TẠP CHÍ KHOA HỌC<br />
Khoa học Xã hội, Số 5 (6/2016), tr 120 - 129<br />
<br />
MỘT SỐ BIỂU HIỆN CỦA BẢN SẮC DÂN TỘC<br />
TRONG NGÔN NGỮ TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ MIỀN NÚI SAU ĐỔI MỚI<br />
<br />
Điêu Thị Tú Uyên<br />
Khoa Tiểu học - Mầm non, Trường Đại học Tây Bắc<br />
<br />
<br />
Tóm tắt: Bản sắc dân tộc là yếu tố làm nên nét đặc trưng, giá trị cốt lõi, độc đáo của ngôn ngữ tiểu thuyết<br />
viết về miền núi sau đổi mới. Bài viết tìm hiểu và chỉ ra các phương diện biểu hiện chủ yếu của bản sắc dân tộc<br />
trong ngôn ngữ của tiểu thuyết viết về miền núi từ sau đổi mới: nhà văn sử dụng với mật độ lớn ngôn ngữ so<br />
sánh, ví von mang tính hình tượng cao; vận dụng tự nhiên, nhuần nhị thành ngữ, tục ngữ của đồng bào dân tộc<br />
miền núi; mô phỏng, tái hiện lối diễn đạt của người dân tộc thiểu số, khơi gợi không khí, sắc vẻ cuộc sống và con<br />
người miền núi.<br />
Từ khóa: Bản sắc dân tộc, ngôn ngữ, tiểu thuyết, miền núi, sau đổi mới.<br />
<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
Bản sắc dân tộc được hiểu là các giá trị đặc trưng bản chất của văn hóa dân tộc được<br />
hình thành, tồn tại và phát triển trong suốt quá trình lâu dài của dân tộc và được trao truyền từ<br />
thế hệ này sang thế hệ khác. Trong tiểu thuyết viết về miền núi từ sau đổi mới (1986), với ý<br />
thức bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, độc đáo của miền núi và dân tộc, các nhà<br />
văn đã có nhiều cố gắng thể hiện và khẳng định bản sắc dân tộc trên nhiều phương diện của<br />
thể loại như đề tài, cảm hứng nghệ thuật, cốt truyện, giọng điệu, ngôn ngữ, nhân vật… Trong<br />
đó, ngôn ngữ là phương diện thể hiện nổi bật bản sắc dân tộc. Sự mộc mạc, giản dị, hồn<br />
nhiên, thi vị, giàu tính hình tượng cùng sức khơi gợi từ trong chiều sâu những giá trị văn hóa<br />
đặc sắc trong ngôn ngữ đã giúp độc giả nhận ra đặc trưng văn hóa vùng miền khá rõ nét. Bản<br />
sắc dân tộc đã trở thành nét đặc trưng của ngôn ngữ tiểu thuyết viết về miền núi từ sau đổi<br />
mới. Trong phạm vi của bài viết, chúng tôi chỉ phân tích một số biểu hiện nổi bật nhất của<br />
bản sắc dân tộc trong ngôn ngữ của những tiểu thuyết tiêu biểu viết về miền núi thời kì sau<br />
đổi mới.<br />
2. Bản sắc dân tộc trong ngôn ngữ tiểu thuyết viết về miền núi sau đổi mới<br />
2.1. Bản sắc dân tộc biểu hiện ở ngôn ngữ so sánh mang tính hình tượng cao<br />
Tính hình tượng của ngôn ngữ văn học là tính chất của các yếu tố ngôn ngữ có khả năng<br />
tưởng tượng, liên tưởng và gợi lên được các biểu tượng về sự vật, hiện tượng hoặc con người<br />
được miêu tả trong tác phẩm văn học. Ngôn ngữ của các tiểu thuyết viết về miền núi sau đổi<br />
mới thể hiện tính hình tượng cao. Đó là các yếu tố ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu tính tạo hình,<br />
khơi gợi một cách cụ thể, sinh động hiện thực và con người miền núi. Tính hình tượng của<br />
<br />
Ngày nhận bài: 2/2/2016. Ngày nhận đăng: 20/7/2016<br />
Liên lạc: Điêu Thị Tú Uyên- mail: tuuyentbu@gmail.com<br />
<br />
<br />
<br />
120<br />
ngôn ngữ được tạo nên từ việc các nhà văn sử dụng với mật độ lớn phương thức so sánh, ví<br />
von, trong cả ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ nhân vật. Điều này có cơ sở từ cách tư duy của<br />
đồng bào dân tộc thiểu số. Đó là cách tư duy trực giác, tư duy vật chất hóa. Các sự vật, hiện<br />
tượng, khái niệm trừu tượng thường được chuyển hóa, được cắt nghĩa bằng cách so sánh với<br />
các hình ảnh vật chất cụ thể, dễ hiểu, gần gũi trong cuộc sống xung quanh. Các nhà văn đã<br />
vận dụng lối tư duy đặc trưng này của người miền núi để sáng tạo ngôn ngữ cho tác phẩm của<br />
mình. Hiện thực đời sống (tự nhiên và xã hội) và tâm tư, tình cảm của con người được họ<br />
