intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số đề xuất đổi mới nội dung dạy học và kiểm tra, đánh giá năng lực người học (không chuyên) môn Ngữ văn cấp trung học phổ thông, hướng tới thực hiện chủ trương “học thật, thi thật, nhân tài thật”

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

25
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Một số đề xuất đổi mới nội dung dạy học và kiểm tra, đánh giá năng lực người học (không chuyên) môn Ngữ văn cấp trung học phổ thông, hướng tới thực hiện chủ trương “học thật, thi thật, nhân tài thật”" nhằm mục đích tìm hiểu những bất cập còn tồn tại trong nội dung dạy học, cách kiểm tra môn Ngữ văn (không chuyên) ở cấp Trung học phổ thông (THPT) hiện nay, từ đó tham khảo cách làm của các nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới để đề xuất các giải pháp đổi mới nội dung chương trình và phương pháp kiểm tra đánh giá môn học này, hướng tới mục tiêu “học thật, thi thật, nhân tài thật”. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số đề xuất đổi mới nội dung dạy học và kiểm tra, đánh giá năng lực người học (không chuyên) môn Ngữ văn cấp trung học phổ thông, hướng tới thực hiện chủ trương “học thật, thi thật, nhân tài thật”

  1. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI NỘI DUNG DẠY HỌC VÀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC NGƯỜI HỌC (KHÔNG CHUYÊN) MÔN NGỮ VĂN CẤP TRUNG HỌC PHỔ THÔNG, HƯỚNG TỚI THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG “HỌC THẬT, THI THẬT, NHÂN TÀI THẬT”  ThS. Nguyễn Kiều Ngân* 1 Tóm tắt: Vấn đề đổi mới căn bản toàn diện giáo dục hướng tới một nền giáo “học thật, thi thật, nhân tài thật” là mục tiêu quan trọng trong thời gian tới của ngành giáo dục, trong đó có đổi mới chương trình và phương pháp kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn – môn học được coi là nền tảng của mọi tri thức. Chương trình học thiết thực, cách kiểm tra đánh giá mới mẻ, khách quan sẽ tạo được hứng thú, kích thích tư duy sáng tạo, giúp người học yêu thích môn Ngữ văn, nhờ đó nhà trường có thể đào tạo và phát hiện được “nhân tài thật”. Bài viết này nhằm mục đích tìm hiểu những bất cập còn tồn tại trong nội dung dạy học, cách kiểm tra môn Ngữ văn (không chuyên) ở cấp Trung học phổ thông (THPT) hiện nay, từ đó tham khảo cách làm của các nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới để đề xuất các giải pháp đổi mới nội dung chương trình và phương pháp kiểm tra đánh giá môn học này, hướng tới mục tiêu “học thật, thi thật, nhân tài thật”. Từ khóa: Đổi mới, dạy học, kiểm tra đánh giá, môn Ngữ văn, Trung học phổ thông. 1. MỞ ĐẦU “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” – câu nói nổi tiếng của vị danh sĩ triều Lê Thân Nhân Trung được khắc trên tấm bia Tiến sĩ đầu tiên dựng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám cách đây gần 600 năm đã khẳng định vai trò và tầm quan trọng của những người có tri thức, tài năng đối với sự phát triển và lớn mạnh của một đất nước. Ở mọi thời đại, mọi quốc gia, mọi dân tộc, giáo dục luôn là quốc sách hàng đầu. Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, để có thể đưa Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu” thì công tác giáo dục và đào tạo, chăm lo bồi dưỡng nhân tài là nhiệm vụ có ý nghĩa vô cùng to lớn của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Trong bối cảnh đó, các nhà trường đang đứng trước bài toán phải cải tiến thế nào, đổi mới ra sao để làm tốt hơn nữa chức năng cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đất nước. Để có thể giáo dục, đào tạo, tìm kiếm những tài năng, yêu cầu bắt buộc đối với các nhà trường là phải tổ chức dạy và học thực chất, kiểm tra đánh giá khách * Trường Đại học Thủ đô Hà Nội.
