TẠP CHÍ KHOA HỌC<br />
Khoa học Xã hội, Số 5 (6/2016), tr 62 - 70<br />
<br />
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TÁI CƠ CẤU NGÀNH NÔNG NGHIỆP<br />
TỈNH SƠN LA<br />
Đỗ Thúy Mùi, Đinh Văn Thu<br />
Khoa Sử - Địa, Trường Đại học Tây Bắc<br />
<br />
Tóm tắt: Tái cơ cấu ngành nông nghiệp là quá trình tổ chức, sắp xếp lại tất cả các yếu tố liên quan tác động<br />
đến chuỗi giá trị ngành, hàng nông nghiệp, chuỗi cung ứng dịch vụ, sản xuất, thu hoạch, thu mua, chế biến, bảo<br />
quản, tiêu thụ. Tái cơ cấu nông nghiệp ở Sơn La có những thuận lợi như địa hình có nhiều cao nguyên rộng lớn, đất<br />
tốt, khí hậu thuận lợi, nhưng cũng có những khó khăn nhất định như: đất đai dễ bị xói mòn, rửa trôi, nhiều thiên tai,<br />
cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật còn chậm đổi mới, nhất là việc tiêu thụ và chế biến nông sản. Để tái cơ cấu<br />
nông nghiệp có hiệu quả cần phải có các giải pháp như: rà soát lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi, quy hoạch lại quỹ<br />
đất nông nghiệp, chuyển đổi phương thức sản xuất, phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp, thu hút đầu tư, hoàn<br />
thiện các chính sách tác động trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trên để<br />
tái cơ cấu lại ngành, khai thác thế mạnh của tỉnh, phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo.<br />
Từ khóa: Tái cơ cấu nông nghiệp, nông sản, quy hoạch, chuỗi giá trị ngành.<br />
<br />
<br />
<br />
1. Đặt vấn đề<br />
<br />
Sơn La là tỉnh miền núi, kinh tế chậm phát triển. Nông nghiệp là ngành sản xuất chính,<br />
nhưng, hiệu quả còn thấp, chưa khai thác được những tiềm năng của tỉnh. Bởi vậy, đại bộ phận<br />
nông dân còn nghèo, mức sống thấp. Để khai thác có hiệu quả những thế mạnh, phát triển kinh tế<br />
nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng, cần có những giải pháp để tái cơ cấu kinh tế nói<br />
chung và tái cơ cấu ngành nông nghiệp nói riêng. Bài viết này sẽ đề xuất một số giải pháp tái cơ<br />
cấu ngành nông nghiệp tỉnh Sơn La.<br />
2. Nội dung<br />
2.1. Khái quát chung về tái cơ cấu ngành nông nghiệp<br />
<br />
Tái cơ cấu ngành nông nghiệp là quá trình tổ chức, sắp xếp lại tất cả các yếu tố liên quan tác<br />
động đến chuỗi giá trị ngành, hàng nông nghiệp, từ quy hoạch, cơ sở hạ tầng sản xuất, chế biến<br />
bảo quản, tiêu thụ, tổ chức sản xuất, chuỗi cung ứng dịch vụ, sản xuất, thu hoạch, thu mua, chế<br />
biến, bảo quản, tiêu thụ. Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp nhằm nâng cao giá trị, gia tăng và phát<br />
triển nông nghiệp bền vững dựa trên đổi mới quan hệ sản xuất, đẩy mạnh liên kết giữa sản xuất<br />
và thị trường, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyên môn hóa nông dân, tạo việc làm ổn định,<br />
chuyển dịch dần lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp, nâng cao thu nhập, đời sống của dân cư<br />
nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái và xây dựng nông thôn mới.<br />
Tái cơ cấu nông nghiệp giúp cho ngành nông nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định và<br />
