intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số đặc điểm nhận biết dòng họ của người Tày ở Huyện Bạch Thông – Tỉnh Bắc Kạn

Chia sẻ: ViNobinu2711 ViNobinu2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

52
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với vai trò to lớn như vậy, dòng họ người Tày có những đặc điểm để nhận biết lẫn nhau. Bài viết đề cập tới một số đặc điểm nhận biết dòng họ của người Tày ở huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Kạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số đặc điểm nhận biết dòng họ của người Tày ở Huyện Bạch Thông – Tỉnh Bắc Kạn

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 10 (35) - Thaùng 12/2015<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Một số đặc điểm nhận biết dòng họ của người Tày ở<br /> Huyện Bạch Thông – Tỉnh Bắc Kạn<br /> <br /> Identifying the Tay clan through typical characters in<br /> Bach Thong district – Bac Kan province<br /> <br /> ThS. Triệu Quỳnh Châu<br /> Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> M.A. Trieu Quynh Chau<br /> Thai Nguyen University of Sciences<br /> <br /> <br /> <br /> Tóm tắt<br /> Người Tày có số dân đông nhất trong các dân tộc thiểu số ở nước ta, cư trú rải rác trên tất cả 63 tỉnh,<br /> thành phố nhưng tập trung tại một số tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng (207.805 người, chiếm 41%<br /> dân số toàn tỉnh), Bắc Kạn tính đến cuối năm 2014 (312.727 người, chiếm 56.35% dân số toàn tỉnh)...<br /> Với địa bàn cư trú đa dạng, người Tày đã tạo nên những sắc thái văn hoá địa phương phong phú.Trong<br /> quan niệm của người Tày, dòng họ người có vị trí đặc biệt quan trọng, là một trong những thành tố cốt<br /> lõi tạo nên xã hội, là nền tảng cho sự tồn tại của thiết chế xã hội truyền thống, giữ vai trò quan trọng chi<br /> phối đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, trong sự phát triển chung của quốc gia. Với vai trò to lớn<br /> như vậy, dòng họ người Tày có những đặc điểm để nhận biết lẫn nhau. Trong phạm vi bài viết này,<br /> chúng tôi chỉ đề cập tới một số đặc điểm nhận biết dòng họ của người Tày ở huyện Bạch Thông tỉnh<br /> Bắc Kạn.<br /> Từ khóa: người Tày, tổ tiên, dòng họ, chi họ họ hàng, tín ngưỡng, kiêng kị...<br /> Abstract<br /> The Tay has the largest population of ethnic minorities in our country, residents scattered across all 63<br /> provinces but concentrate in some northern mountainous provincés such as: Cao Bang (207.805 people,<br /> 41% of the provincial population), Bac Kan at the end of 2014 (312.727 people, 56.35% of the<br /> provincial population)... Withdiverseresidential locality, the Tay made shades ofrichlocal culture. In the<br /> conception of the Tay, clanman is particularly important. As one of the core elements that makes up<br /> society, and as the foundation for the existence of traditional social institutions, plays an important role<br /> todominate to the fields:economy, culture, society, in the overall development of the country. With such<br /> an enormous role, the Tay clan has the characteristics to recognize each other. Within the scope of this<br /> article, we only mention somerecognizablecharacteristicsofthe Tayclan in Bach Thong district, Bac Kan<br /> province.