  2. 798 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP quan, công bằng. Nhận thức rõ vấn đề này, trong cuộc làm việc với Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 6/5/2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có những định hướng và chỉ đạo quan trọng, trong đó có yêu cầu giáo dục cần phải “học thật, thi thật, nhân tài thật”. Như vậy, ngoài đổi mới chương trình học với những nội dung thiết thực, hướng tới mục tiêu người học thật sự có kiến thức, làm chủ kiến thức, kĩ năng sau mỗi bài học (học thật), một điều không thể thiếu đó là phương pháp kiểm tra thi cử cũng cần được thay đổi, đảm bảo đánh giá và phân loại đúng năng lực, trình độ của người học (thi thật), từ đó phát hiện đúng và bồi dưỡng kịp thời những “nhân tài thật” cho đất nước. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả xin trình bày một số đề xuất đổi mới nội dung dạy học và phương pháp kiểm tra đánh giá năng lực người học môn Ngữ văn cấp THPT hướng tới thực hiện chủ trương “học thật, thi thật, nhân tài thật”. 2. NỘI DUNG 2.1. Môn Ngữ văn trong chương trình giáo dục THPT hiện hành Theo Chương trình Giáo dục phổ thông môn Ngữ văn năm 2018 (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo), ở cấp THPT, Ngữ văn là môn học bắt buộc thuộc lĩnh vực giáo dục ngôn ngữ và văn học. Môn học này được học từ lớp 1 đến lớp 12. Ở cấp Tiểu học, môn học có tên là Tiếng Việt; ở cấp THCS và THPT có tên là Ngữ văn. Môn Ngữ văn THPT hướng tới đối tượng học sinh ở độ tuổi từ 16 – 18, những người đang đứng trước ngưỡng cửa trưởng thành và đã có vốn sống, vốn hiểu biết nhất định về ngôn ngữ và văn học. Ở cấp THPT, môn Ngữ văn bao gồm 3 phân môn: Văn học, Tiếng Việt, Làm văn, với thời lượng dạy học trung bình từ 4 - 5 tiết/tuần, có mục tiêu hình thành và phát triển ở học sinh năng lực ngôn ngữ (kiến thức tiếng Việt cùng với 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng các kiến thức và kĩ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống) và năng lực văn học (gồm tiếp nhận/ cảm thụ văn học, phân tích, bình luận văn bản văn học). Trong số đó các mục tiêu đó, chương trình Ngữ văn THPT chú trọng tới mục tiêu phát triển năng lực văn học với 2/3 thời lượng dành cho việc đọc hiểu văn bản văn học và luyện viết văn bản nghị luận phân tích tác phẩm văn học. 2.2. Thực trạng dạy học và kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn cấp THPT Bởi cách thức xây dựng chương trình tập trung vào việc hình thành năng lực văn học nên năng lực ngôn ngữ của người học THPT dường như bị bỏ quên. Các giờ học Ngữ văn ở nhiều trường THPT hiện nay đa phần là các giờ giảng văn thụ động, một chiều, thầy đọc trò chép, thầy phân tích, bình giảng tác phẩm, trò lắng nghe,
  3. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 799 chép bài và ghi nhớ. Qua khảo sát 43 học sinh lớp 12 tại một trường THPT công lập không chuyên ở Hà Nội, có đến 39 em (chiếm hơn 90%) cho rằng môn Ngữ văn hiện nay nhàm chán, không thiết thực. Nguyên nhân dẫn đến con số đáng buồn này là do chương trình và nội dung dạy học không giúp người học phát huy được tính chủ động, sáng tạo, không tạo được hứng thú cho người học, và dĩ nhiên là không thực sự giúp người học áp dụng được kiến thức đã học vào cuộc sống. “Học gì thi nấy”, nội