intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự

Chia sẻ: Manoban Lisa | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

82
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về ủy thác thi hành án, quyền hạn và trách nhiệm của Chấp hành viên trong việc thực hiện ủy thác thi hành án dân sự, tham luận chỉ ra những vướng mắc, bất cập và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự

  1. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ỦY THÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ SOME FAILURES AND RECOMMENDATIONS TO COMPLETE LAW ON ENTRUSTMENT OF CIVIL JUDGMENT ENFORCEMENT NCS. Lê Đức Hiền1, ThS. Trịnh Ngọc Thủy2 Tóm tắt – Uỷ thác thi hành án dân sự là một chế định pháp luật về việc chuyển giao toàn bộ hoặc từng phần quyết định thi hành án từ cơ quan thi hành án này sang cơ quan thi hành án khác theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định nhằm đảm bảo việc thi hành án các bản án, quyết định của Toà án liên tục và trên thực tế, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng các quy định pháp luật khi thực hiện ủy thác thi hành dân sự có một số vướng mắc, bất cập nhất định. Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về ủy thác thi hành án, quyền hạn và trách nhiệm của Chấp hành viên trong việc thực hiện ủy thác thi hành án dân sự, tham luận chỉ ra những vướng mắc, bất cập và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện. Từ khóa: Luật Thi hành án dân sự, thi hành án dân sự, ủy thác thi hành án dân sự. 1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ỦY THÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động ủy thác thi hành án dân sự đó là: Điều 55, Điều 56 và Điều 57 Luật Thi hành án dân sự năm 2018; Điều 16, Điều 34 và Điều 35 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ; Điều 8, Thông tư liên tịch số 07/2018/TTLT – BTP – VKSNDTC – TANDTC ngày 12/6/2018 của Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn quy định việc phối hợp trong thi hành quyết định của tòa án giải quyết phá sản. Ủy thác thi hành án dân sự là việc thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự nơi có thẩm quyền ra quyết định thi hành án thực hiện việc chuyển giao quyền ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành vụ việc đến cơ quan thi hành án dân sự 1 Trường Đại học Quy Nhơn; Email: duchiendhqn@gmail.com 2 Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum 315
  2. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành để đảm bảo hiệu quả thi hành án, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Về nguyên tắc, thẩm quyền ủy thác thi hành án dân sự được quy định như sau: ‘Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở’ [1]; ‘Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản là bất động sản, động sản phải đăng kí quyền sở hữu, quyền sử dụng, đối với loại tài sản khác thì có thể ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự nơi có tài sản tổ chức thi hành’ [2]. Căn cứ các quy định nêu trên, việc ủy thác thi hành án dân sự thuộc trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự nơi có thẩm quyền ra quyết định thi hành án lần đầu; nếu tại đó, người phải thi hành án không có điều kiện thi hành mà đang có điều kiện thi hành án ở nơi khác thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan thi hành án khác có điều kiện tổ chức thi hành vụ việc. Nơi có điều kiện thi hành án ở đây được xác định theo nguyên tắc:là nơi người phải thi hành án có tài sản; là nơi người phải thi hành án làm việc (tức là nơi người phải thi hành án có hoạt động tạo thu nhập); nơi người phải thi hành án cư trú (trong trường hợp người phải thi hành án là cá nhân) hoặc có nơi người phải thi hành án có trụ sở (trong trường hợp người phải thi hành án là pháp nhân). Về thời điểm ủy thác thi hành án, Điều 55, Luật Thi hành án dân sự 2018 chỉ quy định về căn cứ ủy thác, trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự phải ủy thác trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ khi có căn cứ ủy thác, khả năng ủy thác từng phần mà không thực sự xác định rõ là việc ủy thác được thực hiện trước khi ra quyết định thi hành án hay sau khi ra quyết định thi hành án. Mặc dù pháp luật không quy định cụ thể về thời điểm ủy thác thi hành án nhưng tại Khoản 3, Điều 55 Luật Thi hành án dân sự quy định: việc ủy thác phải thực hiện trong khoản thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày xác định có căn cứ ủy thác. Trường hợp thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định ủy thác thi hành án sau khi đã ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành: theo quy định tại Khoản 1, Điều 57 Luật Thi hành án dân sự 2018, trước khi ủy thác, cơ quan thi hành án dân sự phải xử lí xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn liên quan đến khoản ủy thác. Do đó, trong trường hợp bản án, quyết định có nội dung xử lí tạm giữ, thu giữ, tài sản liên quan đến khoản ủy thác (như tiêu hủy vật chứng, trả lại giấy tờ) thì cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án mặc dù người phải thi hành án không có tài sản, không làm việc hoặc cư trú tại địa bàn của mình. Thẩm quyền ủy thác thi hành án được quy định tương đối cụ thể tại Điều 56 Luật Thi hành án dân sự, cụ thể như sau: 316