quan sát, mô tả hết sức cụ thể, sống động qua các hình ảnh so sánh, ví von.<br />
So sánh được dùng nhiều nhất trong ngôn ngữ trần thuật, khi miêu tả thiên nhiên, con<br />
người. Các hình ảnh so sánh sinh động khiến cảnh thiên nhiên miền núi vốn đã đẹp càng trở<br />
nên thi vị hay hùng vĩ hơn trong hình dung của độc giả: “Núi như những chàng khổng lồ<br />
khoác vai nhau giăng tận chân trời. Xen kẽ những ngọn đồi, và cánh đồng màu mỡ, những<br />
thảm nương xanh mướt khi mùa đang xanh… đâu đâu cũng đồi núi điệp trùng. Sương như<br />
mây phủ kín những đỉnh non cao...” [17,32]; “Thác Phja Bjooc đổ xuống từ độ cao gần sáu<br />
mươi sải tay. Triệu triệu những bụi nước từ dòng thác như tấm lưới khổng lồ tung lên trời<br />
cao, rồi trùm xuống vạn vật cách nó cả trăm thước” [16,442]. Qua cách so sánh, cảnh thiên<br />
nhiên có lúc hiện lên dịu dàng đầy vẻ lãng mạn: “Buổi sáng trên cao nguyên dịu dàng như cô<br />
dâu trong ngày cưới” [10,68], có lúc lại hùng vĩ, gây ấn tượng mạnh mẽ: “… những giọt nước<br />
trên lớp cỏ vùi trong sương mù... Khi lờ lững, lúc cuộn như sóng băng qua những thung sâu,<br />
vượt lên những đỉnh núi như đàn ngựa tung vó, khiến ánh trăng thu vốn sáng là vậy phút chốc<br />
trở nên mờ tối” [16,142]. Ngôn ngữ kể, tả của nhiều tiểu thuyết qua phương thức so sánh trở<br />
nên giàu tính tạo hình, khơi gợi ở độc giả sự liên tưởng cao độ về một thiên nhiên vùng cao<br />
vô cùng sống động, đầy bí ẩn và kì diệu. Các hình ảnh so sánh cũng giúp nhà văn phác họa<br />
chân dung con người miền núi cụ thể, chân thực mà sinh động hơn. Từ vẻ đẹp ngoại hình<br />
khỏe khoắn, đầy sức sống hay duyên dáng, cuốn hút của những chàng trai, cô gái miền sơn<br />
cước: “On xinh tươi khỏe khoắn như mầm cây” [20,43]; “Trai thanh gái lịch, trai nụ gái hoa,<br />
trai non gái trẻ mặt sáng như gương, mắt long lanh như mắt họa mi, môi đỏ như cánh hoa<br />
mạ” [5,5]; “… me là bông hoa đẹp nhất trong rừng hoa trên đỉnh Phja Booc. Mỗi bước đi<br />
mềm mại hơn cả những dải mây hồng trong nắng” [17,317] đến vẻ đẹp của “cái phẩm chất<br />
và tâm hồn trong vắt như suối rừng mùa thu, không bon chen, tị hiềm, đố kị” [16,141].<br />
Trong ngôn ngữ nhân vật, cách so sánh, ví von cũng tạo nên sự sống động cho lời nói,<br />
biểu hiện lối nói chân chất, mộc mạc của người miền núi. Trong Hoa mí rừng (Địch Ngọc<br />
Lân), nhân vật Yleng tỏ lòng biết ơn Thông khi anh đã vượt qua nhiều khó khăn, định kiến<br />
của gia đình, xã hội để cưu mang cô: “Em thấy bộ đội Thông vất vả với em hơn con nai bơi<br />
ngược dòng sông lũ” [8,85]. Câu nói ví von của Yleng gợi cho độc giả hình dung rõ khó khăn<br />
mà Thông phải đối mặt, phải trải qua để giúp đỡ mẹ con cô. Ở Trên đỉnh đèo dông bão (Đoàn<br />
Hữu Nam), khi trở về quê hương với tư cách là một đại diện của Việt Minh về làm công tác<br />
tư tưởng, vận động bà con dân bản làm cách mạng, Lay nói với bà con: “Cháu biết việc này<br />
<br />
121<br />
khó như tay không bơi qua thác, nhưng nếu cả bản đồng lòng như ruốc cá, thì cháu tin không<br />
việc gì không làm được” [10,224]. Những hình ảnh so sánh “việc này khó như tay không bơi<br />
qua thác”, “cả bản đồng lòng như ruốc cá” đã khẳng định mạnh mẽ quyết tâm của Lay và<br />
đồng đội về việc làm một cuộc cách mạng, thay đổi tư tưởng và cuộc sống của đồng bào nơi<br />
đây. Hình ảnh so sánh “đồng lòng” như “ruốc cá” vừa thể hiện cách nói của địa phương vừa<br />
gợi cho độc giả tưởng tượng một cảnh lao động tập thể của người dân địa phương. Người ta<br />
ngăn một khúc suối lại, dùng lá thả xuống làm cho cá say, sau đó cả bản cùng xuống dồn cá<br />
lại để bắt. Khi so sánh “đồng lòng” như “ruốc cá” là Lay đã chuyển tải đến bà con một cách<br />