dung dạy học chú trọng tới năng lực văn học, bởi vậy kiểm tra đánh giá cũng chỉ tập trung vào năng lực văn học. Dễ dàng nhận thấy trong các đề kiểm tra Ngữ văn THPT, ưu tiên lớn dành cho yêu cầu viết bài văn phân tích/cảm nhận một tác phẩm hoặc đoạn trích văn học đã được học trong sách giáo khoa (SGK). Chỉ tính riêng chương trình Ngữ văn cơ bản lớp 12, trong tổng số 5 bài kiểm tra viết thường xuyên, có 3 bài kiểm tra năng lực văn học. Thống kê từ năm 2002 đến nay, tại các kì thi tốt nghiệp THPT, kì thi tuyển sinh ĐH, CĐ, kì thi THPT Quốc gia, câu hỏi nghị luận xã hội – nơi học sinh được bày tỏ quan điểm sống, nơi đánh giá khả năng tư duy và diễn đạt ý kiến cá nhân của học sinh – mới lần đầu tiên được đưa vào đề thi môn Ngữ văn năm 2009 với tỉ lệ khiêm tốn là 30%, đến năm 2017 giảm xuống còn 20% số điểm toàn bài. Câu hỏi kiểm tra kĩ năng đọc hiểu sử dụng ngữ liệu ngoài SGK mới xuất hiện từ năm 2014, và cũng chỉ chiếm 30%. Tỉ lệ lớn nhất (thường chiếm 50%, thậm chí 70% số điểm toàn bài) luôn dành cho yêu cầu viết bài văn nghị luận về một tác phẩm văn học đã học trong SGK lớp 11, 12, với biểu điểm và hướng dẫn chấm chi tiết đến từng ý, từng luận điểm. Điều này rất bất hợp lí, bởi cùng một tác phẩm nghệ thuật, mỗi người sẽ có cảm nhận, suy nghĩ, đánh giá khác nhau tùy thuộc vào trải nghiệm, góc nhìn, hoàn cảnh sống của từng cá nhân. Những đề thi áp đặt một chiều sẽ dẫn đến hệ quả tất yếu là hiện tượng học vẹt, học tủ, học thuộc bài giảng của thầy cô hoặc sao chép văn mẫu trong sách tham khảo hay trên mạng Internet. Hiện nay hàng trăm đầu sách tham khảo, sách phân tích sẵn các văn bản trong SGK đang được bán tràn lan trên thị trường với nhiều tựa đề gần giống nhau như “Phân tích tác phẩm Ngữ văn 12”; “Bình giảng văn 12”, “Để học tốt Ngữ văn 12”,…. Còn nếu gõ từ khóa “cảm nhận bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh” trên trang tìm kiếm Google sẽ nhận được 9.570.000 kết quả chỉ trong 0.54 giây. Vậy là vỏn vẹn khoảng 20 tác phẩm văn học giới hạn trong chương trình THPT được lặp đi lặp lại nhiều năm trong các đề thi, với những bài làm mẫu sẵn có, học sinh ít cơ hội được sáng tạo, được tự trình bày quan điểm, cảm xúc của cá nhân, và hầu như không rèn luyện được khả năng tư duy cũng như cảm thụ. Bên cạnh đó, việc coi nhẹ kĩ năng ngôn ngữ trong dạy học và kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn cũng khiến cho học sinh coi nhẹ tiếng mẹ đẻ, không hứng thú đọc sách, vốn từ nghèo nàn và không nắm vững các quy tắc ngôn ngữ tiếng Việt. Hiện tượng thanh thiếu niên sử dụng teencode, nói và viết không đúng chuẩn mực khi tạo lập văn bản trong
  4. 800 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP cuộc sống đã trở nên đáng báo động. Thạc sĩ Nguyễn Hữu Bắc - Chủ tịch kiêm Giám đốc Công ty Đầu tư du lịch PhucGroup cho biết ông đã gặp nhiều cử nhân ứng tuyển vào công ty của ông nhưng không biết viết đơn xin việc, hoặc là “chữ vô cùng xấu”, “hành văn lủng củng”. Thậm chí, theo Tiến sĩ Huỳnh Thị Hồng Hạnh, Phó trưởng Khoa Văn học và ngôn ngữ Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh, lỗi chính tả trong bài thi, luận văn của sinh viên và học viên cao học xuất hiện khá thường xuyên, “có những luận văn cao học, riêng lỗi sai chính tả có thể thống kê thành 5 