intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số đặc điểm nồi bật của lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết vi hồng

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

73
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vi Hồng là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung và các dân tộc thiểu số Việt Bắc nói riêng. Bằng việc sử dụng một số dạng lời văn tiêu biểu trong lối viết tiểu thuyết như câu trần thuật lặp cấu trúc thành phần, câu ghép chỉ điều kiện (giả thiết) – kết luận và câu ghép chỉ sự nhượng bộ, Vi Hồng không chỉ làm cho người đọc ấn tượng với lối diễn đạt mềm mại, uyển chuyển, mượt mà và trong sáng mà còn làm nổi bật lên nội dung thông điệp trong từng tiểu thuyết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số đặc điểm nồi bật của lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết vi hồng

Nguyễn Thị Thu Hương<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 125(11): 7 - 14<br /> <br /> MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NỒI BẬT CỦA LỜI VĂN NGHỆ THUẬT<br /> TRONG TIỂU THUYẾT VI HỒNG<br /> Nguyễn Thị Thu Hương*<br /> Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Vi Hồng là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam nói<br /> chung và các dân tộc thiểu số Việt Bắc nói riêng. Bằng việc sử dụng một số dạng lời văn tiêu biểu<br /> trong lối viết tiểu thuyết như câu trần thuật lặp cấu trúc thành phần, câu ghép chỉ điều kiện (giả<br /> thiết) – kết luận và câu ghép chỉ sự nhượng bộ, Vi Hồng không chỉ làm cho người đọc ấn tượng<br /> với lối diễn đạt mềm mại, uyển chuyển, mượt mà và trong sáng mà còn làm nổi bật lên nội dung<br /> thông điệp trong từng tiểu thuyết.<br /> Từ khóa: Vi Hồng, văn xuôi, dân tộc thiểu số, lời văn nghệ thuật, tiểu thuyết<br /> <br /> TÁC GIẢ VI HỒNG VÀ VẤN ĐỀ LỜI<br /> VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM<br /> VĂN HỌC *<br /> Vi Hồng là một trong những cây bút tiêu biểu<br /> của nền văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt<br /> Nam nói chung và các dân tộc thiểu số Việt<br /> Bắc nói riêng. Sức sống các tác phẩm của<br /> ông và tên tuổi của nhà văn đã được khẳng<br /> định. Việc nghiên cứu các sáng tác của ông<br /> những năm gần đây đã được mở rộng về<br /> nhiều khía cạnh như: tính dân tộc, giọng<br /> điệu, bản sắc văn hóa, cách viết, sự nghiệp<br /> sáng tác… Trong đó, cách tổ chức lời văn<br /> nghệ thuật của Vi Hồng cũng rất riêng và là<br /> một đối tượng nghiên cứu đáng được quan<br /> tâm. Theo Từ điển Thuật ngữ văn học “Lời<br /> văn nghệ thuật là dạng phát ngôn được tổ<br /> chức một cách nghệ thuật, là hình thức ngôn<br /> từ nghệ thuật của tác phẩm văn học”<br /> [7;288]. Trong bài viết này, chúng tôi tiến<br /> hành nghiên cứu lời văn nghệ thuật trong<br /> tiểu thuyết Vi Hồng (cụ thể là một số dạng<br /> câu điển hình mà nhà văn ưa dùng) dựa trên<br /> lí luận về thi pháp lời văn trên các cấp độ<br /> ngôn ngữ của GS Trần Đình Sử. Theo nhà lí<br /> luận thì cú pháp cũng là phạm vi thể hiện thi<br /> pháp; trong các quy tắc kết hợp của ngôn từ,<br /> thi pháp cũng thể hiện đa dạng. Cụ thể, thơ<br /> có các phép đảo trang, đối, lặp, tỉ, hứng, còn<br /> cú pháp văn xuôi có những quy tắc khác<br /> nhau tạo nên màu sắc riêng trong lối viết.