bền vững, cơ bản hình thành đội ngũ nông dân chuyên nghiệp, có kĩ năng sản xuất và quản lý,<br />
đảy mạnh đào tạo nghề phi nông nghiệp và chuyển lao động nông thôn ra khỏi lĩnh vực nông<br />
nghiệp, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp. Phát triển đa dạng các loại hình ngành nghề, thu hút<br />
nhiều lao động. Từng bước hiện đại hóa nông nghiệp, ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới<br />
<br />
Ngày nhận bài: 11/4/2016. Ngày nhận đăng: 20/7/2016<br />
Liên lạc: Đỗ Thúy Mùi- mail: maithuydotb@gmail.com<br />
<br />
62<br />
hóa, áp dụng các tiêu chuẩn kĩ thuật và tiêu chuẩn thị trường trong sản xuất các mặt hàng chiến<br />
lược, đảm bảo an ninh sinh học trong chăn nuôi, bảo vệ môi trường , bảo vệ tài nguyên nước và<br />
bảo tồn đa dạng sinh học, thúc đảy phát triển nền nông nghiệp xanh, cải thiện căn bản năng lực<br />
phòng chống thiên tai, dịch bệnh, nâng cao năng lực quản lý rủi ro để ứng phó với các tác động<br />
xấu của biến đổi khí hậu.<br />
Thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp phải theo cơ chế thị trường, vừa phải đảm bảo các<br />
mục tiêu cơ bản về phúc lợi cho nông dân và nguồn tiêu dùng, chuyển mạnh từ phát triển theo<br />
chiều rộng, lấy số lượng làm mục tiêu phấn đấu sang nâng cao chất lượng, hiệu quả bằng giá trị,<br />
lợi nhuận, đồng thời chú trọng đáp ứng yêu cầu về xã hội.<br />
Nhà nước giữ vai trò hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động của thành phần kinh<br />
tế, tập trung hỗ trợ nghiên cứu, phát triển và chuyển giao khoa học, công nghệ, phát triển thị<br />
trường, cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống. Tái cơ cấu nông nghiệp phải tăng cường sự<br />
tham gia của tất cả các thành phần kinh tế, xã hội từ trung ương đến địa phương trong quá trình<br />
tái cơ cấu ngành, đẩy mạnh phát triển đối tác công tư (PPP) và cơ chế đồng quản lý, phát huy vai<br />
trò của các tổ chức cộng đồng. Nông dân và doanh nghiệp trực tiếp đầu tư đổi mới quy trình sản<br />
xuất, công nghệ và thiết bị để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và sử dụng tài nguyên hợp<br />
lý hơn.<br />
2.2. Một số thuận lợi và khó khăn trong tái cơ cấu nông nghiệp tỉnh Sơn La<br />
Tái cơ cấu ngành nông nghiệp nói riêng và tái cơ cấu kinh tế nói chung đang là vấn đề được<br />
quan tâm đặc biệt ở tất cả các tỉnh thành, trong đó có Sơn La. Tuy nhiên, mỗi tỉnh thành lại có<br />
những thuận lợi và khó khăn riêng trong việc thực hiện việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Sơn<br />
La cũng có những thuận lợi đáng kể, nhưng cũng có nhiều khó khăn, thách thức.<br />
2.2.1. Những thuận lợi cơ bản trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Sơn La<br />
<br />
Sơn La có diện tích tự nhiên là 14.055 km2, bao gồm 11 huyện và 1 thành phố. Sơn La là<br />
cửa ngõ của miền Tây Bắc, thuận lợi cho giao lưu, trao đổi hàng hóa. Sơn La có các cao nguyên<br />
rộng lớn, khá bằng phẳng như cao nguyên Mộc Châu, cao nguyên Nà Sản, rất thuận lợi cho việc<br />
hình thành các vùng nông sản hàng hóa.<br />
Cao nguyên Mộc Châu có độ cao trung bình 1050 mét, địa hình bề mặt khá bằng phẳng, đất<br />