trang đánh máy”. Một phần trách nhiệm này thuộc về chương trình và nội dung dạy học môn Ngữ văn ở nhà trường phổ thông. Ngoài ra trong 4 kĩ năng ngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết), dường như chương trình, SGK, giáo viên chưa coi trọng 2 kĩ năng nghe và nói. Trên thực tế, đây là 2 kĩ năng mà học sinh phải sử dụng nhiều, sử dụng thường xuyên hơn trong cuộc sống, nếu không được rèn luyện, năng lực giao tiếp của các em sẽ bị hạn chế. Không dám tranh luận, không biết trả lời phỏng vấn hoặc thuyết trình trước đám đông, ngại bày tỏ quan điểm là những điểm yếu thường được nhắc tới ở các bạn trẻ Việt Nam khi muốn hòa nhập với môi trường quốc tế. Ví dụ điển hình là những câu trả lời ngô nghê, ấp úng của thí sinh tham dự các phần thi ứng xử, hùng biện, phỏng vấn tại các cuộc thi lớn như sắc đẹp, âm nhạc, sáng tạo, khởi nghiệp,… Những bất cập trong việc dạy học, kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn tạo ra nhiều thế hệ học trò thụ động, giỏi ghi nhớ máy móc, thiếu tư duy sáng tạo, do đó chưa tạo ra môi trường để học sinh bộc lộ khả năng, để phát hiện và đào tạo được “nhân tài thật”. 2.3. Đổi mới dạy học và đổi mới kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn cấp THPT Kiểm tra, đánh giá chất lượng học tập là một khâu quan trọng trong quá trình dạy học ở nhà trường phổ thông, giúp đánh giá năng lực người học và điều chỉnh nội dung cũng như phương pháp dạy học. Như đã phân tích ở trên, việc kiểm tra đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn ở bậc THPT hiện nay chưa “đo” được năng lực người học và chưa góp phần điều chỉnh, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học.  Tham khảo cách thức ra đề thi môn Ngữ văn trong các kì thi học kì, thi tốt nghiệp, thi tuyển sinh của nhiều quốc gia có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, có thể thấy đề thi luôn yêu cầu tính sáng tạo, tư duy logic, tư duy phản biện của người học. Ví dụ: “Dưa chín cuống rụng (thời cơ chín muồi), đủ lông đủ cánh, đây chính là dáng vẻ trưởng thành của cây cỏ chim thú. Nhưng đối với tôi, dáng vẻ của sự trưởng thành không chỉ là sự phát triển về mặt thể chất... Dùng câu “Đây, mới chính là dáng vẻ của sự trưởng thành” làm đề bài để viết một bài văn nghị luận.” (Đề thi Cao khảo môn Ngữ văn 2021 – Trung Quốc)
  5. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 801 “Câu 1: Slytherin House và Tories giống nhau như thế nào? Tìm sự liên kết giữa 2 thế lực trong 2 cuốn sách Harry Potter và Johnny Tremain. (Viết bài luận khoảng 300 từ) Câu 2: Thực hiện một dự án tự chọn liên quan đến văn học” (Đề thi cuối kì lớp 11 môn Văn – Hoa Kì) “Phần 1: Kĩ năng Viết Ngữ liệu bao gồm Văn bản A: Alphonse de Lamartine, “L’Isolement”, khổ 1 đến 6, Méditations poétiques, 1820. Văn bản B: Anna de Noailles, “La Vie profonde”, Le Coeur innombrable, 1901. Văn bản C: Andrée Chédid, “Destination: arbre”, Tant de corps et tant d’âme, 1991. Văn bản D: Yves Bonnefoy, “La pluie d’été”, Les Planches courbes, 2001. (Dẫn nội dung ngữ liệu) Câu 1: Trả lời câu hỏi: Nhà thơ có (những) mối liên hệ nào với thiên nhiên trong các bài thơ được nêu ở ngữ liệu? Câu 2: Chọn một trong các đề sau Đề 1 (Bình luận): Hãy bình luận bài thơ của Andrée Chédid, “Destination: arbre” (Văn bản