<br /> Nhà văn Lâm Tiến đã khẳng định Vi Hồng có<br /> cách viết riêng: “vừa hiện thực, vừa lãng<br /> *<br /> <br /> Tel: 0985610650<br /> <br /> mạn, vừa dân gian, vừa bác học, vừa truyền<br /> thống, vừa hiện đại” [5]. Nhưng dường như<br /> cái lãng mạn, cái dân gian lấn lướt cái hiện<br /> thực, cái bác học nên tác phẩm của Vi Hồng,<br /> có thể nói, chúng được sáng tạo theo kiểu tư<br /> duy dân gian – truyền thống. Chính cách tư<br /> duy nghệ thuật như vậy chi phối mạnh mẽ<br /> đến đặc điểm ngôn ngữ trong tác phẩm. Như<br /> PosPelov từng viết: “Cái có ý nghĩa lớn nhất<br /> là nguyên tắc phản ánh đời sống trong một<br /> tác phẩm nào đó thuộc lối hiện thực hoặc<br /> thuộc lối không hiện thực. Nhà văn càng xa<br /> chủ nghĩa hiện thực thì khi đó ở các hành<br /> động, suy nghĩ, tình cảm của nhân vật với<br /> mức độ càng lớn, không bộc lộ cái bản chất<br /> của tính cách mà thưởng chỉ bộc lộ tính<br /> khuynh hướng tư tưởng cảm xúc, xu hướng<br /> của tác phẩm khi đó các đặc điểm lời nói của<br /> nhân vật càng gần với lời văn của tác giả”<br /> [6;149 ]. Ở tiểu thuyết của Vi Hồng, hiện<br /> tượng này khá nổi bật. Với quan niệm nghệ<br /> thuật không lấy yêu cầu tái hiện hiện thực<br /> nghiêm ngặt làm nguyên tắc sáng tác, Vi<br /> Hồng chuộng miêu tả khả năng, dụng công<br /> nhiều ở việc miêu tả cái có thể có (tức là khả<br /> năng tưởng tượng, hư cấu, sáng tạo tạo nên<br /> những hình tượng nghệ thuật thường mang<br /> tính ước lệ, tượng trưng, lý tưởng hóa).<br /> Khoảng cách rất gần giữa lời nói của nhân vật<br /> và lối trần thuật của tác giả phục vụ cho đích<br /> quan trọng nhất là bộc lộ thành công tư tưởng,<br /> cảm xúc của tác phẩm.<br /> Trong bài viết này, chúng tôi đi sâu phân tích<br /> kiểu lời văn giàu tính ước lệ và tính cụ thể<br /> hóa trong tiểu thuyết Vi Hồng dưới dạng tồn<br /> 7<br /> <br /> Nguyễn Thị Thu Hương<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> tại trong hình thức một số cấu trúc câu. Với<br /> lối tư duy nghệ thuật dân gian – truyền thống,<br /> dường như những tác phẩm của Vi Hồng chỉ<br /> mượn những chất liệu từ cuộc sống để tạo nên<br /> tác phẩm của mình. Vì thế hình tượng trong<br /> tác phẩm của Vi Hồng thường mang tính ước<br /> lệ, tượng trưng, lý tưởng hóa. Chính điều này<br /> đã quy định tính ước lệ trong ngôn ngữ và lời<br /> văn của Vi Hồng. Nhà nghiên cứu Lâm Tiến<br /> cũng đã chỉ ra: “Những từ như trai tơ, gái nụ,<br /> trai nụ, gái hoa, trai thanh, gái nụ…, những<br /> chi tiết như: quý hơn cả ông trời, sung sướng<br /> như ông trời, to bằng ông trời, quý hơn cả<br /> ngọc ngà…, đẹp như một nàng tiên, rực rỡ<br /> như đóa hoa tiên, hóa thành nơi vách núi, chữ<br /> viết như rồng bay, phượng múa, như hoa nở<br /> trong vườn…thường có trong tác phẩm của<br /> Vi Hồng ” [5]. Câu hỏi đặt ra là tại sao “ước<br /> lệ” lại song hành với “cụ thể hóa”? Chính<br /> việc lặp những cấu trúc ước lệ trong lời văn<br /> theo lối diễn đạt trùng điệp (thậm chí tạo<br /> thành nhịp, thành vần) đã cụ thể hóa tính chất<br /> của đối tượng mà nhà văn đang nói đến, cụ<br /> thể hóa tâm trạng của nhân vật, hay tâm tình<br /> kín đáo mà nhà văn muốn giãi bày, trao gửi.