thuế cụ thể có các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà quy định cho “chủ thể nộp thay” cũng được nước (sau đây gọi chung là thuế) do cơ quan tính là “người nộp thuế”, ví dụ Luật Thuế quản lý thuế quản lý thu theo quy định của xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2016, Điều pháp luật; 3, Khoản 4 về “người được ủy quyền, bảo (c) Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế; tổ lãnh và nộp thuế thay cho người nộp thuế”, chức, cá nhân làm thủ tục về thuế thay người cho thấy ở đây có sự không thống nhất về nộp thuế. cách định nghĩa cho “người nộp thuế” ở các Từ đây cho thấy, khái niệm “người sắc luật thuế cụ thể. Điều này thể hiện sự nộp thuế” trong Luật Quản lý thuế là một thiếu đồng bộ giữa cách định nghĩa của Luật khái niệm rất rộng, có thể chia nó thành hai Quản lý thuế (cái chung) và các sắc thuế cụ nhóm: (1) Những tổ chức, cá nhân thực hiện thể (cái riêng). Có sắc thuế thì định nghĩa hành vi chịu thuế theo quy định của các sắc “người nộp thuế” theo nghĩa rộng như cách thuế nên có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước; định nghĩa của Luật Quản lý thuế, nhưng (2) Những tổ chức, cá nhân không thực hiện phần lớn các sắc thuế thì định nghĩa “người hành vi chịu thuế nhưng thực hiện việc nộp nộp thuế” theo nghĩa hẹp, tức là loại trừ một thuế thay cho những chủ thể chịu thuế. phần đối tượng “người nộp thuế” theo cách Đối với nhóm (1) thì “người nộp thuế” định nghĩa của Luật Quản lý thuế (ở đây, tập là không có sự phân biệt trong quy định giữa trung cho nhóm “nộp thuế thay”). “Luật Quản lý thuế” và các sắc thuế cụ thể Đối với nhóm (2), đó là những tổ (có thể nói là nội hàm của khái niệm trùng chức, cá nhân không thực hiện hành vi chịu nhau). Ở đây, tổ chức, cá nhân nào đã thực thuế nhưng thực hiện việc nộp thuế thay hiện hành vi chịu thuế thì cũng là “người cho những chủ thể chịu thuế. Họ có thể là nộp thuế”. Ví dụ, “người nộp thuế” trong doanh nghiệp, chi nhánh, đại lý, tổ chức tín quy định của Luật Thuế GTGT năm 2008, dụng hoặc cá nhân được chủ thể chịu thuế Điều 4 có quy định “Người nộp thuế GTGT ủy quyền để nộp thay. Về nguyên tắc, những là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh đối tượng thuộc nhóm này không có nghĩa hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT (sau đây vụ phải nộp thuế, việc nộp thuế là của chủ gọi là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân thể khác (chủ thể thực hiện hành vi chịu nhập khẩu hàng hóa chịu thuế GTGT (sau thuế), nhưng họ phải có trách nhiệm làm Số 19(347) T10/2017 55
  6. THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT thay công việc “đi nộp” theo ủy quyền của Song song với mâu thuẫn trong định bên thực hiện hành vi chịu thuế (họ là bên nghĩa “người nộp thuế” như đã phân tích, nhận ủy quyền). Mặc dù vậy, một số quy nếu đối chiếu với các quy định của pháp luật định của pháp luật về thuế có tính ràng buộc khác có liên quan như Luật Xử lý vi phạm đối với hành vi của họ, đó là những quy định hành chính hay Bộ luật Hình sự để xử lý về mặt thủ tục như kê khai, quyết toán, hoàn các hành vi gian lận về thuế, trốn thuế, ... thuế,… Vì thế mà Luật Quản lý thuế đã gom thì sẽ rất khó để xác định những cấu thành nhóm đối tượng này vào định nghĩa “người vi phạm, đặc biệt là về mặt chủ thể. Ví dụ, nộp thuế”, dù phần lớn các sắc thuế cụ thể Điều 161, Khoản 1 của Bộ luật Hình sự năm vẫn “bỏ ngỏ”, loại trừ nhóm đối tượng này 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có quy trong định nghĩa “người