<br /> Keywords: the Tay, ancestor, clan, triberelative, beliefs, taboos…<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 80<br /> 1. Quan niệm về dòng họ của người Tày người có cùng ma. Chính vì vậy nên việc<br /> Người Tày ở Bắc Kạn nói chung hiện thờ cúng của những người trong họ là<br /> nay gồm 3 bộ phận hợp thành đó là bộ những người có cùng cách thờ cúng khi<br /> phận bản địa từ thời nguyên thủy, bộ phận tiến hành các nghi lễ liên quan đến tang<br /> người Tày gốc Kinh ở miền xuôi lên, bộ ma, cúng ma khi ốm đau bệnh tật và thờ<br /> phận Tày – Nùng từ Quảng Tây (Trung cúng tổ tiên. Cùng tên họ là điều dễ nhận<br /> Quốc) đến Bắc Kạn lập nghiệp. Mặc dù ra, còn cách thờ cúng ma và tổ tiên thì chỉ<br /> vậy họ đã sớm hòa hợp, cố kết lại với nhau những thành viên trong dòng họ mới nhận<br /> thành một khối thống nhất vì sứ mệnh và biết được. Những người cùng họ không<br /> lợi ích chung. Chính vì được hợp thành từ nhất thiết chỉ là những người thân thuộc có<br /> 3 bộ phận khác nhau nên người Tày ở Bắc quan hệ họ hàng mà có thể ở những nơi rất<br /> Kạn có rất nhiều họ như họ Hoàng, Nông, xa, thậm chí chưa hề quen biết nhau nhưng<br /> Ma, Đinh, Hà, Đồng, Nguyễn… khi tìm hiểu có cùng những nghi lễ cúng,<br /> Quan niệm về dòng họ được hiểu là cùng ông tổ thì họ có thể nhận là họ hàng<br /> toàn thể những người cùng huyết thống. của nhau. Và khi đã được coi là anh em<br /> Tính huyết thống có thể được tính theo bên cùng dòng họ, mọi người sẽ thật sự cởi<br /> bố (chế độ phụ hệ), hoặc bên mẹ (chế độ mở và gắn bó chặt chẽ và thân thiết với<br /> mẫu hệ). Theo đó, khi nói tới cấu trúc, tổ nhau. Nơi thờ cúng dòng họ của người Tày<br /> chức dòng họ là đề cập tới cấu trúc, tổ chức rất đa dạng, tuy nhiên đối với các họ có<br /> của những người cùng huyết thống. Đối người làm quan hoặc trí thức thì thường có<br /> với trường hợp người Tày, được chọn làm mộ tổ, nhà thờ tổ để thờ cúng. Hàng năm<br /> đối tượng nghiên cứu của luận án này, vào lễ thanh minh (3-3 âm lịch) con cháu<br /> dòng họ là toàn thể những người được tính trong dòng họ tập trung về tảo mộ, lần lượt<br /> theo huyết thống bên bố. các chi trong họ thay nhau đứng ra lo đồ<br /> Về địa bàn cư trú, trước đây, mỗi họ cúng lễ và con cháu trong họ ăn uống ngay<br /> thường tập trungsống trong một bản. Dần tại mộ. Họ quan niệm con người sống sao<br /> dần do yêu cầu phát triển kinh tế văn hóa thì khi chết cũng như vậy nên việc con<br /> hoặc hôn nhân mà có thêm nhiều họ khác cháu trong họ ăn uống ngay tại mộ tổ là để<br /> đến cư trú và cùng sinh sống thuận hòa. cụ tổ chứng cho tấm lòng, phù hộ, tạo phúc<br /> Trong mỗi dòng họ có chi trưởng, chi và giải trừ hoạn nạn cho con cháu. Việc thờ<br /> thứ từ đó hình thành thứ bậc như một quy cúng tổ tiên trong các gia đình của các<br /> định về quan hệ với nhau trong dòng họ. dòng họ cũng có sự khác nhau. Có dòng họ<br /> Nếu như người Nùng, Dao, Sán Chay trong trong bàn thờ tổ tiên có ba, năm hoặc bảy<br /> họ cứ ai nhiều tuổi hơn là anh, là chị thì bát hương. Gia đình nào có ba bát hương là<br /> với người Tày chi trưởng dù ít tuổi hơn vẫn có ba chén thờ thần thánh, gia tiên và bà cô<br /> là anh, là chị. Người con trai trưởng của ông mãnh; gia đình có năm bát hương là<br /> chi trưởng có vai trò quan trọng trong đời mời đến năm đời; gia đình có bảy bát<br /> sống dòng họ. Đó là người tham gia và chủ hương là mời đến bảy đời tổ tiên về ngự.