intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên Khoa Sư phạm - Trường Đại học Thủ đô Hà Nội đáp ứng yêu cầu của cách mạng 4.0

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

30
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên Khoa Sư phạm - Trường Đại học Thủ đô Hà Nội đáp ứng yêu cầu của cách mạng 4.0" đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên Khoa Sư phạm, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng 4.0. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên Khoa Sư phạm - Trường Đại học Thủ đô Hà Nội đáp ứng yêu cầu của cách mạng 4.0

  1. MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN KHOA SƯ PHẠM - TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA CÁCH MẠNG 4.0 ThS. Lê Thúy Mai* 1 Tóm tắt: Trong bối cảnh nền giáo dục cả nước đang có những chuyển mình mạnh mẽ, căn bản và toàn diện trước tác động của Cách mạng công nghệ 4.0, vai trò của người dạy, tâm thế của người học cũng như phương pháp giáo dục đều chịu sự tác động và chi phối của các phương tiện công nghệ cao. Điều đó đòi hỏi các trường đại học phải tích cực thay đổi để phù hợp với xu thế phát triển mới. Bài viết đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên Khoa Sư phạm, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng 4.0. Từ khóa: Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, Khoa Sư phạm, Trường ĐH Thủ đô Hà Nội. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong bối cảnh nền giáo dục cả nước đang có những chuyển mình mạnh mẽ, căn bản và toàn diện trước tác động của cách mạng công nghệ (CMCN) 4.0, vai trò của người dạy, tâm thế của người học cũng như phương pháp giáo dục đều chịu sự tác động và chi phối của các phương tiện công nghệ cao. Điều đó đòi hỏi các trường đại học phải tích cực thay đổi để phù hợp với xu thế phát triển mới. Ngày 18/01/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 89/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên (GV), cán bộ quản lí các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện GD-ĐT giai đoạn 2019-2030. Trong đề án, quan điểm đầu tiên là “Việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ GV và cán bộ quản lí các cơ sở giáo dục đại học cần được coi trọng vì đây là yếu tố quyết định chất lượng giáo dục đại học”; đồng thời mục tiêu chung của đề án cũng chính là “Xây dựng đội ngũ GV, cán bộ quản lí các cơ sở giáo dục đại học bảo đảm về chất lượng, hợp lí về cơ cấu, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và phát triển khoa học, công nghệ cho đất nước, gắn với yêu cầu khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, yêu cầu của cuộc CMCN 4.0” [1]. Vì thế, nâng cao chất lượng đội ngũ GV là một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định việc * Trường Đại học Thủ đô Hà Nội.
  2. 808 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP nâng cao chất lượng GD-ĐT của đất nước trong điều kiện của cuộc CMCN 4.0. Bài viết đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên Khoa Sư phạm, Trường ĐH Thủ đô Hà Nội đáp ứng yêu cầu của cuộc CM 4.0. NỘI DUNG 1. Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên Khoa Sư phạm đáp ứng yêu cầu cách mạng 4.0 Cuộc CMCN 4.0 tạo ra những thay đổi rất lớn tác động đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung và lĩnh vực giáo dục nói riêng, đặc biệt là giáo dục đại học. Bởi vì giáo dục đại học là bậc học cao nhất, là giai đoạn cuối cùng của quá trình học tập theo trường lớp, nhưng lại đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và cải cách hệ thống giáo dục của mỗi quốc gia. Trong thời đại công nghệ số, kiến thức rất mênh mông, lượng thông tin cũng rất phong phú, nhưng máy móc ngày càng thông minh và thậm chí có thể dạy lại con người. Giáo viên (GV) sẽ không thể nói lại những kiến thức sẵn có vì chỉ cần thông qua một vài từ khóa về nội dung môn học trong công cụ tìm kiếm Google, sinh viên (SV) có thể nhanh chóng tìm được nhiều tài liệu dưới dạng file được chia sẻ miễn phí; khi đó SV sẽ đủ khả năng tiếp thu lượng kiến thức nhiều hơn cả những gì GV truyền tải trên lớp. Do đó, GV trong thời đại 4.0 sẽ là người gợi mở và định hướng nhiều hơn là truyền đạt kiến thức. Bên cạnh đó, trong thời đại 4.0, không gian học tập cũng không còn bó hẹp trong khuôn khổ lớp học. Thay cho hình thức trường lớp truyền thống với giảng đường, thư viện và thời khóa biểu cố định, các lớp học trực tuyến có thể diễn ra ở bất cứ đâu, vào bất cứ thời điểm nào. Đào tạo trực tuyến đang là xu thế hội nhập giáo dục đại học toàn cầu, dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin. Các hình thức đào tạo trực tuyến đòi hỏi GV không chỉ dừng ở việc truyền thụ kiến thức, mà phải là người hướng dẫn, tạo ra môi trường học tập cho SV, giúp SV định hướng việc học. GV không chỉ giỏi về chuyên môn, sẵn sàng giải đáp câu hỏi của SV, mà còn phải có bản lĩnh, thường xuyên nâng cao năng lực thích ứng với hoàn cảnh mới, nhất là kịp thời đổi mới phương pháp dạy học, tối đa hóa ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình dạy học. Những tác động đó của CMCN 4.0 đặt ra nhiều thách thức cho Khoa Sư phạm, Trường ĐH Thủ đô Hà Nội – một khoa có bề dày truyền thống về đào tạo giáo viên, giảng dạy các môn học thuộc sự quản lý của Trường ĐH Thủ đô Hà Nội với chức năng nghiên cứu khoa học giáo dục, bồi dưỡng chuyên môn và phát triển năng lực sư phạm cho GV và SV các ngành đào tạo giáo viên cũng như hợp tác với các đơn vị trong và ngoài trường nhằm hỗ trợ, cung ứng dịch vụ giáo dục dành cho GV, giáo viên và học sinh các cấp:
  3. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 809 Thứ nhất, đội ngũ GV Khoa Sư phạm cần có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Bởi lẽ, CM 4.0 đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được các yêu cầu về kiến thức, kĩ năng và phẩm chất vốn liên tục thay đổi trong môi trường lao động mới. Do vậy, trong quá trình dạy học, người GV phải giúp SV phát triển năng lực toàn diện, luôn có tinh thần đổi mới, sáng tạo để thích ứng trong môi trường làm việc thường xuyên có sự biến đổi. Thứ hai, đội ngũ GV Khoa Sư phạm phải có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi mọi hoạt động của nhà trường. Nhằm đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh CMCN 4.0, các trường đại học (ĐH) nói chung, Trường ĐH Thủ đô Hà Nội nói riêng cần phải thay đổi các hoạt động đào tạo như đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy, quản lý sinh viên, phương pháp kiểm tra, đánh giá chuẩn đầu ra, với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin. GV thay vì tập trung cung cấp cho SV những kiến thức, kỹ năng trên lớp, phải định hướng cho SV biết cách học tập sao cho thích hợp với nhu cầu, khả năng của mình, cách tư duy và xử lý các tình huống sư phạm, qua