tốt, khí hậu mát mẻ, thuận lợi cho việc chuyên canh cây công nghiệp, phát triển chăn nuôi bò<br />
sữa, trồng hoa quả xứ ôn đới. Cao nguyên Nà Sản có độ cao trung bình là 800 mét, chạy dọc theo<br />
quốc lộ 6, đất đai phì nhiêu, thuận lợi cho phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lương thực<br />
(nhất là ngô) và phát triển chăn nuôi đại gia súc.<br />
Xen giữa vùng đồi núi, cao nguyên là các thung lũng, các đồng bằng nhỏ hẹp. Tuy diện tích<br />
không lớn, nhưng có ý nghĩa trong việc phát triển cây lương thực, cây công nghiệp và rau đậu<br />
các loại.<br />
Đất ở Sơn La nhìn chung tốt, màu mỡ, chủ yếu là đất feralit hình thành trên đá vôi, rất thuận<br />
lợi cho phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp và ngô, sắn. Nguồn nước của tỉnh khá phong phú,<br />
lượng mưa tương đối lớn. Sơn La có hai hồ thủy điện lớn và nhiều hồ thủy lợi, thủy điện nhỏ,<br />
đây là điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản, tưới tiêu, góp phần làm chuyển dịch<br />
cơ cấu ngành nông nghiệp nói riêng và cơ cấu kinh tế nói chung.<br />
<br />
63<br />
Sơn La có dân số không đông, nhưng trong những năm gần đây, đã và đang được bổ sung<br />
thêm một lực lượng lao động lớn. Trình độ lao động không ngừng được nâng lên, là điều kiện để<br />
ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất.<br />
Các điều kiện về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật đã và đang được hoàn thiện. Hệ thống<br />
đường giao thông nông thôn đã được đầu tư xây dựng, góp phần nối liền nơi sản xuất với nơi chế<br />
biến, tiêu thụ. Đặc biệt, Sơn La có tuyến đường huyết mạch là quốc lộ 6 đã được đầu tư nâng<br />
cấp, mở rộng, là điều kiện thuận lợi để chuyên chở hàng hóa nông sản về các thị trường miền<br />
xuôi.<br />
Một số cơ sở chế biến nông sản ở Sơn La đã được hình thành và đang được đầu tư hoàn<br />
thiện như các cơ sở chế biến chè, sữa, bia, đường, thức ăn gia súc…, tuy chưa có công suất lớn,<br />
nhưng góp phần đáng kể, thúc đảy nông nghiệp Sơn La phát triển mạnh mẽ hơn.<br />
Nhiều sản phẩm nông sản ở Sơn La đã khẳng định được thương hiệu trên thị trường như<br />
chè, sữa, hoa quả, ngô, các loại rau quả đặc sản… đây là điều kiện để mở rộng sản xuất. Nhiều<br />
chính sách mới về nông nghiệp cũng đã được tỉnh ban hành như chính sách hỗ trợ vốn, chuyển<br />
dịch cơ cấu cây trồng, tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới… đã góp phần thúc đảy<br />
nông nghiệp Sơn La phát triển mạnh mẽ hơn.<br />
Từ những điều kiện thuận lợi đó, ngành nông nghiệp của tỉnh đã có những kết quả nhất định.<br />
Giá trị sản xuất của ngành tăng nhanh.<br />
Bảng 1. Giá trị sản xuất nông lâm thủy sản tỉnh Sơn La [1, 2]<br />
giai đoạn 2000 - 2012 (theo giá thực tế)<br />
(Đơn vị: tỷ đồng)<br />
Năm 2000 2005 2007 2010 2012<br />
Nông nghiệp 1073,4 2178,3 3994,1 7169,0 11221,0<br />
Lâm nghiệp 322,1 410,1 389,7 986,4 962,0<br />
Ngư nghiệp 32,1 79,3 116,2 245,4 279,0<br />
Tổng 1.42,6 2.667,7 4.500 8.400,8 12.462,1<br />
<br />
Diện tích cây trồng tăng lên đáng kể, đặc biệt là cây lương thực (chủ yếu là ngô)<br />