<br /> trì các đám cưới, đám ma, chia gia tài, hòa Nói chung việc thờ cúng cho thấy người<br /> giải mâu thuẫn trong dòng họ và giữa dòng Tày luôn có ý thức về cội nguồn, dòng họ.<br /> họ này với dòng họ khác. Trong hôn nhân, người Tày không kết<br /> Người Tày quan niệm người cùng họ là hôn với người trong họ. Tuy nhiên, trong<br /> <br /> <br /> 81<br /> một họ lại có nhiều chi, nhiều nhánh, nhiều nghĩa mới quý tựa ngàn vàng).<br /> đời nên cũng có trường hợp người cùng họ 2. Lịch sử dòng họ (nguồn gốc)<br /> trên bốn đời lấy nhau nhưng đó là trường Huyện Bạch Thông có 7 dân tộc anh<br /> hợp hãn hữu, gượng ép, không được đồng em cùng chung sống: Tày, Nùng, Kinh,<br /> tình ủng hộ. Họ quan niệm: Tổng sliểu lăng Hoa, Mông, Dao... thuộc các nhóm ngữ hệ<br /> va/ Nà sliểu lăng bjoóc/ Mà chòn choọc khác nhau như: Tày - Thái, Mông - Dao,<br /> thuôn rà. (đồng thiếu gì hương, ruộng Việt - Mường, Hán… Người Tày, Nùng<br /> thiếu gì hoa, mà phải về hái hoa vườn vốn thuộc nhóm Âu - Việt trong khối<br /> nhà). Cưới xin như vậy vừa mất họ hàng, Bách Việt có địa bàn cư trú là miền Bắc<br /> vừa thể hiện sự kém cỏi, đần độn nên mới Việt Nam và miền Hoa Nam Trung Quốc -<br /> phải để dòng họ cưu mang. Liên minh bộ lạc Âu Việt (Tày - Nùng) đã<br /> Người Tày sống theo chế độ phụ cùng với liên minh bộ lạc Việt (Việt -<br /> quyền nên con lấy họ bố. Trong trường hợp Mường) thành lập nên vương quốc Âu -<br /> không có con trai thì họ phải lấy con hoặc Lạc (thế kỷ III trước công nguyên) với thủ<br /> cháu của anh em trong họ làm con nuôi để lĩnh An Dương Vương Thục Phán.<br /> sau này thờ tự, giữ họ nhà và hưởng gia tài. Thời Lý Trần, nhất là thời Lê sơ, nhà<br /> Bất đắc dĩ mới lấy rể đời bởi con rể ở nước phong kiến Việt Nam đặt chế độ<br /> trường hợp này mặc dù được coi như con “Thế tập, phiên thần”, tức chế độ thổ ty,<br /> đẻ, được thừa kế tài sản nhà vợ nhưng đến phái một số công thần hay con cháu của<br /> đời con phải mang họ mẹ, họ của bố chỉ họ chọn trong những phần tử trung kiên<br /> được làm tên đệm. Người đời cho rằng chỉ nhất đem theo gia đình, tộc thuộc lên<br /> con nhà nghèo mới đi làm rể đời để làm chiêu dân lập ấp ở miền biên ải. Sau mỗi<br /> thừa tự. Ngày nay quan niệm trọng nam trận chiến thắng, quét sạch quân xâm lược<br /> khinh nữ đó đã dần tiến bộ và không còn ra khỏi bờ cõi, các vị lưu quan này đời đời<br /> nặng nề như trước. kế tục cai trị địa phương, rất mực trung<br /> Trong mối quan hệ với các thành viên thành với chính quyền trung ương làm<br /> trong họ, khi có công việc lớn liên quan nhiệm vụ bảo vệ biên thùy. Người Tày ở<br /> đến bất kỳ thành viên nào thì mọi người Bạch Thông nói chung phần lớn là cư dân<br /> trong họ đều cùng nhau bàn bạc hoặc tới có nguồn gốc bản địa, bộ phận còn lại là<br /> dự để chứng kiến. Mọi người cùng quan người Kinh bị Tày hóa.<br /> tâm tới nhau từ việc làm nhà, ma chay, Dân tộc Tày ở Bạch Thông, xét về<br /> cưới xin, giúp đỡ nhau làm ăn, động viên diễn biến tộc người chủ yếu thuộc các<br /> bảo ban nhau học tập, lao động và sống có nhóm: Tày Thổ trước, Tày Thổ ty, Tày<br /> đạo lý, tự hào về dòng họ của mình và tôn Phụ đạo và Người biến Thổ.