<br /> Trường hợp này ước lệ ở mặt hình thức, cụ<br /> thế hóa trong ý nghĩa. Cũng có những cấu<br /> trúc lặp trong câu mà bản thân nó đã mang<br /> tính cụ thể. Nó dân dã, gần gũi, dễ hiểu như<br /> những lời nói đời thường nhất. Ngoài ra cũng<br /> có một số mô típ câu trong lời văn cũng tạo<br /> nên nét đặc trưng của lời văn Vi Hồng. Người<br /> đọc được thả mình trong thế giới liên tưởng,<br /> tưởng tượng vô cùng phong phú nhưng đồng<br /> thời vẫn khám phá, thấu hiểu một cách cụ thể<br /> điều mà lời văn đề cập.<br /> MỘT SỐ DẠNG CÂU TIÊU BIỂU TRONG<br /> TIỂU THUYẾT CỦA VI HỒNG<br /> Câu trần thuật lặp cấu trúc các thành phần<br /> Trong lời trần thuật, nhà văn miêu tả, đánh<br /> giá tính chất của hiện tượng, vẻ đẹp của<br /> thiên nhiên và những biểu hiện ở bên ngoài<br /> của nhân vật. Phép lặp trong cấu trúc câu,<br /> trong đoạn “là nguyên tắc kết hợp tạo nhịp<br /> điệu, thống nhất và mở rộng nghĩa”. Chẳng<br /> hạn, khi đánh giá toàn diện về gia đình Châu<br /> Đoàn Pàng, Vi Hồng dùng hàng loạt các cụm<br /> từ (tính từ/danh từ + “nhất”) để diễn tả:<br /> “Châu Đoàn Pàng giàu nhất, giỏi nhất, khôn<br /> ngoan nhất, thế lực nhất, vợ con nó cũng nhất<br /> 8<br /> <br /> 125(11): 7 - 14<br /> <br /> mọi nhẽ”. Không ai là địch thủ của hắn trong<br /> cái bản Chín Thoong ấy – chúng ta hiểu được<br /> điều đó một cách dễ dàng. Chính vì thế mà<br /> Châu Đoàn Pàng tự tin vào sức mạnh, vào<br /> khả năng xoay chuyển, tác động, chi phối mọi<br /> thứ của mình.<br /> Bức tranh thiên nhiên của núi rừng trong tác<br /> phẩm cũng được đặc tả và hiện lên với nhiều<br /> sắc thái khác nhau qua phép lặp cấu trúc lời<br /> văn. Cái nắng trên dòng thác Chín Thoong<br /> được tác giả miêu tả: “Nắng nằm sõng soài<br /> trên các sườn núi quang cây. Nắng vắt vẻo<br /> trên từng ngọn cây của mọi cánh rừng. Nắng<br /> nằm ườn trên mắt vực Chín Thoong”. Những<br /> câu văn miêu tả liên hoàn mang đầy hình ảnh,<br /> đầy sự vận động của ánh nắng. Nơi nơi bản<br /> mường Chín Thoong đã được nắng bao trùm,<br /> tuôn chảy. Nắng có khi ru mình êm đềm, có<br /> khi nhảy nhót, có khi lại lười biếng thật đáng<br /> yêu. Hình ảnh “con nước” mà bố Phàn và<br /> Hoàng đã kì công nghiên cứu để đem về cho<br /> dân bản cũng được đặc tả đầy ấn tượng: “Đất<br /> chảy ào ào theo con nước. Con nước đục<br /> ngàu chảy băng băng về đồng. Con nước to<br /> gấp mấy chục lần con nước do chiếc cọn bao<br /> đời múc nước lên ruộng…Nước chảy cả vào<br /> con mương nước cọn, nước tràn trề lênh<br /> láng. Nước làm trôi cả những đàn vịt về cuối<br /> mương”. Sức mạnh của con nước chính là<br /> sức mạnh của sự văn minh, tiến bộ. Vi Hồng<br /> có thói quen đặc tả khi viết về thiên nhiên.<br /> Ông tả bằng tâm hồn nhạy cảm, bằng con<br /> mắt đầy chất thơ. Làm sao tả thật cụ thể, chi<br /> tiết; tả làm bật lên vẻ đẹp nguyên hình,<br /> nguyên hương, nguyên sắc của thiên nhiên<br /> mà vẫn đi vào lòng người. Kiểu câu văn dài,<br /> lặp nhịp, vần, hoặc lặp liên tiếp cấu trúc giữa<br /> các câu dường như đã chắp cánh cho ngòi<br /> bút của nhà văn.