cụ thể, dễ hiểu mà sinh động lời kêu gọi tinh thần đoàn kết. Đoàn Hữu Nam, nhà văn của<br />
mảnh đất Lào Cai là người nắm rất vững, hiểu rất sâu văn hóa của vùng đất này. Bản sắc dân<br />
tộc không chỉ hiện lên trong những mảng hiện thực đời sống và con người miền núi ông<br />
khám phá mà còn thể hiện rõ nét trong ngôn ngữ nhà văn sáng tạo, nhất là ngôn ngữ nhân vật.<br />
Người miền núi thường dùng lối nói ví von để biểu đạt nhận thức, tư tưởng, tình cảm của<br />
mình. Trong Thổ phỉ, Đoàn Hữu Nam cũng rất ưa dùng cách nói ví von này khi xây dựng<br />
ngôn ngữ nhân vật. Các cuộc đối thoại của các nhân vật thường xuất hiện khá dày đặc những<br />
lời nói ví von, bóng gió cho thấy sự thâm trầm, sâu sắc của những người đã trải nghiệm nhiều<br />
gian nan, khắc nghiệt của cuộc sống. Chẳng hạn cuộc đối thoại giữa hai ông cháu cụ Giáo<br />
Choong về chuyện Dùn cháu cụ nhất định tham gia thổ phỉ:<br />
“- Con người phải biết lấy phận mình, ở cành này với sang cành khác không gẫy cành thì<br />
cũng rơi xuống đất đấy… Đừng như con rùa mượn mai nữa…<br />
- Cứ dao sợ gỗ rắn, gỗ rắn sợ dao mãi thì làm được cái gì.<br />
- Mày phải biết ong có độc đến mấy nhưng gặp sừng trâu cũng phải chừa ra.<br />
- Nhưng sừng trâu, sừng bò nào. Mưa gió bão bùng cuốn vạn vật vào cơn lũ ống thì đành<br />
chịu…<br />
- Lý sự, lý sự… những kẻ lấy mồm làm cánh mà muốn che cả bầu trời, lấy tay làm vây<br />
mà định bơi qua bốn biển thì đúng thực là một lũ rồ.<br />
- Nhưng chúng cháu…<br />
- Lửa không nóng mà tro nóng, cái gì có thì bảo có, cái gì không thì bảo không, coi trái,<br />
coi phải, nhìn trước nhìn sau cho rõ… lời nói của ông khó vào tai cháu, nhưng cháu ơi, khỉ<br />
già biết cành cây khô, thấy cháu đang từ con đường sáng đi vào con đường tối thì ông nhắm<br />
mắt làm ngơ sao được…” [11,65].<br />
Khác với các nhà văn người miền xuôi viết về miền núi, vốn là người bản địa, các nhà<br />
văn dân tộc thiểu số như Vi Hồng, Triều Ân, Ma Trường Nguyên, Vương Trung thường sử<br />
dụng tự nhiên, nhuần nhị lối so sánh, ví von hồn nhiên, mộc mạc, mang tính trực giác cao của<br />
đồng bào dân tộc thiểu số. Mỗi một hình ảnh so sánh đều có khả năng gợi liên tưởng một<br />
cách trực tiếp và rất sống động. Lối so sánh, ví von ở đây cũng có bản sắc riêng. Nó không chỉ<br />
cụ thể, mộc mạc, trực quan, giàu hình ảnh mà còn chứa đựng trong đó cái nhìn và cách cảm,<br />
cách nghĩ bộc trực, hồn nhiên, đôi khi hết sức dân dã của người miền núi. Đây chính là điều<br />
<br />
122<br />
tạo nên nét bản sắc văn hóa độc đáo cho ngôn ngữ tiểu thuyết viết về miền núi. Trong số các<br />
nhà văn này, Vi Hồng là người dùng nhiều nhất hình ảnh so sánh trong tác phẩm của mình.<br />
Tiểu thuyết của ông xuất hiện tới hàng trăm hình ảnh so sánh khác nhau. Trai gái yêu nhau,<br />
quấn quyện bên nhau được so sánh như ong quyện mật, cháy bỏng như ngọn lửa bén bãi cỏ<br />
gianh khô. Còn người đau buồn thì lòng se sắt, héo úa “nhói đau như chảy hóa nước” [5,13],<br />
“như lá dong héo phơi nắng, như lá khô rơi trong đêm sương muối” [5,14]. Sức cuốn hút, hấp<br />
dẫn của tiếng lượn ngày xuân được ví như “như dòng thác vun vút cứ lao vào không trung”<br />
[5,39], “như những con chim én bay ngang giữa bầu trời xuân” [5,40]. Sức mạnh của lời nói<br />
được so sánh “lời nào cũng rắn như đá, chắc như dao sắc chém vào thân cây chuối” [5,28].<br />
Sự dài dòng của câu chuyện cũng được ví “nói cái gì dài dòng như suối như sông” [4, 99].<br />
Ngoài những hình ảnh so sánh mang tính trực giác, cụ thể, Vi Hồng sử dụng cả những hình<br />
ảnh so sánh xuề xòa, thô tháp: “Hôm qua mình đã xua đuổi kịch liệt như người ta đuổi con bọ<br />
xít đốt hoa mướp” [5,16]. Tất cả đều mang nét hồn nhiên, mộc mạc, có sức khơi gợi cao độ<br />