C) Đề 2 (Nghị luận): “Có tâm hồn mơ mộng, ngồi bên bờ thế giới…” Anna de Noailles viết (văn bản B, câu cuối). Bạn có nghĩ câu thơ này có thể định nghĩa thái độ của nhà thơ đối với thế giới không? Hãy viết bài văn nghị luận dựa vào các văn bản được nên trong ngữ liệu, các tác phẩm mà bạn đã học trên lớp cũng như các tác phẩm cá nhân bạn đã từng đọc. Đề 3 (Sáng tác): Lamartine cho rằng “hạnh phúc không chờ ta ở đâu cả”. Bạn hãy phản bác quan điểm này bằng cách chứng minh sự đủ đầy, trọn vẹn của nhà thơ khi sống giữa cuộc đời trong một hoặc một số bài thơ tự chọn. Phần 2: Kĩ năng Nói: Thí sinh trình bày hiểu biết của mình với giám khảo. Nội dung câu hỏi tùy thuộc vào lĩnh vực chuyên ngành mà thí sinh đăng kí dự thi.” (Đề thi Tú tài phổ thông 2019 môn Ngữ văn (không chuyên) – Pháp) Ở các nước Âu Mỹ hay ở nước láng giềng Trung Quốc, học sinh luôn được khuyến khích trình bày quan điểm của mình thông qua các bài thi dành tỉ lệ điểm lớn để học trò bộc lộ khả năng lập luận, nêu ý kiến cá nhân. Đối với học trò lứa tuổi 18 đang đứng trước ngưỡng cửa cuộc đời, điều quan trọng và thiết thực hơn cả là khả
  6. 802 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP năng đọc hiểu các thể loại văn bản đa dạng trong cuộc sống và trình bày quan điểm độc lập bằng ngôn ngữ nói hoặc viết. Việc phân tích, bình luận tác phẩm văn học nên dành cho đối tượng sinh viên đại học, cao học chuyên ngành Ngữ văn và các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Thực tế cho thấy, nếu người học không đi theo con đường văn chương thì việc cảm nhận “vẻ đẹp nữ tính của thơ Xuân Quỳnh” hay phân tích “sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ” đều không cần thiết và ít có tính ứng dụng sau khi tốt nghiệp THPT. Vì lẽ đó, yêu cầu cấp bách đặt ra lúc này là đổi mới nội dung chương trình môn Ngữ văn THPT, để môn học này trở nên thiết thực, hữu ích, giúp người học thật sự có kiến thức, kĩ năng áp dụng vào thực tế, đem lại hứng thú và niềm yêu thích học tập ở người học (học thật). Song song với đó là yêu cầu đổi mới phương pháp kiểm tra, với những kì thi nghiêm túc, khách quan, nội dung đề thi đánh giá đúng cái thực chất người học có được, đạt được, tích lũy được qua quá trình học, không thể gian lận, sao chép từ Internet hay bất cứ nguồn tài liệu nào, không thể học thuộc lòng máy móc (thi thật). Chỉ có “học thật” và “thi thật” mới giúp nhà trường đào tạo và phát hiện được những học sinh tài năng - “nhân tài thật” có tình yêu với văn học cũng như tiếng mẹ đẻ, tự tin và chuẩn mực trong giao tiếp bằng cả 4 kĩ năng ngôn ngữ. Muốn làm được điều này, trước tiên phải xóa bỏ hiện tượng đọc – chép thụ động, giảm bớt việc bình luận chuyên sâu về những tác phẩm văn học trong SGK – những tác phẩm vốn đã được phân tích bình luận từ nhiều chục năm nay. Tiết Ngữ văn ở trường THPT phải dành thời gian để những người trẻ sắp tới tuổi trưởng thành tranh luận, phát biểu ý kiến, viết cảm nhận của bản thân về một cuốn sách, một bài văn, một sự kiện thực tế mà mình gặp hàng ngày. Tiết Ngữ văn còn là nơi các em được nuôi dưỡng và phát triển thói quen đọc – một thói quen vô cùng quan trọng đối với tất cả mọi người trong xã hội hiện đại. Các em cần đọc hàng ngày những thể loại sách khác nhau tùy sở thích (hoặc theo gợi ý của