<br /> trọng dòng họ khác. Đối với dòng họ khác, Tày thổ trước: là người Tày ở địa<br /> người Tày có tục đáng trân trọng đó là phương đã sinh sống từ lâu đời.<br /> nhận anh em nếu như dân tộc khác có họ Tày thổ ty: là chủ sở hữu đất đai, rừng<br /> trùng với họ của mình. núi, sông nước,muôn thú… có nhiều uy<br /> Có thể thấy quan niệm về dòng họ của quyền về kinh tế, chính trị, xã hội.<br /> người Tày luôn lấy chữ tình làm trọng: Tày Phụ đạo: Đó là những người Tày<br /> Ngần chèn tang tôm nhả/ Tha nả tảy xiên bản địa theo vua Lê mở nước có công dẫn<br /> kim (Tiền bạc rẻ rúng như đất cỏ/ Tình đường, được phong làm phụ đạo ở bản địa,<br /> <br /> <br /> 82<br /> hưởng chế độ miễn phu lính. sát sinh, không bước quan các cành cây<br /> Người Biến Thổ: là những người có xanh, thừng trâu, chạc ngựa vì sợ kéo dài<br /> nguồn gốc từ miền xuôi lên vì việc vua tháng đẻ. Ngoài ra người chồng cũng phải<br /> hoặc đi dạy học, hoặc tìm đất sinh nhai kiêng đi khiêng quan tài vì sợ con sinh ra<br /> sau ở lại địa phương là măn với người sẽ mềm yếu. Nếu trong trường hợp bất đắc<br /> Tày. Cũng có người từ Trung Quốc lưu dĩ phải khiêng thì sẽ cài một chiếc đũa cả<br /> tán sang, qua nhiều năm sinh sống tại địa sau gáy. Trong sinh hoạt hàng ngày không<br /> phương trải mấy đời đều gọi là Người được thay đổi giường ngủ, buồng nằm,<br /> Biến Thổ. không tự tiện hái chanh vì sợ chanh sẽ rụng<br /> Theo số liệu của cuộc tổng điều tra lá và quả, không tự tiện hái rau thơm vì<br /> dân số và nhà ở tính đến hết 2014 số hộ như vậy rau sẽ tàn lụi… Khi nhà có người<br /> toàn tỉnh là 76.046, 312.727 nhân khẩu, ở cữ sẽ cắm cành cây xanh ở cầu thang<br /> người Tày 176.230 chiếm 56,35%. Huyện hoặc cửa ra vào có ý báo cho khách không<br /> Bạch Thông có 8.299 hộ, 33.216 nhân được tự ý vào nhà vì sợ vía của khách sẽ<br /> khẩu, người Tày chiếm đến 63% dân số làm ảnh hưởng tới sức khỏe của em bé.<br /> của huyện. Không được mang vật lạ vào buồng sợ bé<br /> 3. Nhận biết dòng họ bị vía hay sài đẹn…<br /> Nhận biết dòng họ của người Tày ở Trong tang ma, thời gian chưa nhập<br /> Bạch Thông được thể hiện qua các phong quan, gia chủ phải canh hoặc nhốt mèo vào<br /> tục tập quán, các nghi lễ vòng đời nhưng lồng tránh để chúng nhảy lung tung gần<br /> đặc biệt nhất là qua các điều kiêng kị trong người chết và chạy qua người chết, đề<br /> đời sống hàng ngày. phòng hiện tượng quỷ nhập tràng, tức là<br /> Có rất nhiều điều kiêng kị của người người chết bật dậy. Con cháu không được<br /> Tày được thể hiện qua những sinh hoạt khóc to vì nếu khóc to sẽ làm cho vía sợ,<br /> hàng ngày trong vòng đời của mỗi con vong linh người chết khó siêu thoát. Hơn<br /> người như tục cưới hỏi, ma chay, sinh nữa có quan niệm cho rằng nếu khóc trước<br /> nở… Sở dĩ người dân tin vào sự kiêng kị là khi phát tang, linh hồn người chết sẽ không<br /> do quan niệm “có thờ có thiêng, có kiêng siêu thoát về thế giới bên kia, thậm chí<br /> có lành”, tránh tối đa những điều không nước mắt của con cháu có thể làm cho thi<br /> may, không tốt đến với mình. thể chảy nước thối, khiến cho việc làm ăn<br /> Trước tiên, đó là kiêng kị trong tục lệ của con cháu gặp nhiều khó khăn. Thậm<br /> cưới hỏi. Như đã trình bày ở trên, người chí có người còn cho rằng nếu con cháu<br /> Tày kiêng lấy nhau trong cùng họ. Người