liên tưởng của người đọc về đặc trưng sự việc, không gian, con người miền núi.<br />
Có thể nhận thấy, trong ngôn ngữ của tiểu thuyết viết về miền núi sau đổi mới, phép so<br />
sánh, ví von đã được các nhà văn sử dụng như một thủ pháp tạo hình đặc trưng và hữu hiệu.<br />
Các hình ảnh so sánh, ví von được dùng “đậm đặc” trong hầu hết các tác phẩm có giá trị độc<br />
đáo trong việc tạo tính hình tượng cho ngôn ngữ. Đồng thời, nó cũng có ý nghĩa như một thủ<br />
pháp nghệ thuật nhằm tái hiện sự sống, chuyển tải nhiều thông điệp khác nhau về cuộc sống<br />
và khí chất của con người miền núi. Với sự hiểu biết kĩ và khả năng khơi sâu vào cái riêng, đặc<br />
sắc của vùng văn hóa, các nhà văn đã tạo nên một thế giới ngôn từ độc đáo trong các tiểu thuyết<br />
viết về miền núi. Những hình ảnh so sánh, ví von đặc sắc khiến cuộc sống được cắt nghĩa một<br />
cách giản đơn mà phong phú, sinh động. Đồng thời giúp độc giả hiểu và cảm nhận một cách<br />
sâu sắc đời sống và con người miền núi, những bản thể người hồn nhiên, cương trực, quả cảm<br />
và vô cùng mạnh mẽ.<br />
Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy, việc sử dụng phương thức so sánh trong ngôn ngữ tiểu<br />
thuyết viết về miền núi sau đổi mới đôi lúc cũng bộc lộ hạn chế. Một số nhà văn, nhất là các<br />
nhà văn dân tộc thiểu số lạm dụng việc so sánh, ví von dẫn đến sự khiên cưỡng, sáo mòn.<br />
Những cách so sánh “… nói huyên thuyên như nước chảy xuống thác, như gió lùa qua bãi cỏ<br />
khô” [3,17]; “Việt Minh về, cả Suối Hoa đều biết họ mạnh như lũ cuốn, bão dồn, tốt như người<br />
trời giáng xuống” [10, 116]; “Quanh bờ vũng nước là những phiến đá bằng phẳng như những<br />
chiếc ghế đá công viên rơi lác đác những chiếc lá vàng khô lập lờ trong gió núi thì thào” [15,<br />
75]… đã gây cảm giác sáo, nhàm chán. Chúng làm giảm khả năng phân tích lí tính, một trong<br />
những yêu cầu của ngôn ngữ văn chương hiện đại. Đây cũng là một thực tế đặt ra cho các nhà<br />
văn, để họ vừa phải thể hiện được một cách tự nhiên, nhuần nhị, có chiều sâu bản sắc văn hóa<br />
dân tộc trong ngôn ngữ vừa phải tìm tòi, đổi mới để ngôn ngữ mang chất tiểu thuyết thực sự.<br />
2.2. Bản sắc dân tộc thể hiện ở sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ của đồng bào dân tộc miền<br />
núi trong ngôn ngữ<br />
<br />
123<br />
Không chỉ ưa lối nói so sánh, ví von, người miền núi còn quen dùng thành ngữ, tục ngữ<br />
trong lời nói. Những thành ngữ, tục ngữ giản dị được đúc rút từ trải nghiệm sống của nhiều thế hệ<br />
đã làm cho lời nói của họ trở nên thâm thúy, sâu sắc hơn. Người miền núi vốn kiệm lời, ít giải<br />
thích dài dòng, nói đâu chắc đó, nên thói quen dùng thành ngữ, tục ngữ cũng làm tăng thêm độ<br />
hàm súc cho lời nói, thể hiện đúng cách giao tiếp ngôn ngữ đặc trưng của họ. Do là người bản<br />
địa, sử dụng tiếng mẹ đẻ song song với tiếng Việt, các nhà văn người dân tộc thiểu số đã vận<br />
dụng một cách rất tự nhiên thành ngữ, tục ngữ của địa phương mình vào ngôn ngữ trần thuật và<br />
ngôn ngữ nhân vật. Ma Trường Nguyên thường dùng nguyên vẹn thành ngữ hoặc câu tục ngữ<br />
trong lời kể, tả: “Mường Cốc Tát trăm cái miệng thành ngọn thác, trăm cái tai thành tai rừng…<br />
Cái thằng cha căng chú kiết ấy mà nó lấy không được con vợ đẹp đổ núi lệch rừng” [14, 22]; “Từ<br />
ngày có hợp tác xã mường Cốc Tát, ké giữ chân nuôi dê… Thật là cái câu: “Khó nuôi dê, rỗi<br />
nghề nuôi ngỗng” [14, 26]; Vi Hồng cũng ưa dùng nguyên văn thành ngữ, tục ngữ nhưng lại đan<br />
xen vào lời nói của nhân vật. Diễn tả ý làm việc qua mặt người đã thành thạo hơn mình, câu nói<br />
của Chim Ca với Hạ Chi “À, xin lỗi cô giáo văn chương. Anh thật là đã múa trước mặt con công”<br />