  3. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” Thẩm quyền ủy thác thi hành án của cấp tỉnh: Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi khác thi hành các bản án, quyết định sau: bản án, quyết định về nhận người lao động, trở lại làm việc hoặc bồi thường thiệt hại mà người phải thi hành án là cơ quan nhà nước cấp tỉnh trở lên; bản án, quyết định có yếu tố nước ngoài hoặc liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ; quyết định của trọng tài thương mại; quyết định xử lí vụ việc cạnh tranh của hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh. Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh ủy thác cho cơ quan thi hành án cấp quân khu thi hành các vụ việc mà đương sự hoặc tài sản có liên quan đến quân đội trên địa bàn; ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện các vụ việc khác (trừ những vụ việc thuộc loại ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi khác và cơ quan thi hành án cấp quân khu thi hành nêu trên) [1]. Thẩm quyền ủy thác thi hành án của cấp huyện: Khoản 2, Điều 56, Luật Thi hành án dân sự quy định: cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có thể ủy thác những vụ việc thuộc thẩm quyền thi hành án của mình cho cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nơi khác, cơ quan thi hành án cấp quân khu, cấp huyện khác có điều kiện thi hành. Thẩm quyền ủy thác thi hành án của cấp quân khu được quy định tại Khoản 3, Điều 56 Luật Thi hành án dân sự 2018: Cơ quan thi hành án cấp quân khu ủy thác vụ việc thuộc thẩm quyền thi hành án của mình cho cơ quan thi hành án cấp quân khu khác, cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh hoặc cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có điều kiện thi hành. Về trách nhiệm của cơ quan ủy thác thi hành án được quy định cụ thể như sau: Thực hiện đúng thời hạn thực hiện ủy thác thi hành án, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày xác định có căn cứ ủy thác [1]. Đối với trường hợp cơ quan thi hành án phải xử lí xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản ủy thác theo quy định tại Khoản 1, Điều 57 Luật Thi hành án dân sự, thời hạn 05 ngày làm việc được tính từ thời điểm xử lí xong tài sản. Đối với trường hợp cần thiết và thuộc diện phải ủy thác việc thi hành quyết định của tòa án về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, việc ủy thác phải thực hiện ngay sau khi có căn cứ ủy thác. Phải xử lí xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản ủy thác mới được thực hiện việc ủy thác. Trước khi ủy thác, cơ quan thi hành án dân sự phải xử lí xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản ủy thác theo quy định tại Khoản 1, Điều 57 Luật Thi hành án dân sự, không được đồng thời thực hiện hai việc vừa xử lí các tài sản đó, vừa ra quyết định ủy thác thi hành án. 317
  4. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” Phải thực hiện việc thu hồi quyết định thi hành án: Khi có căn cứ để ủy thác thi hành án, đối với trường hợp đã ra quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án theo quy định tại Khoản 1, Điều 57 Luật thi hành án dân sự. Khi ra quyết định thu hồi quyết định thi hành án cần lưu ý chỉ thu hồi phần nghĩa vụ thi hành án tương ứng với phần nghĩa vụ sẽ ủy thác thi hành án. Phải thực hiện việc ra quyết định ủy thác theo quy định: Quyết định ủy thác thi hành án phải ghi rõ nội dung ủy thác, khoản đã thi hành xong, khoản tiếp tục thi hành và các thông tin cần thiết cho việc thực hiện ủy thác theo quy định tại Khoản 4, Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP. Phải thiết lập hồ sơ ủy thác và lưu trữ theo quy định: Hồ sơ ủy thác gồm có quyết định ủy thác thi hành án, bản án, quyết định; quyết định thi hành án, quyết định thu hồi quyết định thi hành án (nếu có), bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản và các tài liệu khác có liên quan (nếu có) theo đúng quy định tại Khoản 4, Điều 16 của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP. Trong trường hợp phải ủy thác cho nhiều nơi, cơ quan thi hành án dân sự sao chụp bản án, quyết định và các tài liệu khác có liên quan thành nhiều bản tương ứng, có đóng dấu của cơ quan thi hành án dân sự nơi ủy thác để gửi cho cơ quan thi hành án nơi nhận ủy thác. Phải thông báo về việc ủy thác thi hành án cho các đương sự và Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định ủy thác thi hành án [1]. Về trách nhiệm của các cơ quan nhận ủy thác thi hành án: Không được trả lại hồ sơ ủy thác nếu không có lí do chính đáng (Khoản 2, Điều 57 Luật Thi hành án dân sự 2018), trừ trường hợp quyết định ủy thác có sự nhầm lẫn, sai sót rõ ràng về thẩm quyền của cơ quan nhận ủy thác thi hành án, sai sót về nội dung thi hành án. Ra quyết định thi hành