Bảng 2. Diện tích một số loại cây trồng giai đoạn 2000 – 2012 [5]<br />
(Đơn vị: Nghìn ha)<br />
Năm 2000 2005 2010 2012<br />
Cây lương thực 93,2 194,8 177,3 219,2<br />
Cây công nghiệp 22,3 25,7 27,7 38,4<br />
Cây ăn quả 18,7 25,2 22,5 17,7<br />
Rau đậu và cây trồng khác 25,4 29,9 38,2 55,2<br />
Tổng 159,6 275,6 265,7 330,5<br />
<br />
Các loại cây trồng ở Sơn La tăng khá nhanh, cây trồng cũng được phân bố hợp lí hơn để khai<br />
thác thế mạnh của từng địa phương.<br />
Ngành chăn nuôi ở Sơn La có bước phát triển đáng kể. Giá trị ngành chăn nuôi tăng khá<br />
64<br />
nhanh. Năm 2012 tăng gấp 15,8 lần so với năm 2000. Tỉ trọng ngành chăn nuôi tăng dần phù<br />
hợp với xu thế chung của đất nước. Năm 2012, chăn nuôi của tỉnh chiếm 28,2% trong cơ cấu<br />
ngành nông nghiệp, cao hơn so với cả nước (cả nước là 26,9%).<br />
Cơ cấu ngành chăn nuôi khá đa dạng bao gồm đại gia súc, tiểu gia súc và gia cầm. Nhìn<br />
chung, đàn gia súc, gia cầm ở Sơn La phát triển khá ổn định.<br />
Bảng 3. Số lượng đàn gia súc, gia cầm giai đoạn 2000 – 2012 [5]<br />
(Đơn vị: Nghìn con)<br />
Năm 2000 2005 2010 2012<br />
Trâu 124,3 143,8 170,2 168,5<br />
Bò 90,5 119,9 185,2 196,5<br />
Lợn 399,3 476,0 442,2 535,3<br />
Gia cầm 2841,9 2402,2 4890,3 5217,3<br />
<br />
Sản lượng thịt, trứng, sữa tăng lên đáng kể, nguyên nhân chủ yếu do đảm bảo tốt về nhu cầu<br />
thức ăn, thị trường tiêu thụ khá ổn định.<br />
Bảng 4. Sản lượng thịt, trứng, sữa…ở Sơn La giai đoạn 2000 – 2012 [5]<br />
Năm 2000 2010 2012<br />
Thịt trâu (tấn) 1.718 3.570 4.378<br />
Thịt bò (tấn) 3.008 3.819 4.651<br />
Thịt lợn (tấn) 6.173 19.302 26.982<br />
Thịt gà (tấn) 1.571 5.863 7.549<br />
Trứng (triệu quả) 23,8 49,8 58,3<br />
Sữa (nghìn lít) 2.516 19.945 35.400<br />
<br />
Trâu được phân bố chủ yếu ở các huyện Mộc Châu, Sông Mã, Phù Yên, Yên Châu. Những<br />
năm gần đây có giảm đi đôi chút do hiệu quả kinh tế, một số hộ gia đình chuyển sang chăn nuôi<br />
bò và dê.<br />
Bò được nuôi chủ yếu ở các huyện Mộc Châu, Sông Mã, Mai Sơn. Số lượng đàn bò và thịt<br />
bò tăng khá nhanh. Hiện nay, tỉnh đã chú trọng phát triển chăn nuôi bò sữa, số lượng đàn bò tăng<br />
nhanh chủ yếu là đàn bò sữa.<br />
Đàn lợn của tỉnh tăng nhanh, đặc biệt là sản lượng thịt lợn. Nguyên nhân chủ yếu do đảm bảo cơ<br />
sở thức ăn và chất lượng thịt đáp ứng nhu cầu ở nhiều địa phương lân cận.<br />
Đàn gà, trứng gà tăng nhanh do phát triển các hình thức chăn nuôi trang trại. Tỉnh đã có<br />
nhiều biện pháp phòng tránh trong phòng chống dịch bệnh.<br />
Sản lượng sữa tăng nhanh do áp dụng các thành tựu công nghệ chế biến, đồng thời sữa Mộc<br />
Châu đã khẳng định được chất lượng, thương hiệu trên thị trường.<br />
Ngoài ra, tỉnh đã chú trọng phát triển một số loại đặc sản có giá trị kinh tế như dê, gà đen,<br />
nhím. Hiệu quả kinh tế khá cao, góp phần nâng cao giá trị các ngành chăn nuôi.<br />
<br />
<br />
<br />
65<br />
Khó khăn trong chăn nuôi ở Sơn La đó là cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, hệ thống chế<br />
biến các cơ sở còn lạc hậu, thị trường chưa mở rộng…Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến số<br />