[5,72] thể hiện sự ứng xử khéo léo của người con trai Tày. Khuyên Hoàng dứt bỏ lối sống thực<br />
dụng, vụ lợi để sống đúng với lương tâm của người thầy thuốc, Hồi nói ngắn gọn mà thâm thúy:<br />
“Nhiều bác sĩ cũng như công nhân viên là người Tày họ nói về anh bằng cái câu tục ngữ Tày<br />
quen thộc chắc anh còn nhớ! “Ốc nào chẳng là ốc ăn bùn”, “Hổ nào là hổ ăn chay”, “Người làm<br />
quan nào ăn rau thay thịt” [3, 25]. Trong khi đó, nhiều thành ngữ, tục ngữ lại được Triều Ân biến<br />
đổi, hòa vào lời kể của tác giả hoặc lời nói của nhân vật mà vẫn diễn tả được những ý tứ sâu xa.<br />
Lan nói với Piao: “Anh có tin lời các cụ nói không, con lợn lấy mồm dũi đi trước thì được ăn.<br />
Con người buông lời thề thốt quá sớm sẽ không thể được” [1, 40]; “Piao nhớ lời Lan nói sợ ăn<br />
thịt chim phượng nhắm với rượu… đây là lời nói xúi gở, chỉ gặp rủi thôi. Lúc khác hoặc người<br />
khác, Piao sẽ nói lại, hoặc mắng mỏ vì lời nói dông ấy” [1, 41]. Những thành ngữ, tục ngữ được<br />
đan cài một cách tự nhiên, hồn nhiên trong câu nói như thế khiến độc giả nhanh chóng hiểu thấu<br />
được phong thái, bản tính của người dân tộc thiểu số.<br />
Đối với các nhà văn người Kinh viết về miền núi, việc hiểu biết và tiếp thu ngôn ngữ của<br />
đồng bào dân tộc ít người để chuyển hóa vào tác phẩm là một việc làm có ý nghĩa đặc biệt. Một<br />
mặt, giúp cho tác phẩm của họ có sự phản ánh chân thực nhất hiện thực và con người miền núi.<br />
Mặt khác, tạo được bản sắc văn hóa dân tộc vốn là đặc trưng riêng của văn học miền núi. Tuy<br />
nhiên, việc sử dụng ngôn ngữ của đồng bào dân tộc ít người sao cho tự nhiên, không phải là một<br />
sự bắt chước kệch cỡm, ngô nghê lại đòi hỏi tài năng, công sức của các nhà văn. Đoàn Hữu Nam,<br />
nhà văn từng đoạt nhiều giải thưởng của Hội Văn nghệ Lào Cai cho các sáng tác về miền núi Lào<br />
Cai, luôn thấu tỏ sâu sắc nếp tư duy của đồng bào miền núi Lào Cai nơi ông sống và viết. Nên<br />
tiểu thuyết của ông sử dụng khá nhiều và linh hoạt những thành ngữ, tục ngữ của đồng bào dân<br />
tộc thiểu số. Các cuốn Dốc người, Tình rừng, Trên đỉnh đèo dông bão, Thổ phỉ đều xuất hiện<br />
nhiều thành ngữ, tục ngữ có ý nghĩa thâm thúy, sâu sắc. Đa số thành ngữ, tục ngữ được nhà văn<br />
dùng làm cho ngôn ngữ trần thuật và ngôn ngữ nhân vật đều có được cái tự nhiên, thâm thúy và<br />
<br />
124<br />
đậm sắc vẻ miền núi: “Phù làm quan theo kiểu đo mức nước đóng thuyền” [15, 64]; “Khi ông cởi<br />
bỏ được oan trái, được ra khỏi nhà lao, thì suối Hoa đã thành con trâu mắc sẹo, con cá trong<br />
chậu” [10,52]; “Lay đã quyết thì chẳng khác gì đánh đục vào cột” [10, 108]; “Củ rìu khó mài,<br />
bản tính khó sửa. Làm học trò rồi, ngày ngày nhìn gương cụ giáo, trông gương bạn bè… vậy mà<br />
cái tính ngang tàng trong máu Sắn vẫn không phai nhạt” [11, 99]. Không chỉ thế, việc kết hợp<br />
nhuần nhuyễn giữa thành ngữ, tục ngữ dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số với những triết lí<br />
của chính tác giả qua những trải nghiệm sống còn làm cho tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam mang<br />
tính triết luận đặc sắc. Đoàn Hữu Nam đã dựa trên những triết lí dân gian của đồng bào dân tộc<br />
thiểu số như “Bấc thấm đến đâu, dầu ngấm đến đó”; “Ong độc sợ sừng trâu”; “Khỉ già biết cành<br />
cây khô”; “Thân phận người đàn bà khốn khổ vùi tro bếp nhà người”; “Ăn cơm quên ruộng, ăn<br />
cá quên sông, đẵn cây xong quên rìu”, “Vào rừng không sợ hổ, chỉ sợ con dao bên mình” hòa hợp<br />
trong ngôn ngữ trần thuật của mình để triết lí về sự đói nghèo, về kiếp người, về những bi kịch<br />
cuộc đời, về những cuộc đấu tương tàn… cho người đọc cảm nhận một giọng văn triết luận sắc<br />
sảo. Ngôn ngữ tiểu thuyết viết về miền núi, bên cạnh việc lưu giữ, bảo tồn sắc màu văn hóa dân<br />