thầy cô) chứ không phải chỉ đọc giới hạn một vài văn bản trong SGK, tự tìm ra cái hay cái đẹp của tác phẩm mà mình đã đọc và cùng chia sẻ cảm nhận của bản thân với thầy cô và bạn bè. Có như vậy, học sinh mới thực sự là trung tâm, được tiếp thu kiến thức và rèn luyện những kĩ năng cần thiết, từ đó sẽ yêu thích và coi trọng môn học. Đó mới chính là giá trị đích thực của môn Ngữ văn trong nhà trường THPT. Thêm vào đó, phương pháp kiểm tra đánh giá cần đổi mới theo hướng tăng cường tính tự chủ trong học tập và tư duy độc lập của người học, hạn chế những đề bài mang tính chất hàn lâm, phân tích, bình luận về tác phẩm văn học (nếu không phải là kì thi chọn học sinh giỏi, kì thi chuyên Ngữ văn). Đối tượng dự thi học kì, thi tốt nghiệp THPT, thi tuyển sinh ĐH, CĐ, thi THPT Quốc gia là học sinh phổ thông đại trà với nhiều định hướng nghề nghiệp khác nhau, bởi vậy đề thi môn Ngữ văn cần được cân nhắc để vừa đảm bảo kiểm tra kiến thức cần thiết, quan trọng đối với tất cả người học,
  7. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 803 vừa có nội dung nâng cao để phân loại người học có định hướng theo đuổi chuyên ngành Ngữ văn. Một đề thi Ngữ văn cấp THPT thông thường có thể bao gồm một phần hoặc toàn bộ các nội dung sau: Câu 1: Kiểm tra kiến thức tiếng Việt Đây là câu hỏi cơ bản, bắt buộc. Trong mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề, việc nắm vững kiến thức tiếng mẹ đẻ, nói và viết đúng ngữ pháp, đúng chính tả là yêu cầu tối thiểu. Các từ ngữ được sử dụng trong câu hỏi 1 là những từ vựng phổ thông và từ vựng nâng cao, độ khó tăng dần. Nội dung câu hỏi: + Điền từ vào chỗ trống. + Tìm từ đồng nghĩa/trái nghĩa cho phù hợp với ngữ cảnh văn bản. + Tìm từ theo giải nghĩa. + Giải thích ý nghĩa của từ ngữ dựa vào ngữ cảnh văn bản. + Tìm và sửa lỗi sai của câu (sai chính tả, sai cách dùng từ, sai ngữ pháp, sai phương tiện liên kết,…). + Đặt câu với từ cho sẵn. +… Để hoàn thành tốt câu hỏi 1, người học cần có kiến thức tối thiểu về tiếng Việt, thường xuyên đọc sách, trau dồi vốn từ, tra từ điển. Câu 2: Kiểm tra kiến thức văn học Đây là câu hỏi về những tác phẩm văn học Việt Nam và văn học thế giới tiêu biểu mà học sinh trình độ THPT cần nắm. Có thể sử dụng hình thức trắc nghiệm, trả lời ngắn để kiểm tra hiểu biết của các em về toàn bộ các tác phẩm đã đọc trong suốt 12 năm học (kiến thức cơ bản), và cả các tác phẩm ngoài SGK (kiến thức mở rộng, nâng cao). Nội dung câu hỏi: + Cho biết tác giả/tác phẩm/thể loại/đề tài/chủ đề. + Cho biết nhân vật chính/nội dung chính. + Tóm tắt tác phẩm trong số câu giới hạn. + Đóng vai nhân vật kể lại một đoạn của tác phẩm. + Sáng tác hoặc viết lại đoạn kết của tác phẩm. + Ý nghĩa và giá trị của tác phẩm theo quan điểm cá nhân. +…
  8. 804 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Để hoàn thành tốt câu hỏi 2, người học cần đọc và tìm hiểu kĩ các tác phẩm văn học nổi bật được đọc trong SGK, nắm vững nội dung, đồng cảm với tác giả và nhân vật (kiến thức cơ bản), có khả năng sáng tạo, đồng thời cần có thói quen đọc sách để mở rộng kiến thức về các tác phẩm văn học ngoài SGK (kiến thức nâng cao). Câu 3: Kiếm tra kĩ năng đọc hiểu Đọc hiểu là kĩ năng cơ bản của người học trình độ THPT, là yêu cầu thường xuyên và bắt buộc trong công việc và