nộp thuế” (trừ thuế định “Người nào trốn thuế với số tiền từ một xuất khẩu và thuế nhập khẩu). Nếu xét về trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng khía cạnh lý luận pháp lý, thì vẫn có thể hoặc dưới một trăm triệu đồng nhưng đã bị hiểu những đối tượng “nộp thuế thay” cũng xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc là “người nộp thuế”, bởi vì những sắc thuế đã bị kết án về tội này hoặc về một trong cụ thể không quy định nhưng Luật Quản lý các tội quy định tại các Điều 153, 154, 155, thuế có quy định. 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, Cách định nghĩa trong Luật Quản lý 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật thuế và các sắc thuế cụ thể tuy có mâu thuẫn, này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, nhưng không phải mâu thuẫn loại trừ nhau thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số mà là mâu thuẫn biện chứng để bổ sung cho tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam nhau. Trong các sắc thuế cụ thể, dù không giữ đến hai năm”. Như vậy, pháp luật hình định nghĩa “người nộp thay” là “người nộp sự chỉ quy định chủ thể của tội trốn thuế là thuế”, nhưng cũng không có quy định để loại “người nào”, mà không nêu rõ là “người nộp trừ “người nộp thuế không được ủy quyền thuế thật” hay “người nộp thuế thay”. Cho cho người khác nộp thay”, khiếm khuyết đó nên, trong trường hợp “người nộp thuế thật” đã được Luật Quản lý thuế bổ sung, nhưng đã ủy quyền cho “người nộp thuế thay” tiến không tách thành hai khái niệm mà Luật đã hành các thủ tục kê khai và nộp thuế, nhưng gộp hai nhóm đối tượng đó vào với nhau người nộp thuế thay không thực hiện thì chủ trong cùng một định nghĩa. Như vậy, những thể của tội trốn thuế được xác định như thế chủ thể của pháp luật thuế vẫn có thể áp nào trong trường hợp này? Nếu xử lý “người dụng song song các quy định của Luật Quản nộp thuế thật” tội trốn thuế thì không chứng lý thuế và quy định của từng sắc thuế cụ thể. minh được hành vi phạm tội của họ, thậm Chủ thể thực hiện hành vi chịu thuế có thể chí bỏ sót tội phạm, nhưng nếu xử lý “người áp dụng theo sắc thuế riêng có liên quan, nộp thuế thay” tội trốn thuế thì rõ ràng họ nhưng chủ thể làm thủ tục kê khai và nộp không thuộc “đối tượng phải nộp thuế” thì thuế có thể áp dụng theo Luật Quản lý thuế. không thể ghép được họ vào hành vi “trốn”. Tuy nhiên, cách hiểu này dễ tạo nhầm lẫn, Do đó, tách biệt hai đối tượng chủ thể này ra nhập nhằng giữa nội hàm của cái chung và thành hai định nghĩa riêng biệt sẽ phù hợp cái riêng trong một định nghĩa có cùng ngôn hơn là gộp chung khái niệm với nhau như từ là “người nộp thuế” ở các sắc luật khác quy định hiện hành của pháp luật về thuế. nhau, một định nghĩa là bản chất “nộp thật”, 4. Một số kiến nghị còn định nghĩa kia là hiện tượng “làm thủ tục nộp”… dẫn đến cách hiểu không thống Từ các bất cập đã phân tích, chúng tôi nhất trong quá trình vận dụng pháp luật về đề xuất nên tách biệt khái niệm theo hướng thuế trên thực tiễn, vì đến thời điểm này vẫn như sau: chưa có quy định để chỉ ra cách phân biệt Một là, đối với Luật Quản lý thuế vẫn về khái niệm “người nộp thuế” trong Luật tiếp tục giữ nguyên khái niệm “người nộp Quản lý thuế và các sắc thuế cụ thể khác. thuế” như hiện hành, ý chỉ “người tiến hành 56 Số 19(347) T10/2017