tộc, rất cần những giọng văn triết luận như thế. Ma Văn Kháng, cây bút gạo cội từng có nhiều<br />
thành công khi viết về đề tài miền núi từ trước thời kì đổi mới tiếp tục thể hiện sự linh hoạt và<br />
tinh tế khi tiếp thu vốn thành ngữ, tục ngữ của đồng bào dân tộc ít người để làm đậm đà thêm bản<br />
sắc văn hóa miền núi trong tiểu thuyết của mình. Mỗi một thành ngữ, tục ngữ được nhà văn lựa<br />
chọn đan cài trong lời trần thuật hay lời nhân vật đều giúp độc giả hiểu rõ hơn về khí chất con<br />
người miền núi. Người Mông ưa lối nói ngắn gọn, giản dị nhưng khúc triết. Chẳng hạn câu nói<br />
của Hố Pẩu (người đứng đầu dòng họ) ở La Pan Tẩn với thầy giáo Thiêm: “Ba buổi sáng cũng<br />
đủ là một đời người”. Câu nói truyền từ đời tổ tiên của người Mông đã giúp Thiêm hiểu ra ý<br />
nghĩa thực sự của đời người. Chính lúc Thiêm cảm thấy mình kiệt sức trong cuộc đối đầu với khó<br />
khăn, gian khổ, câu nói của Hố Pẩu văng vẳng bên tai đã vực anh dậy: ““Ba buổi sáng cũng đủ<br />
là một đời người”. Thiêm vùng dậy… bên tai văng vẳng tiếng kẻng gõ từ đâu đó vọng về kích<br />
thúc lòng hăng hái. Con người là một sinh linh không dễ buồn nản. Càng gặp cảnh bi nó càng<br />
phẫn, càng phát” [6,117]. Ngược lại, người Dao lại ưa cách nói dài dòng, vần điệu, hoa mĩ nhưng<br />
cũng thâm thúy: “Vào rừng chẳng biết lối ra/ Thấy cây núc nác ngỡ là vàng tâm. Ông Thòn đâu<br />
có ngu ngơ thế. Chẳng có gì hòng che mắt được ông” [7, 34]…<br />
2.3. Bản sắc dân tộc thể hiện trong việc mô phỏng, tái hiện lời thoại của đồng bào dân<br />
tộc thiểu số<br />
Viết về người miền núi thì phải thuộc được và thể hiện được đúng nếp cảm, nếp nghĩ,<br />
điệu tâm hồn cũng như lời ăn tiếng nói của họ. Chỉ khi đó, tác phẩm mới đạt được độ chân<br />
thực. Bản sắc dân tộc trong ngôn ngữ của tiểu thuyết viết về miền núi sau đổi mới còn thể<br />
hiện ở việc nhà văn mô phỏng, tái hiện lối nói của đồng bào dân tộc thiểu số. Đặc điểm này<br />
thể hiện không đâu rõ bằng ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Các cuộc hội thoại hầu hết<br />
mang đặc trưng của lối kết cấu câu giản dị, chắc gọn, đúng như bản tính kiệm lời của người<br />
miền núi. Cái hay là sự nắm bắt và thể hiện một cách tự nhiên, nhuần nhị “chất” hồn nhiên,<br />
<br />
125<br />
dung dị, mộc mạc, bộc trực của người miền núi khi họ giao tiếp bằng ngôn ngữ với nhau.<br />
Độc giả có thể dựa vào những mẩu, những đoạn đối thoại mà hiểu được tâm tư, tình cảm, bản<br />
tính, con người. Cuộc đối thoại giữa hai người nam nữ trong Tình xứ mây của Ma Trường<br />
Nguyên được tác giả tái hiện bằng cách mô phỏng lối nói của đồng bào dân tộc. Trai gái khi<br />
phải lòng nhau thường nói với nhau những “lời hoa, lời nụ” (Vi Hồng) để ướm thử tình ý:<br />
“Vần đưa cái nhìn tinh nghịch vào đôi mắt Cẩm đang đắm đuối nhìn mình. Cô lại cất lời:<br />
- Nếu anh không chê cốm lép bản Moóc. Tối nay mời anh sang để em được nhờ con sức<br />
tay anh giã giúp cho cốm nhà em thêm dẻo thêm ngọt. Hay anh đã có nhà khác mời rồi?<br />
Cẩm bồi hồi nhìn từng bó lúa hạt xanh chắc mâng mẩng đã xếp gọn ghẽ dọc theo bờ<br />
ruộng. Mặt anh đỏ bừng:<br />
- Em đã có lời xanh màu cốm, lời ngọt vị nếp non, lời thơm hương gạo mới anh xin<br />
vâng…” [15, 24].<br />
Còn đây là cuộc trò chuyện của hai người đàn ông Dao và Mông trong Lửa trong rừng<br />
Sa mu (Hà Trung Nghĩa):<br />
“Thế là đám bạc đánh nhau to. Dân quân, công an đến bắt cả đám, buộc tay Chốn với<br />
mấy đứa rồi lôi cùng nhau lên huyện.<br />
- Hôm nay nữa là năm ngày nó chưa về rồi!<br />
Páo ngáp ba lần, nước mắt tứa ra giàn giụa như khóc, cái miệng móm mém thâm sì mếu<br />
máo:<br />
- Ố pồ! Ma nhà tao thối rồi à! Ma rừng này thành lửa đến nơi rồi lố!<br />