trong cuộc sống. Văn bản đưa vào đề thi có thể thuộc nhiều thể loại khác nhau, được trích từ các cuốn sách (ngoài SGK) hoặc lấy từ cuộc sống hàng ngày (một bài thơ, một bức thư, một văn bản nghệ thuật, một mẩu tin tức trên báo chí,…) Nội dung câu hỏi: + Xác định đề tài/thể loại/nội dung chính của đoạn trích. + Trả lời câu hỏi theo nội dung của đoạn trích. + Cho biết cách hiểu của bản thân về vấn đề được nêu trong đoạn trích. + Thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm theo quan điểm của bản thân. +… Đề hoàn thành tốt câu hỏi 3, người học cần có kiến thức cơ bản về tiếng Việt để nắm bắt và hiểu được lớp nghĩa tường minh mà tác giả trình bày trong văn bản (đọc hiểu cơ bản). Ngoài ra người học cần có năng lực liên kết, xâu chuỗi, phán đoán và một vốn sống nhất định để nhận ra những lớp nghĩa hàm ẩn đằng sau câu chữ (đọc hiểu trình độ cao). Thói quen đọc sách thường xuyên, đào sâu suy nghĩ, quan sát, thể nghiệm đời sống sẽ giúp thí sinh giành điểm số cao trong câu hỏi này. Câu 4: Kiểm tra kĩ năng viết Đây là câu hỏi kiểm tra khả năng diễn đạt, lập luận, tạo lập và trình bày văn bản của người học. Nội dung câu hỏi là những vấn đề gần gũi, quen thuộc trong đời sống. Người học cần đưa ra quan điểm cá nhân (yêu cầu cơ bản) và bảo vệ quan điểm bằng những luận điểm, dẫn chứng hợp lí, thuyết phục (yêu cầu nâng cao). Nội dung câu hỏi: + Nếu ý kiến về một vấn đề xã hội và giải thích lí do. + Nếu ý kiến về một câu nói, một quan điểm sống và giải thích lí do. + Dưới góc nhìn cá nhân, giải thích vì sao lại có hiện tượng như vậy và cần làm gì để giảm thiểu/phát triển hiện tượng đó. + Tìm ra mối liên hệ giữa 2 hiện tượng/2 quan điểm tưởng chừng trái ngược và giải thích lí do. +…
  9. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 805 Để hoàn thành tốt câu hỏi 4, thí sinh cần thường xuyên cập nhật kiến thức xã hội để mở rộng vốn hiểu biết (yêu cầu cơ bản), đồng thời rèn luyện thói quen viết đoạn văn trình bày quan điểm của bản thân về mọi vấn đề hàng ngày để tăng cường khả năng tư duy và lập luận (yêu cầu nâng cao). Câu 5: Kiếm tra kĩ năng thuyết trình/vấn đáp Đây là câu hỏi chưa từng xuất hiện trong đề thi Ngữ văn ở Việt Nam nhưng lại là một phần thi quen thuộc, không thể thiếu trong các kì thi ứng tuyển học bổng hoặc tuyển sinh vào các trường Đại học chất lượng cao hàng đầu thế giới. Chúng ta đều biết chức năng chính của ngôn ngữ là làm công cụ giao tiếp, trong đó kĩ năng giao tiếp bằng lời (nghe và nói) có thể coi là quan trọng nhất đối với mỗi người. Đây là nhu cầu và cũng là yêu cầu bắt buộc trong mọi mặt đời sống. Câu hỏi 5 đưa ra vấn đề và yêu cầu thí sinh thể hiện khả năng tranh biện, lập luận, sử dụng các phương tiện ngôn ngữ (vốn từ vựng phong phú, liên kết chặt chẽ,…) và phi ngôn ngữ (ngữ điệu, giọng nói, cử chỉ,…) để thuyết phục giám khảo. Có thể dùng hình thức bốc thăm đề hoặc giám khảo trực tiếp đặt câu hỏi cho thí sinh. Nội dung câu hỏi: + Trình bày ý kiến (đồng tình/phản đối) về một vấn đề xã hội, một quan điểm và giải thích lí do. + Trình bày hiểu biết về một vấn đề và cho biết ý nghĩa của vấn đề đó theo quan điểm cá nhân. + Nói về cuốn sách mà bạn ấn tượng nhất và giải thích vì sao bạn nghĩ rằng mọi người nên đọc cuốn sách đó. + Tưởng tượng bản thân là một nhân