<br /> Khi Vi Hồng nói về mảnh hồn dân tộc Tày –<br /> là những bài lượn, khúc lượn đã bắt đầu bắt<br /> nhịp vào tâm hồn Hoàng lúc Hoàng đến cái<br /> tuổi của những chàng thanh niên đang độ<br /> xuân nồng, nhà văn cũng diễn tả cái mượt mà,<br /> bay bổng, lãng mạn, cái thăng hoa của tuổi trẻ<br /> trong Hoàng: “…những khúc lượn gửi cho<br /> mây, cho gió, cho mình nuôi giọng, câu đau –<br /> đau như dứt từ da mà ra, câu buồn – buồn<br /> như tình yêu xa tình yêu; câu mừng – mừng<br /> như đàn chim bay qua biển lớn bỗng gặp<br /> <br /> Nguyễn Thị Thu Hương<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> rừng cây”. Lượn là niềm say mê, là nơi<br /> Hoàng trao gửi những tâm tình riêng tư của cả<br /> cõi lòng khốn khổ đến đắng cay. Cũng miêu<br /> tả tiếng lượn trong Mùa hoa Bjoóc loỏng, tác<br /> giả làm nổi bật cái dặt dìu, ngất ngây của âm<br /> thanh đối lượn giữa đất trời, giữa ngày hội<br /> tưng bừng: “Tiếng lượn của người con trai,<br /> con gái vang lên từ hai buồng thổ cẩm rực rỡ<br /> làm lay động mọi lá cây ngọn cỏ, làm phập<br /> phồng cả không gian buổi sáng xuân trong<br /> sáng”. Đối với người dân mường Khoang<br /> Đông, họ nói đó là “hai con rồng lượn, hai<br /> con chim phượng hoàng gặp nhau”.<br /> Trùng điệp về hình thức cấu trúc song lại<br /> phong phú về hình ảnh nên cái được nói đến<br /> “đẹp” trong ngôn từ ước lệ, cụ thể và sâu sắc<br /> trong các tầng nghĩa. Ông Phàn (Tháng năm<br /> biết nói) cảm ơn Châu Đoàn Pàng đã có tấm<br /> lòng mời mình ăn bữa cơm “miếng chín,<br /> miếng mười, miếng tái, món cạn, món<br /> nước…”. Ngọc đau đớn vì gia đình mình đã<br /> mang ơn Châu Đoàn Pàng lúc nghèo khổ để<br /> giờ “nợ miệng, nợ túi tiền, nợ cả gánh cả<br /> khênh”. Món nợ ấy ép bố mẹ Ngọc phải gả<br /> Ngọc cho Bùng.<br /> Kiểu lời văn mang cấu trúc lặp như trên cũng<br /> rất phổ biến khi Vi Hồng miêu tả, khắc họa<br /> con người từ ngoại hình đến tâm hồn. Cái<br /> cười của người đàn bà đần độn xấu xí sinh<br /> thằng Thìm được miêu tả: “cô ta chỉ nhếch<br /> mép cười như trâu cười nước đái của nó.<br /> Nghĩa là cười bằng cách nhắm tít mắt, cặp<br /> môi vênh váo, cười im lặng, cười câm”. Nụ<br /> cười vừa có phần ngu ngơ, lại vừa có phần ẩn<br /> bí. Thằng Thìm sau này cũng mang cái cười<br /> như thế của dòng máu nhà nó: “Nó cười câm,<br /> cười trâu, cười đái suốt ngày”, “cười nhoẳn<br /> cả mũi, cười vặn cả cặp môi”. Còn nụ cười<br /> của bố Phàn thì chất chứa đầy tâm trạng dằn<br /> vặt của con người mang nặng tình đời. Trước<br /> khao khát học hành của cậu bé Hoàng dù phải<br /> lấy vợ và trước sự hồn nhiên đến đáng thương<br /> của tâm hồn trẻ thơ – vì Hoàng chưa hiểu vợ<br /> là gì, “bố Phàn cười chảy cả nước mắt, cười<br /> lớn, cười to”, để ngay lập tức ông ta im bặt và<br /> lau nước mắt đầy chua xót. Vẫn con người ấy,<br /> nhưng “ông lại cười méo mó,…cười như lẫn<br /> với cay đắng tan biến vào máu thịt trên khuôn<br /> mặt đầy phúc hậu của ông” khi ông nghe<br /> Hoàng giải thích tại sao gọi vợ mình bằng chị<br /> <br /> 125(11): 7 - 14<br /> <br /> và kể tính xấu của vợ. Còn cái cười của Băng<br /> khi Hoàng chẳng hiểu gì về chuyện chăn gối<br /> vợ chồng được mô tả phù hợp với tính cách<br /> vô tư của những đứa trẻ mới lớn: “Băng cười<br /> ré lên. Cái cười rủ lá che thân, mượn ống<br /> giấu mật”.