án: Khi nhận được hồ sơ ủy thác, cơ quan thi hành án dân sự nơi nhận ủy thác phải thực hiện vào sổ nhận quyết định ủy thác thi hành án theo quy định tại Khoản 1, Điều 29 Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp và trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án. Đối với trường hợp nhận ủy thác, việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của tòa án, cơ quan thi hành án dân sự, nơi nhận ủy thác, phải ra ngay quyết định thi hành án và phân công Chấp hành viên áp dụng ngay các biện pháp theo quy định tại Điều 130 Luật Thi hành án dân sự 2018. Thông báo việc nhận ủy thác: trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ ủy thác, cơ quan thi hành án nơi nhận ủy thác phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy thác về việc nhận được quyết định ủy thác. 318
  5. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” 2. MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH VỀ ỦY THÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN Thứ nhất, về nguyên tắc, căn cứ ủy thác: Tại Khoản 1, Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định: ‘Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản là bất động sản, động sản phải đăng kí quyền sở hữu, quyền sử dụng; đối với loại tài sản khác thì có thể ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự nơi có tài sản tổ chức thi hành” [2]. Trong khi đó, Điều 55 Luật Thi hành án dân sự 2018 quy định gần như mang tính bắt buộc: ‘Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở’ [1]. Như vậy, nội dung quy định tại Khoản 1, Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP chưa có sự phù hợp với quy định tại Điều 55 Luật Thi hành án dân sự 2018, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau: bắt buộc phải ủy thác hay có thể thực hiện ủy thác cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở. Thứ hai, về thứ tự thực hiện ủy thác trong trường hợp người phải thi hành án có nhiều tài sản ở nhiều nơi. Tại Khoản 2, Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định: ‘Trường hợp người phải thi hành án có nhiều tài sản ở nhiều nơi thì cơ quan thi hành án dân sự thực hiện ủy thác theo thứ tự sau đây: a) Theo thỏa thuận của đương sự; b) Nơi có tài sản đủ để thi hành án; c) Trường hợp tài sản không đủ để thi hành án thì ủy thác đến nơi có tài sản giá trị lớn nhất, nơi có nhiều tài sản nhất” [2]. Theo quy định tại Điểm c, Khoản 2, Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, nếu trong trường hợp tài sản của người phải thi hành án không đủ để thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự thực hiện ủy thác đến nơi người phải thi hành án: ‘có tài sản giá trị lớn nhất, nơi có nhiều tài sản nhất’ [2]. Tuy nhiên, quy định này lại chưa chỉ ra cách xác định cụ thể cơ quan thi hành án dân sự sẽ thực hiện ủy thác đến đâu trong trường hợp có cả hai nơi: ‘nơi có tài sản giá trị lớn nhất’ và ‘nơi có nhiều tài sản nhất’. Vậy, ủy thác đến nơi nào? Mặt khác, căn cứ quy định Khoản 2, thứ tự thực hiện ủy thác như sau: ưu tiên hàng đầu là theo thoả thuận của đương sự (Điểm a); tiếp theo là nơi có tài sản để thi hành án (Điểm b) và cuối cùng là trường hợp tài sản không đủ để thi hành án thì ủy thác đến nơi ‘có tài sản giá trị lớn nhất, nơi có nhiều tài sản nhất’ (Điểm c). Như vậy, với quy định tại 319
  6. Hội thảo Khoa học “Các vấn đề đương đại trong lĩnh vực Kinh tế, Luật: Từ lí thuyết đến thực tiễn” Điểm c, Khoản 2, Điều 16, tổng giá trị tài sản mới là điều cần quan tâm để có thể xem xét, quyết định trong trường hợp tài sản ở đó không đủ để thi hành án. Từ những bất cập trên, chúng tôi kiến nghị, để đảm bảo không trái với các nguyên tắc của Luật Thi hành án dân sự, cần bỏ từ ‘có thể’ ủy thác thi hành án theo quy định tại Nghị định 62/2015/NĐ-CP. Đồng thời, Nghị định cần quy định rõ cơ sở để cơ quan thi hành án dân sự xác định được nơi có tài sản đủ để thi hành án hoặc nơi có tài sản có giá trị lớn nhất, nơi có nhiều tài sản nhất để ủy thác thi hành án. Cụ thể như sau: Căn cứ bản án, quyết định của Tòa án, kết quả xác minh, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở. Bên cạnh đó, chúng ta cần thống nhất Điểm c, Khoản 2, Điều 16, xem xét sửa đổi, bổ sung Nghị định số 62/2015/NĐ-CP như sau: Nơi có giá trị tài sản lớn nhất nếu tài sản không đủ để thi hành án. 3. KẾT LUẬN Nhằm góp phần giảm bớt chi phí của Nhà nước và đương sự cũng như tổ chức thi hành các bản án hiệu quả, việc hoàn thiện pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự là điều cần thiết. Bài viết đã chỉ ra những bất cập và đề xuất các kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự cần được cụ thể và chi tiết hơn để hoạt động này diễn ra nhanh chóng và mang lại hiệu quả cao. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Quốc hội Nước CHXHCN Việt Nam. Luật Thi hành án dân sự. 2018. [2] Chính phủ Nước CHXHCN Việt Nam. Nghị định hướng dẫn Luật Thi hành án dân sự. Nghị định số 62/2015/NĐ-CP. 2015. 320
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2