đó hình thành năng lực tiếp cận và giải quyết vấn đề. Bên cạnh đó, GV phải là người hướng dẫn, điều phối, tổ chức hoạt động và đánh giá kết quả học tập, sáng tạo của SV. Thứ ba, đội ngũ GV Khoa Sư phạm phải giỏi về ngoại ngữ và công nghệ thông tin. Trong bối cảnh hội nhập, để có thể cập nhật những kiến thức hiện đại mang tính toàn cầu, cũng như ứng dụng công nghệ thông tin thành thạo trong quá trình giảng dạy, đội ngũ GV phải giỏi về ngoại ngữ và công nghệ thông tin, làm chủ công nghệ và tạo ra sự tự do, sáng tạo trong công tác đào tạo. Như vậy, để đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0, các cơ sở giáo dục đại học nói chung và Khoa Sư phạm, Trường ĐH Thủ đô nói riêng cần không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ GV. 2. Thực trạng đội ngũ giảng viên Khoa Sư phạm - Trường ĐH Thủ đô Hà Nội Với bề dày truyền thống đào tạo giáo viên cho các cơ sở giáo dục của Thủ đô Hà Nội, Khoa Sư phạm là khoa có nguồn nhân lực dồi dào. Số lượng cán bộ giảng viên (CBGV) trong khoa đông nhất trường là thuận lợi lớn để phát huy truyền thống, nâng cao vị thế với các ngành sư phạm. Với tổng số 73 cán bộ GV, trong đó, nam: 13, nữ: 60; Giảng viên: 67, chuyên viên: 06, viên chức: 65, lao động hợp đồng: 08. Về trình độ, Tiến sĩ: 19, Nghiên cứu sinh: 07, Thạc sĩ: 43, Cử nhân: 04. Tỉ lệ GV theo trình độ: Tiến sĩ: 28,4%, Nghiên cứu sinh: 10,3%, Thạc sĩ: 60%, Cử nhân: 1,3%. Đội ngũ CBGV cơ bản có phẩm chất chính trị vững vàng, đoàn kết nhất trí, có trình độ về chuyên môn nghiệp vụ, có ý thức trách nhiệm trong thực hiện công việc; có ý thức học tập nâng cao trình độ chuyên môn, ứng dụng công nghệ thông tin và ngoại ngữ để nâng cao hiệu quả giảng dạy.
  4. 810 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Bên cạnh thuận lợi, đội ngũ CBGV Khoa Sư phạm cũng còn tồn tại một số hạn chế, khó khăn nhất định. Tuy số lượng đông nhưng trình độ, tinh thần trách nhiệm và kỹ năng hợp tác của CBGV không đồng đều. Một số ít CBGV sau thời gian sáp nhập về Khoa Sư phạm chưa hoàn toàn nhuần nhuyễn trong việc triển khai công việc và phối hợp hoạt động. Nhiều GV Khoa Sư phạm chưa có sự hiểu biết, mối quan hệ trực tiếp về chuyên môn với các trường Mầm non (MN), Tiểu học (TH), Trung học sơ sở (THCS), Trung học phổ thông (THPT) gây khó khăn cho việc đào tạo SV gắn với thực tế. Một số GV còn gặp khó khăn trong quá trình sử dụng ngoại ngữ và tin học phục vụ quá trình dạy học. Đội ngũ cố vấn học tập còn chưa đều tay dẫn đến khó khăn trong triển khai các phần việc từ Khoa tới các lớp đảm bảo đúng tiến độ và chất lượng. Cơ sở vật chất của nhà trường còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được theo yêu cầu của khoa đào tạo. Như vậy, có thể thấy về thực trạng, đội ngũ GV Khoa Sư phạm tuy có khả năng thích ứng khá nhanh với sự thay đổi mọi hoạt động của nhà trường, nhưng vẫn còn thiếu chuyên gia đầu ngành, tỷ lệ Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ so với số lượng đội ngũ CBGV của Khoa còn hạn chế. Số lượng CBGV giỏi ngoại ngữ, có khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ để dạy học các môn chuyên ngành chưa nhiều. Do vậy, để nhanh chóng bắt kịp xu thế của CM 4.0, đội ngũ CBGV Khoa Sư phạm - Trường ĐH Thủ đô Hà Nội cần không ngừng đổi mới để nâng cao chất lượng giảng dạy, gắn với thực tế trường mầm non và phổ thông, cập nhật chương trình mới và định hướng mới vào đào tạo SV theo phương thức đào tạo theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động. 3. Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên Khoa Sư phạm đáp ứng yêu cầu của cách mạng 4.0 3.1. Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giảng viên Khoa Sư phạm Tại các trường đại học đào tạo giáo viên, đội ngũ GV giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi họ là người trực tiếp tham gia vào công tác đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm (NVSP) cho SV – những giáo viên tương lai. Vì thế, phát triển toàn diện năng lực, đặc biệt là năng lực chuyên môn, NVSP cho đội ngũ GV trong các trường, Khoa Sư phạm là một vấn đề cần thiết, nhất là khi đang xây dựng Chương trình Giáo dục phổ thông mới. Để thích ứng với những yêu cầu của CM 4.0 đặt ra, trước tiên đội ngũ GV Khoa Sư phạm cần được bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ thông qua hình thức kết hợp các mô hình đào tạo tiên tiến 4.0, đào tạo trực tuyến, từ xa để GV vừa nâng cao trình độ chuyên môn, vừa tiếp cận các mô hình dạy học mới. Song song với đó, GV cần không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy, cập nhật kiến thức khoa học, hiện đại để phát triển năng lực giảng dạy và các kĩ năng NVSP của
  5. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 811 bản thân… Đó là những năng lực quan trọng bậc nhất, bởi đội ngũ này ngoài nhiệm vụ trang bị tri thức khoa học chuyên sâu cho người học, họ còn có một sứ mạng lớn lao. Họ là hình mẫu, là hiện thực trực quan, sinh động của phương pháp dạy học (PPDH), đồng thời cũng là người dạy cho SV – những giáo viên tương lai cách thức, biện pháp, kĩ năng và kĩ xảo dạy học. Do đó, có thể nhìn nhận năng lực giảng dạy của những GV ở Khoa Sư phạm là một năng lực “kép”. Và chính bởi vậy, việc bồi dưỡng năng lực giảng dạy, kĩ năng, NVSP của đội ngũ GV Khoa Sư phạm cũng cần chú ý tới việc bồi dưỡng những kĩ năng đặc thù, những khả năng riêng ngoài kĩ năng, khả năng cần có đối với một GV nói chung. Cùng với việc nhuần nhuyễn các kiến thức chuyên sâu của môn học mà GV phụ trách, GV còn phải biết cách vận dụng thành thạo các PPDH ở bậc đại học, cũng như cần tìm hiểu, nắm bắt nhanh, kịp thời những đổi mới về nội dung, chương trình sách giáo khoa của môn học mà mình đang giảng dạy và SV sẽ đảm nhiệm sau này được triển khai ở trường phổ thông như thế nào. Bên cạnh đó, cần tăng cường thực tế ở phổ thông, tìm hiểu và nắm bắt kịp thời những thay đổi. Đặc biệt, GV cần có ý thức “quy trình hóa” các phương pháp dạy học mới, các phương tiện giảng dạy hiện đại để việc dạy học ở nhà trường sư phạm không bị lạc hậu, lỗi thời. Ngoài ra, GV còn phải thường xuyên tự học, tự nghiên cứu, tích cực đào tạo, bồi dưỡng để phát triển năng lực nghiên cứu khoa học và nâng cao trình độ. Một trong những giải pháp, chiến lược đúng đắn nhất cho đội ngũ GV Khoa Sư phạm hiện nay là phải kết hợp thực hiện song song, có hiệu quả hai việc: việc tự học, tự nghiên cứu, theo nhu cầu, định hướng chuyên môn cũng như khả năng, mục tiêu của bản thân và việc tích cực, thường xuyên tham gia, theo học các chương trình đào tạo bắt buộc, các khóa bồi dưỡng về chuyên môn, phương pháp để cập nhật những thay đổi, đổi mới của ngành, bậc và lĩnh vực đào tạo và đạt được các bằng cấp, chứng chỉ theo quy định. Nắm rõ tầm quan trọng của việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đối với