<br /> Không chỉ có tiếng cười mà những trạng thái<br /> khác của con người cũng được nhà văn cụ thể<br /> hóa bằng sự sắp xếp liên tiếp những hình ảnh<br /> cụ thể xen ước lệ hoặc toàn ước lệ. Đặc tả nỗi<br /> buồn của nàng Thu Lạ (Mùa hoa Bjoóc<br /> loỏng) thì được đặc tả: “Chị buồn như lá<br /> dong héo phơi nắng, như lá khô rơi trong<br /> đêm sương muối”. Đặt liên tiếp cấu trúc và<br /> hình ảnh như thế cho ta cảm thấy nỗi buồn ấy<br /> không chỉ làm héo hắt trái tim nàng mà còn<br /> như kim châm làm âm ỉ và buốt giá tâm hồn<br /> nàng. Khi bị người khác sỉ nhục là đồ “ma<br /> gà”, Thu Lạ thấy mình “như chân tay rã rời,<br /> như mục, như ải”. Nỗi cay đắng như ăn vào<br /> da thịt nàng, nàng khóc rung cả sàn nhà. Vi<br /> Hồng đặc tả nỗi đau ấy qua những giọt nước<br /> mắt của nàng: “nước mắt ướt đẫm hai má của<br /> nàng. Nước mắt se lông mi thành những sợi<br /> to, nhọn hoắt…”. Nàng đã khóc quá nhiều, đó<br /> là những giọt nước mắt đau đớn cho thân<br /> phận và căm phẫn, nguyền rủa những kẻ độc<br /> ác đã vu vạ điều xấu xa cho nàng.<br /> Khảo sát những lời thoại của nhân vật trong<br /> tác phẩm của Vi Hồng, chúng tôi thấy kiểu<br /> câu lặp cấu trúc thành phần được sử dụng với<br /> ưu thế tối đa. Nhân vật có thể giãi bày lòng<br /> mình, trao đổi tâm tình, khơi gợi kỉ niệm với<br /> người khác hoặc những lời đối đáp giao tiếp,<br /> hỏi thăm trong cuộc sống đời thường. Cũng<br /> có khi những câu văn ấy là dòng chảy tâm<br /> hồn của nhân vật.<br /> Quan sát cách sắp xếp, tổ chức các cụm từ<br /> trong câu văn của Vi Hồng, chúng ta thấy các<br /> cụm từ, các câu văn trong đoạn, các câu trong<br /> hệ thống lặp cấu trúc thường đẳng lập với nhau<br /> về hình thức (thường là lặp cấu trúc cụm động<br /> từ, cụm danh từ hoặc cụm tính từ) và tương<br /> đương về ý nghĩa; hoặc cụm từ, câu đứng sau<br /> bổ sung, làm rõ nghĩa cho cụm từ, câu trước<br /> đó. Điều này tạo nên tính liên kết chặt chẽ<br /> trong lời văn (cả về hình thức và ý nghĩa) và<br /> tính tập trung trong khi diễn tả, tạo hiệu quả<br /> nghệ thuật trong “một cách viết riêng”.<br /> 9<br /> <br /> Nguyễn Thị Thu Hương<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Nỗi buồn riêng trải dài trong suy nghĩ của<br /> Hoàng cũng hiện lên qua lời văn có kết cấu<br /> chuỗi như thế: “Hoàng thấy nỗi buồn làm<br /> mềm lòng, mềm loãng cả dòng suy nghĩ”.<br /> Những tháng ngày xa quê, mang nặng tình<br /> riêng trong lặng câm mà sống, làm và học.