lượng và chất lượng các sản phẩm chăn nuôi của tỉnh.<br />
Hiện nay, chăn nuôi Sơn La đang từng bước chuyển dần theo hướng đầu tư theo chiều sâu,<br />
áp dụng khoa học kĩ thuật, phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, chú trọng đến việc<br />
phát triển các loại đặc sản mang lại hiệu quả kinh tế cao. Các chương trình phát triển bò thịt chất<br />
lượng cao, chương trình nạc hóa đàn lợn, chăn nuôi gia cầm thả vườn, chăn nuôi gia cầm trang<br />
trại để chuyên môn hóa trứng, thịt, giống…<br />
Hiện tại, tỉnh đang áp dụng khoa học kĩ thuật trong chăn nuôi. Việc cải tạo giống địa phương<br />
cũng được chú trọng. Phương thức chăn nuôi cũng có nhiều đổi mới, từ chỗ chăn nuôi nhỏ lẻ<br />
theo hộ gia đình đến chỗ chăn nuôi công nghiệp, bán công nghiệp. Nhiều trang trại chăn nuôi<br />
mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ngoài trâu, bò, lợn Sơn La còn chú trọng phát triển chăn nuôi dê,<br />
ngựa, nhím. Ngựa được nuôi chủ yếu ở những xã vùng cao, số lượng không nhiều. Năm 2012<br />
toàn tỉnh có 16,9 nghìn con. Dê là vật nuôi dễ tính, đàn dê của tỉnh có trên 135,7 nghìn con. Dê<br />
được nuôi chủ yếu ở huyện Thuận Châu (22,4 nghìn con), Mai Sơn (20,5 nghìn con ). Hiện nay,<br />
nhiều hộ gia đình, nhiều trang trại đã đầu tư để phát triển nuôi dê do vốn đầu tư ít, hiệu quả kinh<br />
tế cao và thị trường tiêu thụ rộng lớn.<br />
Chăn nuôi gia cầm có những bước phát triển đáng kể, đàn gia cầm tăng khá nhanh. Năm<br />
2005 là 3,4 triệu con, năm 2012 là 4,6 triệu con. Trong đó, riêng gà ta là 4,2 triệu con.<br />
Từ năm 2000 đến nay, ngành thủy sản liên tục phát triển. Năm 2012, tốc độ tăng trưởng đạt<br />
34,6%, năm 2013 đạt 9,6%. Giá trị thủy sản trên 1 ha mặt nước tăng nhanh. Năm 2000 chỉ đạt<br />
32,3 triệu đồng/ha. Sở dĩ giá trị thủy sản/ha nuôi trồng tăng nhanh trong năm 2012 là do đây là<br />
năm đầu khai thác nguồn lợi hải sản ở hồ thủy điện Sơn La và hiện nay Sơn La đã phát triển<br />
những vùng nuôi cá hồi, cá tầm và một số loại đặc sản nên giá trị kinh tế cao.<br />
Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản tăng khá nhanh, năm 2000 cả tỉnh chỉ có 991 ha, năm<br />
2012 tăng gấp 2,5 lần đạt 2487 ha. Việc nuôi trồng thủy sản ở Sơn La chủ yếu là cá, diện tích tôm chỉ<br />
chiếm 0,2 ha, nuôi các loại thủy sản khác như ba ba, ếch là 27 ha.<br />
Ngành nuôi trồng thủy sản là hoạt động đóng vai trò chủ yếu. Năm 2012 chiếm 83,7% giá trị<br />
sản xuất toàn tỉnh. Thủy sản được nuôi trong các ao hồ ruộng ngập nước của các hộ gia đình. Hiện<br />
nay, đã phát triển mạnh nuôi cá lồng ở các hồ thủy điện kể cả các hồ thủy điện nhỏ và vừa. Trên hồ<br />
thủy điện Sơn La và hồ thủy điện Hòa Bình phát triển mạnh nuôi cá lồng. Hiệu quả kinh tế cao,<br />
nhiều giống cá có giá trị kinh tế cao được đưa vào nuôi như cá hồi, cá trê, cá quả, cá trắm giòn. Một<br />
số huyện còn nuôi các loại đặc sản có giá trị cao như Sông Mã phát triển nuôi ba ba, Mộc Châu,<br />
Mường La phát triên nuôi cá hồi.<br />
2.2.2. Những khó khăn<br />
Sơn La có địa hình chủ yếu là núi và cao nguyên, địa hình dốc, đất đai dễ bị xói mòn, rửa<br />