GV, Khoa Sư phạm ngay từ đầu mỗi năm học đều đề ra yêu cầu cụ thể cho GV: Mỗi cá nhân GV phải có trách nhiệm với từng giờ dạy của mình, đảm bảo kiến thức khoa học, nghiệp vụ chuyên ngành và các yếu tố cập nhật về ứng dụng CNTT vào dạy học, sử dụng ngoại ngữ trong nghiên cứu tài liệu và giảng dạy… Sử dụng có hiệu quả các trang thiết bị, kĩ thuật hiện đại vào dạy và học. Đặc biệt quan tâm nâng cao chất lượng giảng dạy với hệ Đại học, nhất là các lớp CLC, POHE, lớp GDTH - Tiếng Anh, SP Toán – Tiếng Anh. Các học phần PPDH và rèn luyện NVSP phải gắn với thực tế trường MN, TH, THCS và THPT thông qua hoạt động thực hành và thực tập sư phạm ở tất cả các ngành, các khối lớp. GV chủ động tổ chức seminar chuyên môn; tích cực tham gia các chuyên đề, các hoạt động giáo dục của thành phố, quận, huyện của Hà Nội nhằm cập nhật thực tế phục vụ dạy học và góp phần nâng cao
  6. 812 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP vị thế cho GV và Khoa Sư phạm. GV phải nghiên cứu cập nhật các xu hướng giáo dục mới, trang bị cho SV năng lực thích ứng sau khi ra trường ở các môi trường làm việc khác nhau. Tiếp tục thực hiện việc đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tự chủ học thuật của GV và phát triển năng lực người học. 3.2. Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho đội ngũ giảng viên Khoa Sư phạm Trong thời đại công nghệ số, xu thế đào tạo theo hướng nghiên cứu ngày càng được chú trọng. Do vậy, bên cạnh việc bồi dưỡng năng lực chuyên môn nghiệp vụ, GV cần không ngừng bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học (NCKH) vì giảng dạy và NCKH là hai nhiệm vụ chính, bổ trợ cho nhau. Một người GV có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi sẽ là nền tảng vững chắc để thúc đẩy năng lực NCKH phát triển. Ngược lại, người GV có năng lực NCKH tốt sẽ khám phá được nhiều cái mới, cái tiên tiến về nội dung, phương pháp phục vụ cho công tác giảng dạy. Thông qua NCKH, năng lực tư duy của GV cũng được rèn luyện và tăng cường. Nếu mỗi cá nhân GV có sự đam mê NCKH thì sẽ tạo điều kiện để phát triển NCKH. Vì vậy, cần áp dụng các biện pháp nâng cao năng lực NCKH cho GV bằng cách tổ chức các khóa bồi dưỡng, đào tạo tập trung, tập huấn nghiệp vụ về phương pháp NCKH; tăng cường hợp tác NCKH với các nhà khoa học có uy tín để GV được học hỏi; tổ chức các buổi tọa đàm về những đổi mới, những thành tựu, những hướng nghiên cứu… để mỗi GV đều là một cán bộ NCKH; động viên GV tham gia các hoạt động NCKH ngoài trường để họ tự tin về năng lực NCKH của bản thân. Kinh nghiệm của các trường đại học lớn trên thế giới cho thấy: việc đẩy mạnh NCKH, gắn kết đào tạo và NCKH là vấn đề sống còn của một trường ĐH. Không thể có một đội ngũ GV giỏi nếu họ không gắn việc giảng dạy với nghiên cứu, không thể có một trường ĐH mạnh khi hoạt động NCKH chỉ là một hoạt động mờ nhạt trong nhà trường. Vì vậy, phải luôn gắn kết chặt chẽ NCKH với quá trình đào tạo; huy động toàn bộ đội ngũ GV của trường tham gia vào các hoạt động NCKH, giúp cho việc gắn bó hữu cơ giữa nghiên cứu và giảng dạy đạt hiệu quả cao. Phải coi hoạt động NCKH là nhiệm vụ bắt buộc đối với mỗi GV, lấy kết quả NCKH là một trong những tiêu chuẩn cứng trong việc đánh giá, xếp loại thi đua của GV. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả NCKH, đáp ứng yêu cầu của giáo dục hiện nay, mỗi GV Khoa Sư phạm cần có kế hoạch chiến lược cho việc tự học, tự nâng cao năng lực nghiên cứu của bản thân; tích cực tham gia các hội thảo khoa học ở trong và ngoài nước, những buổi thuyết trình kết quả nghiên cứu đề tài khoa học, các buổi trao đổi học thuật khoa học; chịu khó học hỏi kinh nghiệm làm NCKH của các chuyên gia, của các giảng viên có nhiều kinh nghiệm; chủ động viết các bài báo khoa học; mạnh dạn đăng kí tham gia các đề tài NCKH và nuôi dưỡng lòng say mê NCKH theo định hướng nghiên cứu đã chọn, không nên cầu toàn - điều quan trọng hơn là qua đó nâng
  7. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 813 cao được trình độ nghiên cứu và rút kinh nghiệm cho những lần sau… Các hoạt động trải nghiệm quý giá đó sẽ vô cùng bổ ích cho bản thân mỗi GV trẻ, họ sẽ trưởng thành nhanh chóng trong lĩnh vực hoạt động NCKH, trên cơ sở đó hỗ trợ đắc lực và có hiệu quả trong công tác giảng dạy của mình. Để nâng cao chất lượng NCKH trong GV, Khoa Sư phạm đã đưa ra những định hướng chung ngay từ đầu năm học: cần đảm bảo 100% GV hoàn thành nhiệm vụ NCKH theo quy định mới, khuyến khích GV có bài viết công bố quốc tế, xây dựng sản phẩm KHCN đăng kí bản quyền, quan tâm thỏa đáng tới hoạt động SV NCKH. Và định hướng cụ thể là: đảm bảo 100% giảng viên hoàn thành số giờ NCKH theo quy định của Thông tư mới. Đảm bảo 100% giảng viên hoàn thành bài viết khoa học 0,25 điểm trở lên theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ trường. Đảm bảo chất lượng và tiến độ các đề tài KHCN cấp trường trong năm học được phê duyệt thực hiện và nghiệm thu. Tổ chức tốt các hội nghị, hội thảo từ cấp bộ môn, cấp bậc học, cấp khoa và cấp trường trong năm học sau khi được phê duyệt. Các GV hoàn thành tốt nhiệm vụ KHCN đã đăng kí gồm giờ NCKH, seminar, bài báo, viết giáo trình tài liệu, hướng dẫn SV làm khóa luận tốt nghiệp, NCKH, tiểu luận môn học. Đây là những định hướng hết sức cụ thể của Khoa Sư phạm góp phần thúc đẩy năng lực NCKH của đội ngũ GV trong Khoa. 3.3. Nâng cao năng lực sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin phục vụ quá trình dạy học cho đội ngũ giảng viên Khoa Sư phạm Trong thời đại CM 4.0, GV cần chuyển đổi bài giảng từ hình thức trực tiếp sang trực tuyến đảm bảo chất lượng, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo, đặc biệt thích ứng với tình trạng dịch bệnh trong những năm gần đây. Để thiết kế các bài giảng trực tuyến hiệu quả, GV phải là người có năng lực quản lí tài nguyên mạng, có khả năng sử dụng thành thạo các phương tiện công nghệ thông tin phục vụ quá trình dạy học. Muốn như vậy, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội nói chung, Khoa Sư phạm nói riêng cần chú trọng bồi dưỡng năng lực sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin phục vụ quá trình giảng dạy thông qua các khóa tập huấn hoặc tổ chức các buổi trao đổi, chia sẻ của những GV có kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả trong giảng dạy cho những GV còn yếu về kĩ năng tin học. Công tác này nên tiến hành thường xuyên, liên tục, chú trọng vào một số nội dung như: cách số hóa bài giảng, tài liệu giảng dạy, upload lên thư viện điện tử để sinh viên dễ dàng truy cập, GV dễ dàng kiểm soát, cập nhật mới mỗi năm; cách thiết kế những lớp học trực tuyến, xây dựng diễn đàn học tập, trao đổi học thuật trên mạng Internet; tập huấn sử dụng thư viện điện tử, khai thác tài nguyên vô tận trên mạng Internet phục vụ giảng dạy.