Lão Khì há hốc mồm ngồi nghe bỗng giật mình kêu lên:<br />
- Mồm mày có tổ ong đít đen à? Mày không sợ ma rừng rút lưỡi mày cho chó ăn à?<br />
Vàng Páo cau mặt, lừ mắt nhìn Khì:<br />
- Tao không sợ đâu. Tao muốn được bị thế mà. Tao không muốn sống nữa rồi! Ố pồ!<br />
Gùng lơi! Khổ quá thế này, ma rừng rút lưỡi tao chết luôn. Chết rồi linh hồn tao chơi trên<br />
mây, cái lưỡi tao ở dưới mặt đất, chó ăn cũng tốt, chuột ăn cũng tốt à! Tao chết là rốt, hết<br />
phải khổ mà” [12, 153, 154].<br />
Câu chuyện xoay quanh việc con trai Vàng Páo đi lầm đường. Thái độ bức xúc, thất<br />
vọng của người cha được thổ lộ một cách thật thà, bộc trực qua sự tái hiện lối nói của người<br />
dân tộc thiểu số.<br />
Trong Lạc rừng, Trung Trung Đỉnh kể chuyện Bình, anh lính trẻ lạc đơn vị đã vô tình<br />
gặp và phải sống cùng những người Ba Na xa lạ với mình về ngôn ngữ, về văn hóa. Nhưng<br />
chính sự “nhập cuộc” chân thật của Bình với cuộc sống và cuộc chiến đấu của những người<br />
dân làng Đê Chơ Rang đã mang đến cho anh những trải nghiệm sâu sắc và thú vị. Ở đây, tác<br />
giả đã tái hiện lại một không gian giao tiếp bằng ngôn ngữ mang đậm màu sắc Tây Nguyên<br />
bằng việc tái hiện cách diễn đạt rất đặc trưng theo lối nghĩ của người Ba Na :<br />
“ - Anh Bìn có bắt vợ chưa?<br />
… - Mình chưa bắt được vợ,<br />
<br />
126<br />
- Chờ đánh xong thằng giặc Mỹ à?<br />
- Ừ. Đánh xong thằng Mỹ mình còn đi học nữa. Tôi tâm sự. Học xong đại học rồi lấy vợ<br />
cũng chưa muộn.<br />
- Biết lâu, biết mau. Biết sống, biết chết” [2,34].<br />
Những cách lập luận kiểu “Biết lâu, biết mau. Biết sống, biết chết” hay “Bộ đội miền<br />
Bắc quen đánh địch giỏi, quen chết giỏi” [2,36] thể hiện cách nói vừa mộc mạc vừa thâm<br />
trầm của con người Tây Nguyên.<br />
Nhiều khi cách diễn đạt ý nghĩ của đồng bào dân tộc rất hồn nhiên, ngộ nghĩnh:<br />
“Phù pha một ấm nước rồi cầm ấm lắc lắc, như ở các quán người ta vẫn làm, Phù rót ra<br />
một chén rồi lại đổ vào ấm, Phù hỏi:<br />
- Có giấy làm vợ - chồng rồi, giờ không muốn cùng nhau làm vợ chồng nữa thì gọi là<br />
giấy gì?<br />
- Gọi là cái giấy bỏ nhau, giấy quên nhau… Dơn cũng chưa kịp nghĩ ra nên cứ nói bừa<br />
phứa đi – Giấy thôi nhau…<br />
Phù đọc:<br />
Giấy này viết chữ: không muốn cùng nhau làm vợ chồng. Dơn vừa đánh vần vừa uốn éo<br />
mồm theo từng nét chữ” [12, 215].<br />
Những con người bộc trực, chân chất, hồn nhiên như cây cỏ mà thâm trầm, sâu sắc như<br />
rừng già hiện lên, gợi ấn tượng đặc biệt trong từng trang sách một cách tự nhiên không cần<br />
quá nhiều kĩ thuật xây dựng công phu. Việc mô phỏng, tái hiện lối nói của người dân tộc<br />
thiểu số vào trong ngôn ngữ nhân vật đem lại sắc thái miền núi thú vị cho tác phẩm. Đi tìm<br />
cái hay trong các tiểu thuyết viết về miền núi không phải là tìm một thứ văn phong sắc sảo<br />
với câu chữ, lời nói tân kì, hiểm hóc, những xảo thuật ngôn từ có khả năng làm nhòe mờ tư<br />
tưởng và cảm xúc. Sự sống thực, tình cảm thực, cách nhìn và cách nghĩ thực đã làm nên cái<br />
hay, cái duyên đặc biệt của ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm.<br />
3. Kết luận<br />
Từ năm 1986 đến nay, trong khoảng 30 năm phát triển, diện mạo của tiểu thuyết viết về<br />
miền núi đã và đang có những thay đổi sâu sắc. Xét về phương diện nghệ thuật của thể loại,<br />
ngôn ngữ cũng được đổi mới trên nhiều góc độ, mang đặc trưng thể loại một cách rõ nét hơn.<br />
Nhưng yếu tố không thể tách rời, làm nên giá trị cốt lõi và sức sống của nó chính là bản sắc<br />
dân tộc độc đáo. Bản sắc dân tộc của ngôn ngữ trong các tiểu thuyết viết về miền núi sau đổi<br />
mới thể hiện chủ yếu ở việc sử dụng với mật độ lớn ngôn ngữ so sánh, ví von có khả năng<br />