<br /> Những cứ nghĩ về Chín Thoong là Hoàng<br /> “háo hức, nở hoa, nở nụ trong lòng”. Nỗi nhớ<br /> quê đầy vơi như con sóng dâng dạt dào trong<br /> trái tim Hoàng: “Hoàng nhớ quê với nỗi nhớ<br /> nhức nhối. Yêu quê lắm, nhớ quê lắm…<br /> Hoàng nhớ tất cả những nét uốn cong của<br /> mọi dãy núi, nhớ từng bóng chim bay trên<br /> trời quê, nhớ từng đàn cá bơi lội giữa dòng<br /> Chín Thoong”. Nỗi nhớ của Hoàng đã ôm<br /> trọn núi rừng, bản mường Chín Thoong, nó<br /> bừng lên, đốt cháy lòng anh, thôi thúc bước<br /> chân anh về, nhưng cứ nghĩ đến hình ảnh<br /> người đàn bà có hàm răng ba ba thì Hoàng lại<br /> ngạt thở trong nhớ thương, cách trở.<br /> Nếu Tháng năm biết nói là cuốn tự truyện<br /> thấm thía nỗi buồn thương, cái lãng mạn<br /> trong tâm hồn Vi Hồng như chưa tìm thấy<br /> mảnh đất riêng của nó mà cất cánh; thì ở Mùa<br /> hoa Bjoóc loỏng, cái bay bổng, mượt mà,<br /> bóng bẩy trong lời văn lại vút bay. Bởi nó<br /> được thoát ra từ những tâm hồn tuổi thơ đang<br /> căng tràn sức xuân và tình yêu. Nhà văn cũng<br /> đồng điệu với dòng suối ngọt ngào những tâm<br /> tình của những trai nụ, gái hoa, trai tơ, gái<br /> nụ… Khi Xinh Xông cứ van nỉ Mạnh Kha<br /> cho biết chàng trai nào đối lượn cùng nàng thì<br /> Mạnh Kha mượn lời rất khéo để tránh câu trả<br /> lời: “Anh chỉ sợ khi mà gặp được chàng trai<br /> mà em thường đối lượn cùng thì tiếng lượn<br /> của em cụt mất cánh, nhạt mất màu, mất<br /> phấn hương…”. Anh chàng Cặm Cang nói<br /> chuyện với những nàng tiên xinh đẹp “lúc<br /> nào cũng ngọt tiếng, ngọt lời”, tâm hồn thì<br /> dạt dào sli lượn; nhưng mỗi lần ngước mắt<br /> nhìn lên thấy chàng xấu quá thì Xinh Xông<br /> đóng chặt tâm hồn mình theo bản năng<br /> người con gái. Vi Hồng đã diễn tả điều đó<br /> vừa rất hình ảnh, vừa bay bướm mà rất cụ<br /> thể hóa: “…lập tức những nụ, những cánh<br /> hoa nhạy cảm, những hương thầm, những<br /> phấn thơm đều như khép kín lại ”. Bao nhiêu<br /> nguồn mạch của sự tươi non mơn mởn. của<br /> những tình tứ trong cõi lòng Xinh Xông<br /> không còn mở lối cho Cặm Cang.<br /> 10<br /> <br /> 125(11): 7 - 14<br /> <br /> Phép lặp cấu trúc liên câu trong tiểu thuyết Vi<br /> Hồng thường bắt gặp ở những đoạn miêu tả<br /> nội tâm. Dòng chảy tâm trạng của nhân vật<br /> như một bản nhạc thấm buồn qua nhịp điệu<br /> các câu. Mi Tráng yêu Xinh Xông tha thiết<br /> nhưng lại không dám đón nhận tình yêu của<br /> nàng dù trong lòng chàng đang thả hồn về<br /> những giấc mơ hạnh phúc tuyệt vời. Chàng đã<br /> thấy rõ được sự chênh vênh của mối tình và<br /> luôn mặc cảm về thân phận “ma gà”: “Ta như<br /> đóa hoa đang nở căng, nhưng có thể thoắt bị<br /> mụ phù thủy phù phép héo úa. Ta như cái quả<br /> lê chín mọng treo rủ ở đầu cành, trước toán<br /> bàn dân thiên hạ… nhưng con dơi hoang, dơi<br /> mèo, dơi cú gì đó lại có thể gặm nhấm…”. Sự<br /> mâu thuẫn, nỗi lo lắng về số phận, về tương<br /> lai đang dằn vặt những suy nghĩ của chàng<br /> trai. Tâm trạng ngổn ngang, đa chiều như vậy,<br /> ta bắt gặp ở Người trong ống, khi Tú thực<br /> hiện xong lễ “xăm ràng” với Ai Hoa, “chiến<br /> thắng” trở về: “Hoa ngàn đang khao khát,<br /> ong bướm vẫn dập dìu, nhưng sao anh thấy<br /> núi rừng cô quạnh quá. Những đàn chim đẹp<br /> vẫn giăng mắc giữa hai sườn núi, nhưng sao<br /> chúng bay những đường rối mù vậy. Tiếng cu<br /> gườm gáy ngon ngọt như thả từng chuỗi vàng<br /> ngọc dài theo thung lũng, nhưng anh nghe<br /> như tiếng khóc than ai oán…”. Đáng lẽ Tú<br /> phải mừng khi anh đã vượt qua được một cửa<br /> ải đầy sóng gió của đời anh để tiếp tục thực<br /> hiện chí lớn song Tú lại mang một nỗi buồn<br /> da diết. Tú buồn cho chính bản thân và buồn<br /> cho cả Ai Hoa nữa. Bởi trong cuộc đời gặp<br /> được người mình yêu và yêu mình không phải<br /> dễ dàng gì. Tú buồn vì phải từ bỏ tình yêu<br /> này, buồn hơn vì làm khổ một người con gái<br /> nặng tình nặng nghĩa lại vô cùng xinh đẹp<br /> như Ai Hoa. Vì thế lúc này đi giữa thiên<br /> nhiên núi rừng có tươi non, tràn ngập hương<br /> sắc và âm thanh thì đối với Tú cũng đâu có ý<br /> nghĩa gì. Nó chỉ càng làm cho lòng anh quặn<br /> thắt một nỗi đau, nỗi cô đơn mà thôi. Lặp cấu<br /> trúc câu đối lập hai vế “A nhưng B” đem lại<br /> sắc thái tâm trạng phức tạp đầy mâu thuẫn<br /> đang diễn ra trong nội tâm nhân vật.<br /> Đi vào những lời đối thoại, chúng ta khám<br /> phá ra những sắc màu mới của kiểu câu lặp<br /> cấu trúc các thành phần. Ngôn ngữ, lời văn<br /> trở nên sống động và có sự biến hóa lạ kì khi<br /> nó là lời nói của nhân vật, là những lời hỏi<br /> <br /> Nguyễn Thị Thu Hương<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> thăm, trao gửi tâm tình… Thu Lạ mới Mạnh<br /> Kha ở lại khi bố vắng nhà, Mạnh Kha thực<br /> thà nói: “…em không sợ tiếng khóc, tiếng chì,<br /> tiếng bướm, tiếng ruồi xanh hay sao”. Chim<br /> Ca lên rừng tìm gặp Thu Lạ, nàng ngạc nhiên<br /> phải thốt lên: “Em cảm thấy việc dữ đang đến<br /> đầu bàn chân em. Việc xấu xa như con nước<br /> máng sắp đổ xuống đầu em”. Bất ngờ về cuộc<br /> viếng thăm này nên Thu Lạ vẫn nói những lời<br /> giữ khoảng cách và đầy ý tình: “Anh đừng<br /> khen em, đừng nói lời ngọt lại hóa chua loét,<br /> nói lời đường mía mật ong lại hóa ra dấm”.<br /> Chim Ca đến thăm nhà Thu Lạ sau khi nàng<br /> bị nhục mạ, Thu Lạ cũng nói những lời mời<br /> chào rất khách sáo xong lại rất quen thuộc với<br /> thói quen giao tiếp của người Tày: “Không<br /> biết nhờ cơn gió mát đưa cái quả đào tiên đến<br /> nhà em hay lại do cơn nắng dồn, nắng khô<br /> xua con sóc hoang vào nhà? Chỗ đứng không<br /> yên, chỗ ngồi không ấm, mời anh ngồi tạm”.<br /> Câu nói của Thu Lạ làm cho Chim Ca được<br /> sống trong mảnh hồn riêng của dân tộc mình,<br /> trong cái “lối nói theo đường hoa, đường quả,<br /> ruỗi theo đường bướm ong bay, giữa ngan<br /> ngát hương vị hoa quả”. Những câu nói có<br /> vần nhịp phần lớn trong các đối thoại của<br /> nhân vật là do Vi Hồng đã sử dụng một thể<br /> loại văn học dân gian đặc sắc của người Tày<br /> là “puối pác” (lời nói bằng câu có vần), “puối<br /> rọi” (câu nói một chuỗi vần như hát). Phân<br /> tích những dẫn chứng trên đây phần nào<br /> chúng ta đã thấy được sự ảnh hưởng rõ nét<br /> của “puối pác”, “puối rọi” trong lời văn của<br /> Vi Hồng. Như lời của Chim Ca lúc hỏi Cặm<br /> Cang có rất nhiều hình ảnh ước lệ được đặt<br /> liên tiếp nhau, ăn vần, đối xứng nhau: “Có<br /> việc gì to từ trên trời rơi xuống, việc gì nhọn<br /> từ dưới đất mọc lên…”; “có việc gì to bằng<br /> nửa ông trời, hay nặng như dãy núi đá”. Có<br /> lẽ, khi viết về tình yêu, với những lời yêu<br /> thương, hờn giận thì những câu nói của chàng<br /> trai, cô gái Tày trở nên nhịp nhàng trong vần<br /> điệu hơn hết thảy và ở đó chứa đựng nhiều<br /> rung cảm nhất. Mi Tráng bày tỏ tình yêu với<br /> Thu Lạ bằng những lời: “Anh yêu em như<br /> ngọn lửa bén bãi cỏ gianh khô, như ong yêu<br /> mật…”. Còn Chim Ca nhiệt thành, nồng hậu<br /> trong yêu thương dành cho Thu Lạ: “Anh yêu<br /> em, yêu thật lòng mình. Yêu hết hơi thở, yêu<br /> trọn vẹn bằng một niềm tin, yêu suốt dọc thời<br /> <br /> 125(11): 7 - 14<br /> <br /> gian và không gian”. Với chàng trai xấu xí<br /> Cặm Cang, thì cái khát khao yêu đương càng<br /> dào dạt, càng mãnh liệt – đó là tấm lòng tha<br /> thiết cuồng nhiệt hướng tới cái đẹp. Cặm<br /> Cang yêu Thu Lạ với tình yêu nồng cháy như<br /> thế: “Anh yêu em, yêu nặng như từng dãy núi<br /> đá, yêu rộng như bầu trời trên đầu, yêu không<br /> bao giờ dứt, không bao giờ ngừng như con<br /> sông quê ta bốn mùa dạt dào con nước”.<br /> Người đọc không khỏi xao xuyến khi ru mình<br /> trong những lời tỏ tình ngọt ngào như thế. Kể<br /> cả những lời giãi bày tình yêu của những<br /> người con gái cũng rất mặn nồng, đắm say. Ai<br /> Hoa yêu Tú bằng tình yêu đầu tiên và duy<br /> nhất của cuộc đời thiếu nữ. Nàng khát khao<br /> yêu đương và dâng hiến. Những lời nói ngọt<br /> ngào của nàng luôn làm Tú quặn đau: “Anh là<br /> mười hai con hồn của em, anh là hơi thở của<br /> em, anh là tất cả cuộc đời em”. Nàng còn thề<br /> thốt: “…em hứa em sẽ là người sẵn sàng dắt<br /> ngựa cho anh mỗi khi anh say rượu. Em sẽ<br /> tắm rửa cho anh mỗi khi thấy anh nhặm<br /> người”. Ai Hoa yêu mãnh liệt bởi vì nàng<br /> thấu hiểu được vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của<br /> Tú. Nàng muốn “trao gửi ngọn lửa trong mắt<br /> và giọt máu trong tim” mình chỉ riêng cho Tú.<br /> Cuối cùng, cái chết đã chứng minh tình yêu<br /> chung thủy và sôi nổi của nàng. Sử dụng cách<br /> nói có vần nhịp như puối pác, puối rọi trong<br /> lời nói của các nhân vật đã giúp cho lời văn<br /> của Vi Hồng có tiết tấu nhịp nhàng, âm điệu<br /> hòa quyện và hiệu quả thẩm mĩ cao nên tác<br /> phẩm của Vi Hồng có thêm nhiều lời nói hay,<br /> đẹp từ truyền thống văn hóa dân gian – đó là<br /> cách nói ngọt tiếng, ngọt lời đến ngọt lịm.<br /> Số lượng câu có kiểu kết cấu lặp trong tiểu<br /> thuyết Vi Hồng không phải là nhỏ. Trên đây,<br /> chúng tôi chỉ xem xét những dẫn chứng tiêu<br /> biểu. Lặp tạo nhịp điệu lời văn giống như thơ.<br /> Viết lên những câu văn đầy chất thơ như vậy<br /> bởi tâm hồn Vi Hồng là tâm hồn của dòng<br /> chảy trữ tình dân gian. Mười ba, mười bốn<br /> tuổi Vi Hồng đã làm hộ các anh, các chị<br /> những bào phong slư (thơ tình yêu bảy chữ<br /> của người Tày) và làm giỏi có tiếng. “Đêm<br /> nằm, anh nghĩ ra những câu thơ hay, ý hay rồi<br /> vùng dậy thắp đèn ghi lại”. Thêm nữa, thuở<br /> nhỏ, Vi Hồng đã đọc và học rất nhiều dân ca,<br /> truyện thơ Tày, Nùng… Tất cả đã trở thành<br /> nguồn cội nuôi dưỡng không bao giờ cạn<br /> 11<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2