  7. THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT thủ tục kê khai và nộp thuế”. Trong đó, bất Trên cơ sở phân chia hai khái niệm kỳ chủ thể nào tiến hành thủ tục nộp thuế thì đó, các văn bản pháp luật sẽ định ra quyền đều được hiểu là “người nộp thuế”, bao hàm và nghĩa vụ pháp lý của từng nhóm chủ thể cả “người nộp thuế thật” (chủ thể làm phát với một cách hiểu thống nhất, “người nộp sinh hành vi chịu thuế) và “người nộp thuế thuế là người nộp thuế”, “đối tượng nộp thay” (chỉ tiến hành thủ tục kê khai và nộp thuế là đối tượng nộp thuế”, quyền của thuế theo ủy quyền của chủ thể làm phát sinh hành vi chịu thuế) trong trường hợp “người người nào thì người đó hưởng, nghĩa vụ của nộp thuế thật” không tự tiến hành các thủ tục người nào thì người đó chịu. Kiến nghị này kê khai và nộp thuế. sẽ khắc phục được những hạn chế khi có Hai là, đối với các sắc thuế cụ thể thì hành vi liên đới, nhập nhằng trong trường thay khái niệm “người nộp thuế” theo quy hợp “người nộp thuế thay” (cũng được định định hiện hành thành khái niệm mới là “đối nghĩa là “người nộp thuế”) không thực hiện tượng nộp thuế”, ý chỉ “chủ thể làm phát các nội dung theo ủy quyền của “người nộp sinh hành vi chịu thuế”. Như vậy, với kiến thuế thật” (cũng được định nghĩa là “người nghị này thì các sắc thuế cụ thể sẽ không nộp thuế”). Trong khi đó, các quy định về còn tồn tại khái niệm “người nộp thuế”, điều quyền và nghĩa vụ pháp lý thì vẫn đang dùng này sẽ tạo được tính đồng bộ, không chồng chung cho khái niệm “người nộp thuế” mà chéo giữa các sắc thuế cụ thể và Luật Quản lý thuế về định nghĩa “người nộp thuế” như chưa có sự phân chia giữa họ với nhau như quy định hiện hành. Theo đó, định nghĩa quy định hiện hành. Khi xây dựng khái niệm “người nộp thuế” trong Luật Quản lý thuế “đối tượng nộp thuế” trong các sắc thuế cụ thuần túy chỉ nhóm chủ thể thực hiện các thể, phải trả lời được câu hỏi: ai phải nộp hành vi về mặt thủ tục, còn định nghĩa “đối thuế? vì sao phải nộp thuế? (sự kiện pháp tượng nộp thuế” trong các sắc thuế cụ thể lý phát sinh nghĩa vụ thuế)9. Ngoài ra, theo thì thuần túy chỉ nhóm chủ thể làm phát sinh chúng tôi, cách phân chia này càng đúng với hành vi chịu thuế (nội dung). tinh thần chung của lý luận pháp lý về thuế Với đề xuất này, trong trường hợp “nghĩa vụ về thuế, xét đến cùng là nghĩa “đối tượng nộp thuế” (theo các sắc thuế cụ vụ của người thực hiện hành vi chịu thuế”, thể) tự mình tiến hành các thủ tục kê khai và trong trường hợp “người nộp thuế thay” đăng ký thuế (theo Luật Quản lý thuế) thì họ sẽ đóng hai vai với hai khái niệm khác nhau không thực hiện hành vi theo ủy quyền về tương ứng, vừa là “đối tượng nộp thuế”, thuế thì trách nhiệm suy đến cùng cũng do vừa là “người nộp thuế”. Ngược lại, nếu họ “người nộp thuế thật” chịu. Ủy quyền giống không tự mình thực hiện các thủ tục đó mà như một dạng của hợp đồng, có ký kết giao ủy quyền cho chủ thể khác tiến hành thì họ ước thì cũng có ký kết thanh lý hợp đồng, từ chỉ còn một vai là “đối tượng nộp thuế”, vai đó pháp luật hành chính và hình sự sẽ loại còn lại tách ra cho người đi nộp thay “người trừ “hành vi trốn thuế” đối với người “nộp nộp thuế”. Sẽ không còn sự nhầm lẫn, nhập thuế thay”, những thiệt hại do hành vi của nhằng về chủ thể ở đây, do cách hiểu không người “nộp thuế thay” sẽ chuyển về các quy thống nhất về khái niệm như quy định hiện hành. Từ đó, việc vận dụng các quy định của định bồi thường thiệt hại trong pháp luật pháp luật vào trong thực tiễn sẽ rõ ràng và dân sự dễ dàng hơn. 9 Giáo trình Luật Thuế tái bản (2016) - Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam tháng 10/2016, tr. 46. Số 19(347) T10/2017 57
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2