  8. 814 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP 3.4. Nâng cao trình độ ngoại ngữ cho đội ngũ giảng viên Khoa Sư phạm Trong xu thế hội nhập với giáo dục đại học thế giới, để tiếp cận những tri thức khoa học và công nghệ tiên tiến, người GV không thể không thông thạo ngoại ngữ. Do vậy, đội ngũ CBGV Khoa Sư phạm cần có ý thức nâng cao trình độ ngoại ngữ cho bản thân. Bên cạnh đó, cần có sự tạo điều kiện từ phía trường và khoa. Nhà trường cần liên kết với nhiều cơ sở đào tạo ngoại ngữ trong và ngoài nước để tạo điều kiện cho GV đi học tập nâng cao trình độ trên tinh thần “đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Nếu nhà trường liên kết được với nhiều cơ sở đào tạo ngoại ngữ có uy tín và tạo điều kiện cho GV đi học tập nâng cao trình độ thì chắc chắn đội ngũ GV Khoa Sư phạm sẽ có khả năng giao tiếp, làm việc bằng tiếng Anh tốt. Nhà trường có thể mời các chuyên gia có uy tín trong và ngoài nước đến trường hướng dẫn, tập huấn, nói chuyện theo chuyên đề bằng tiếng Anh cho đội ngũ GV để họ có nhiều cơ hội tiếp xúc với người nước ngoài. Trường và khoa nên tạo điều kiện cho GV tham gia các hội thảo chuyên đề về ngoại ngữ, từ đó các GV được cử đi hội thảo sẽ truyền đạt lại cho những GV khác trong khoa biết về nội dung các hội thảo họ tham dự. Cùng với đó, trường và khoa cũng nên xây dựng cơ chế, chính sách mang tính chất đặc thù nhằm khuyến khích CBGV tham gia học ngoại ngữ để nâng cao trình độ. Mỗi CBGV phải tự có kế hoạch học tập và bồi dưỡng để nâng cao trình độ bản thân. Các GV tự tìm kiếm các lớp học dài hạn hay ngắn hạn phù hợp với mình để tham gia học tập nâng cao trình độ ngoại ngữ, tìm kiếm các hội thảo về chuyên ngành ngoại ngữ để tham gia học hỏi. Tất cả GV không chuyên ngoại ngữ nên tham gia học các lớp Tiếng Anh giao tiếp hoặc cố gắng học văn bằng 2 ngành ngôn ngữ Anh. Việc tăng cường cử cán bộ GV đi học tập và nghiên cứu ở nước ngoài cũng là biện pháp quan trọng để nâng cao trình độ ngoại ngữ cho GV. KẾT LUẬN Trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, mỗi GV bên cạnh việc thường xuyên bồi dưỡng các năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực NCKH thì cần chú trọng bồi dưỡng năng lực sử dụng thành thạo các phương tiện công nghệ thông tin, thành thạo ngoại ngữ trong giao tiếp và giảng dạy. Mỗi GV cũng cần quyết tâm, kiên trì, nỗ lực hết mình, chủ động tìm hiểu và ứng dụng những thành tựu của khoa học - công nghệ vào việc nâng cao hiệu quả công tác giảng dạy, góp phần đào tạo được nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Với vai trò là cơ sở đào tạo giáo viên lâu năm, Khoa Sư phạm - Trường ĐH Thủ đô Hà Nội cần chú trọng đầu tư công tác đào tạo, bồi dưỡng các năng lực cho đội ngũ GV, đáp ứng nhu cầu của người học trong thời đại mới. Có như vậy, Khoa Sư phạm - Trường Đại học Thủ đô Hà Nội mới đáp ứng được những yêu cầu của thời đại công nghệ số, góp phần nâng cao vị thế và có khả năng cạnh tranh với các trường đào tạo sư phạm tiên tiến trong nước, trong khu vực và trên thế giới.
  9. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 815 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chính phủ, (2019), Quyết định số 89/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lí các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2030 (ban hành ngày 18/01/2019). 2. Hoàng Phê, (2000), Từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 3. Phan Chí Thành, (2018), “Cách mạng công nghiệp 4.0 - xu thế phát triển của giáo dục trực tuyến”, Tạp chí Giáo dục, số 421, tr 43-46. 4. Nguyễn Thị Thanh Tùng - Ngô Văn Tuần, (2018), “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0”, Tạp chí Giáo dục, số 426, tr 1-4. 5. John Vũ (2016), Giáo dục trong thời đại tri thức, NXB Lao động, Hà Nội.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2