khóc trước khi làm lễ nhập quan, thì cuộc<br /> trong dòng họ cùng thờ tổ tiên không được sống của con cháu sau này sẽ chỉ sống<br /> kết hôn với nhau. Họ quan niệm cưới như trong nước mắt, vất vả khổ cực mà vẫn<br /> vậy sẽ mất họ hàng, thể hiện sự kém cỏi túng thiếu. Khi đã làm lễ phát tang, con<br /> phải để gia tộc cưu mang chứ không đề cập gái, cháu gái của người quá cố không được<br /> tới yếu tố di truyền có hại nếu kết hôn cận chải tóc, soi gương, trang điểm, phải dùng<br /> huyết thống. vải trắng giống như khăn tang để buộc tóc.<br /> Sau khi kết hôn, người vợ mang thai Trong những ngày tang lễ, con cháu phải<br /> tránh những việc nặng nhọc, không đến các ăn chay, không ăn thịt, chỉ ăn rau xanh,<br /> đám ma, nơi chết chóc đau thương, không đậu, lạc, vừng, chấm muối. Khi ăn cơm,<br /> <br /> <br /> 83<br /> con cháu phải bốc thức ăn đựng trong thóc giống, không vào vườn hái hoa quả,<br /> máng vàu hay mẹt lót lá chuối chứ không không vào những nơi thờ cúng long trọng,<br /> được ăn bằng đũa, canh đựng trong ống không làm chàm dệt vải... Bởi quan niệm<br /> vàu chứ không được đựng bằng bát đĩa như cho rằng đám ma là nghi lễ buồn và hơi<br /> ngày thường. Đó là cách bày tỏ lòng hiếu lạnh của người chết dễ làm cho thóc giống<br /> thảo với cha (mẹ). Kiêng kỵ này xuất phát hỏng, hoa quả thối rụng, nước chàm biến<br /> từ quan niệm cho rằng: cha mẹ đã phải tần màu. Khi gieo mạ, xuống thóc giống, trồng<br /> tảo, khổ cực nuôi con, do đó, khi cha (mẹ) ngô phải tránh ngày mất của cha (mẹ), vì<br /> chết, con cái phải chịu khổ sở và làm cho đó là ngày xấu đối với gia đình nên hạt<br /> mình thật xấu xí để cha (mẹ) ra đi được an mầm cũng sẽ phát triển không tốt.<br /> ủi vì sự tiếc thương của con cháu. Mọi nghi Trong xã hội hiện nay có sự giao lưu<br /> lễ trong đám ma đều do thầy Tào điều văn hóa giữa dân tộc Tày và các dân tộc<br /> hành. Thầy Tào sẽ quyết định ngày đưa ma khác một cách thường xuyên thì những<br /> ngay (tiền tang hậu tế) hay đưa ma sau. điều kiêng kị không còn quá cứng nhắc,<br /> Ngày đưa phải kiêng ngày trùng tang, mùa khắt khe mà linh hoạt tùy theo điều kiện và<br /> xuân kiêng ngày thìn, mùa hạ kiêng ngày hoàn cảnh.<br /> mùi, mùa thu ngày tuất, mùa đông ngày Ngoài những tục lệ kiêng khem, những<br /> sửu. Ngoài ra khi đưa tang còn kiêng ngày người Tày trong cùng một dòng họ còn<br /> tuyệt họ như: các họ Hoàng, Hà, Ma, Bế nhận ra nhau qua tên họ, tên đệm. Ví dụ,<br /> kiêng ngày dần, họ Cao kiêng ngày thân. với dòng họ Hoàng của người Tày thì<br /> Trong thời gian đang chịu tang, các con không phải tất cả những người cùng họ<br /> cháu không được tham gia những hoạt Hoàng đều là họ hàng với nhau. Dòng họ<br /> động sinh hoạt văn nghệ ở cộng đồng, một phần được đánh dấu bằng tên đệm.<br /> không được đánh trống, đánh chiêng, vợ Cùng họ Hoàng lại có dòng họ Hoàng Văn<br /> chồng không được ngủ chung khi chưa và Hoàng Khải. Hai dòng họ này chỉ khác<br /> được 40 ngày, không được đội khăn tang đi nhau tên đệm nhưng lại thuộc hai dòng họ<br /> đám cưới, không được dựng vợ gả chồng, khác nhau, không có cùng huyết thống với<br /> làm nhà mới. Nếu chưa qua lễ 100 ngày, nhau. Về vấn đề nhận diện theo tên đệm<br /> con cháu không được đi ngủ qua đêm ở với người Tày không theo hệ thống tên<br /> nhà người