vật đang đứng trước một hoàn cảnh cụ thể, cho biết cách bạn nói và hành động trong hoàn cảnh đó để thuyết phục người nghe. + Đóng vai tình huống với giám khảo trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể (đi phỏng vấn xin việc, đi vận động tranh cử,…). +… Để hoàn thành tốt câu hỏi 5, thí sinh cần rèn luyện kĩ năng giao tiếp (yêu cầu cơ bản), biết vận dụng các phương châm hội thoại, sử dụng từ ngữ linh hoạt kết hợp với sự tự tin, chân thành để thuyết phục người nghe (yêu cầu nâng cao). Một đề thi “mở”, phạm vi rộng, thoát li văn bản SGK sẽ giảm thiểu tình trạng gian lận, học tủ, học vẹt, vừa đảm bảo kiểm tra kiến thức cơ bản, vừa phân loại được học sinh có năng khiếu và vốn hiểu biết phong phú. Việc triển khai hình thức kiểm tra đánh giá mới sẽ không tránh khỏi nhiều trở ngại, từ biên soạn đề thi, hướng dẫn chấm thi, nhân sự tổ chức thi, điều chỉnh thời gian thi. Tuy nhiên đã đến lúc chúng ta nhìn nhận vào thực tế, thổi một “luồng gió mới” vào nội dung chương trình Ngữ văn vốn
  10. 806 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP đã quá giáo điều, lặp đi lặp lại từ bao lâu nay, để môn học này mang hơi thở cuộc sống và trở nên gần gũi hơn với học trò thế hệ mới. Quan trọng nhất là cầu nối giữa môn học và người học – các giáo viên dạy Ngữ văn, giám khảo chấm thi cần thay đổi quan điểm, tư duy theo hướng “mở”, tôn trọng ý kiến độc lập, khác biệt của học trò. Giáo viên, giám khảo chỉ nên đóng vai trò hướng dẫn, nhận xét, góp ý cho học trò về cách dùng từ, diễn đạt, lập luận, trình bày chứ không áp đặt cách nghĩ, cách hiểu lên học trò. KẾT LUẬN “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, câu nói này không chỉ đúng với triều đại nhà Lê mà còn có ý nghĩa ở mọi thời đại. Đổi mới chương trình học, phương pháp kiểm tra đánh giá các môn học, trong đó có môn Ngữ văn là yêu cầu cấp thiết với ngành Giáo dục. Nội dung học tập gần gũi, trang bị cho học sinh những kiến thức, kĩ năng cần thiết; cách kiểm tra, thi cử khách quan, công bằng sẽ tạo động lực và niềm yêu thích học tập cho người học, từng bước thực hiện yêu cầu “học thật, thi thật, nhân tài thật” mà Thủ tướng Chính phủ đã giao cho toàn ngành Giáo dục. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình Giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). 2. Phạm Thị Thu Hiền, “Đổi mới kiểm tra đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn cấp THPT”, https://giaoducthoidai.vn/trao-doi/doi-moi-kiem-tra-danh-gia-chat-luong-hoc-tap- mon-ngu-van-o-cap-thpt-55710.html. 3. Vũ Ninh, “Cách ra đề thi môn Ngữ văn như hiện nay đã lỗi thời”, https://giaoduc.net.vn/ giao-duc-24h/cach-ra-de-thi-mon-ngu-van-nhu-hien-nay-da-loi-thoi-post204111.gd. 4. H.Ánh – M.Luân – B.Thanh, “Luận văn cao học cũng đầy lỗi chính tả”, https://thanhnien. vn/giao-duc/luan-van-cao-hoc-cung-day-loi-chinh-ta-513762.html. 5. Trần Đình Sử “Đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn”, https://trandinhsu.wordpress. com/2013/09/09/van-de-doi-moi-phuong-phap-day-hoc-ngu-van/ 6. Bộ Giáo dục Pháp, Đề thi Tú tài phổ thông năm 2019 môn Ngữ văn, http://etudiant. aujourdhui.fr/etudiant/info/bac-francais-2019-les-sujets-de-l-epreuve-anticipee-de- francais-en-premiere.html.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1