diễn tả và gợi liên tưởng, tạo hình tượng sinh động về không gian, cuộc sống và con người<br />
miền núi thời kì đổi mới; vận dụng tự nhiên, linh hoạt thành ngữ, tục ngữ dân gian tạo tính<br />
hàm súc cho ngôn ngữ; mô phỏng, tái hiện lối nói của đồng bào dân tộc thiểu số, khơi gợi<br />
không khí, sắc vẻ miền núi. Trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, bản sắc<br />
dân tộc trong ngôn ngữ đã tạo nên nét đặc thù cho tiểu thuyết viết về miền núi. Trong xu<br />
hướng xây dựng nền văn hóa, văn học tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, việc nhà văn hiểu<br />
<br />
127<br />
tường tận và sâu sắc đời sống văn hóa miền núi, lặn thật sâu vào cội nguồn truyền thống để<br />
khám phá và sáng tạo ngôn ngữ văn học chính là biểu hiện của ý thức trân trọng, giữ gìn và<br />
phát huy bản sắc dân tộc. Điều này mang lại cho chúng ta niềm tin về một sự vận động, đổi<br />
mới và phát triển phù hợp với quy luật của tiểu thuyết miền núi trên hành trình hòa hợp với<br />
nền tiểu thuyết đương đại Việt Nam.<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Triều Ân (2009), Tiểu thuyết Triều Ân, Nxb Hội Nhà văn.<br />
[2]. Trung Trung Đỉnh (2002), Lạc rừng, Nxb Phụ nữ.<br />
[3]. Vi Hồng (1990), Người trong ống, Nxb Lao động.<br />
[4]. Vi Hồng (2007), Đọa đày, NXB Hội Nhà văn.<br />
[5]. Vi Hồng (2005), Mùa hoa Boóc Loỏng, Nxb Lao động.<br />
[6]. Ma Văn Kháng (2012), Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, Nxb Hội Nhà văn.<br />
[7]. Ma Văn Kháng (2013), Chuyện của Lý, Nxb Hội Nhà văn.<br />
[8]. Địch Ngọc Lân (2001), Hoa mí rừng, Nxb Quân đội nhân dân.<br />
[9]. Đoàn Hữu Nam (2001), Dốc người, Nxb Công an nhân dân.<br />
[10]. Đoàn Hữu Nam (2004), Trên đỉnh đèo dông bão, Nxb Quân đội nhân dân.<br />
[11]. Đoàn Hữu Nam (2013), Thổ phỉ, Nxb Hội Nhà văn.<br />
[12]. Hà Trung Nghĩa (1996), Lửa trong rừng Sa mu, Nxb Lao động.<br />
[13]. Đào Thủy Nguyên (2013), “Bản sắc văn hóa dân tộc trong văn xuôi các dân tộc<br />
thiểu số Việt Nam thời kì đổi mới và hội nhập”, Tạp chí Nghiên cứu văn học số<br />
3/2013.<br />
[14]. Ma Trường Nguyên (1991), Mũi tên ám khói, Nxb Văn hóa dân tộc.<br />
[15]. Ma Trường Nguyên (1993), Tình xứ mây, Hội Văn nghệ Bắc Thái.<br />
[16]. Cao Duy Sơn (2006), Đàn trời, Nxb Hội Nhà văn.<br />
[17]. Cao Duy Sơn (2009), Chòm ba nhà, Nxb Lao động.<br />
[18]. Cao Duy Sơn, Người lang thang, Nxb Hội Nhà văn.<br />
[19]. Lâm Tiến (1997), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc.<br />
[20]. Hữu Tiến (2007), Dòng đời, Nxb Văn hóa dân tộc.<br />
[21]. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, Nxb Văn hóa - Thông tin.<br />
[22]. Đỗ Bích Thúy (2005), Bóng của cây sồi, Nxb Thanh niên.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
128<br />
ETHNIC IDENTITY IN THE NOVELS<br />
ABOUT THE MOUNTAINOUS REGIONS AFTER THE NATIONAL INNOVATION<br />
<br />
Dieu Thi Tu Uyen<br />
Faculty of Primary and Kindergarten Education, Tay Bac University<br />
<br />
Abstract: Ethnic identity is a constitutive element which makes the core values, the typical characteristics<br />
and the originality of language of the novels about the mountainous regions after national innovation. In this<br />
article, we want to explore the main aspects of ethnic identity manifestation in the language of such novels in<br />
this period. In these works, the writers create highly iconic language; use idioms, proverbs, folk songs of ethnic<br />
minorities and the tone of mountainous ethnic minorities, evoke the atmosphere, the personal charisma of life<br />
and people in mountainous areas.<br />
Keywords: ethnic identity, language, novel, mountain region, after innovation.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
129<br />