khác. Người ta quan niệm vợ đệm trong dòng họ của người Nùng. Ngoài<br /> chồng ngủ chung, trai gái nô đùa hoặc chửi ra họ hàng còn nhận ra nhau qua ngày giỗ<br /> bới nhau trong thời gian có đám hoặc khi tổ. Khi con cái bắt đầu vào tuổi trưởng<br /> chưa được 40 ngày là coi thường các thầy thành cha mẹ và họ hàng phải truyền lại<br /> cúng đến làm lễ, không tôn trọng người ngày giỗ tổ cho con cháubiết. Hiện nay<br /> chết, cố tình reo rắc uế bẩn cho tổ tiên cùng vấn đề nhận biết dòng họ còn dựa theo gia<br /> các thần thánh được mời đến chứng kiến phả của dòng họ. Tuy nhiên không phải<br /> đám, do vậy sẽ làm cho tổ tiên, các thần dòng họ nào cũng có điều kiện ghi lại gia<br /> linh và người chết phật ý, sẽ gây tai họa phả hoặc có ghi thì cũng mới chỉ ở mức độ<br /> cho con cháu về sau. Sau đám ma khoảng 7 sơ lược ban đầu. Đây là một vấn đề khó<br /> ngày đến nửa tháng, con cháu của người khăn đặt ra với các nhà nghiên cứu nhân<br /> quá cố kể cả những người đến giúp đám học nói chung và tác giả nói riêng.<br /> đều phải kiêng, không được vào chỗ để Tóm lại: Người Tày ở tỉnh Bắc Kạn<br /> <br /> <br /> 84<br /> mặc dù có nguồn gốc khác nhau nhưng TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> trong quá trình sinh sống cùng nhau họ đã<br /> 1. Đỗ Trọng Am (2011), Văn hoá dòng họ Việt<br /> sớm hòa chung và tạo nên bản sắc văn hóa<br /> Nam, Lần thứ nhất, Nxb Văn hoá - Thông tin,<br /> đặc trưng của dân tộc mình. Hà Nội.<br /> Các dòng họ của người Tày nói chung<br /> 2. Hoàng Bé, Hoàng Minh Lợi (1988), “Làng<br /> sống tương đối hòa thuận, không có sự đố bản của người Tày”, Tạp chí Dân tộc học số<br /> kỹ gay gắt giữa các dòng họ mà trái lại 4, tr.41 - 46.<br /> luôn giúp đỡ cùng nhau phát triển. Cũng 3. Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình<br /> như quan niệm của các dân tộc khác, người các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb<br /> Tày quan niệm mỗi con người từ khi sinh Khoa học xã hội, Hà Nội.<br /> ra tới lúc qua đời đều bị chi phối bởi ba 4. Triệu Quỳnh Châu, Làng bản của người Tày<br /> mối quan hệ dòng họ đó là: họ bên nội, họ ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng - Luận<br /> bên ngoại, họ bên vợ. Cả ba mối quan hệ văn thạc sỹ 2010.<br /> họ hàng này đều có vai trò riêng, không 5. Nông Văn Cử, Vài nét về người Tày ở huyện<br /> qua coi trọng quan hệ này mà xem nhẹ Bạch Thông, Tư liệu Viện Dân tộc học.<br /> quan hệ khác. 6. Bế Văn Hậu (2011), “Tôn giáo, tín ngưỡng<br /> Những sinh hoạt tín ngưỡng, thờ cúng của người Tày, Nùng truyền thống và hiện<br /> tổ tiên và thờ cúng họ, chi họ; những quy đại”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 11.<br /> định thống nhất về lễ nghi và quy tắc ứng 7. La Công Ý (2010), Đến với người Tày và văn<br /> xử khiến cho mối quan hệ giữa các thành hóa Tày, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.<br /> viên trong dòng họ người Tày ngày càng 8. Nguyễn Thị Yên (2009), Tín ngưỡng dân gian<br /> thắt chặt hơn. Tày, Nùng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.<br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 09/10/2013 Biên tập xong: 15/12/2015 Duyệt đăng: 20/12/2015<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 85<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2