trôi, khó khăn cho sản xuất. Diện tích đất còn manh mún, khó khăn cho việc hình thành các vùng<br />
chuyên canh có quy mô lớn. Đất canh tác nhiều năm cùng với tập quán canh tác lạc hậu nên<br />
nhiều khu vực đất đai đã bị bạc màu, thoái hóa. Trong những năm gần đây do ảnh hưởng của<br />
biến đổi khí hậu nên có nhiều diễn biến thất thường gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp.<br />
<br />
66<br />
Những hiện tượng như sương muối, mưa đá, rét đậm, rét hại kéo dài, khô hạn… đã ảnh hưởng<br />
rất lớn đến sản xuất nông nghiệp.<br />
Nguồn lao động của tỉnh trong ngành nông nghiệp phần lớn chưa qua đào tạo, chất lượng<br />
lao động chưa cao, đây là những khó khăn rất lớn trong việc ứng dụng khoa học công nghệ mới<br />
trong sản xuất nông nghiệp. Các cơ sở chế biến phần lớn với quy mô nhỏ, công cụ thủ công, sản<br />
phẩm chưa mang tính hàng hóa cao nên giá trị sản xuất còn thấp. Hệ thống đường giao thông còn<br />
khó khăn, nhiều sản phẩm nông sản chưa gắn được nơi trồng với nơi chế biến, tiêu thụ. Chưa có<br />
sự liên kết giữa người nông dân với các doanh nghiệp, các nhà quản lý, nên tính bấp bênh của<br />
các loại nông sản lớn. Đặc biệt, tư duy sản xuất của người nông dân vẫn nặng về phong trào, về<br />
giá trị kinh tế trước mắt nên thường đua nhau sản xuất dẫn đến hàng hóa ế thừa, nhiều sản phẩm<br />
chất lượng không cao do sử dụng nhiều chất kích thích, chất bảo quản… Nguồn vốn đầu tư cho<br />
sản xuất nông nghiệp còn ít, ngành nông nghiệp vẫn phụ thuộc rất lớn vào thiên nhiên nên hiệu<br />
quả kinh tế còn thấp. Ngoài ra, sự biến động của thị trường trong nước và thế giới cũng ảnh<br />
hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp của cả nước nói chung và của tỉnh Sơn La nói riêng.<br />
2.3. Kiến nghị một số giải pháp để tái cơ cấu nông nghiệp tỉnh Sơn La<br />
Tái cơ cấu nông nghiệp là một hợp phần của tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, phù<br />
hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, gắn với phát triển kinh tế<br />
- xã hội và bảo vệ môi trường để đảm bảo phát triển bền vững. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp<br />
tỉnh Sơn La cũng nằm trong xu thế chung đó. Để tái cơ cấu có hiệu quả cần phải có các định<br />
hướng lớn như:<br />
- Tái cơ cấu nông nghiệp cần phải bắt đầu dựa trên cơ sở rà soát lại cơ cấu cây trồng, vật<br />
nuôi trên từng vùng sản xuất. Cần phải nghiên cứu cụ thể đặc điểm sinh thái của các loại cây<br />
trồng, điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng để có thể phát triển cây trồng có hiệu quả hơn. Một số cây<br />
trồng mới như cây cao su, mắc ca, cần phải được nghiên cứu kĩ về đặc điểm sinh thái, nhu cầu<br />
thị trường rồi mới quy hoạch phát triển cho phù hợp, tránh việc trồng ồ ạt, tràn làn, trồng theo<br />
phong trào.<br />
- Tái cơ cấu nông nghiệp trên cơ sở phải quy hoạch quỹ đất nông nghiệp cụ thể từng huyện,<br />
từng khu vực, lựa chọn cây trồng chủ lực của khu vực đó để phát triển sản xuất với quy mô lớn<br />
gắn với công nghiệp chế biến. Chú trọng phát triển các cây đặc sản như chè (Mộc Châu, Bắc<br />
Yên, Thuận Châu), nếp tan (Thuận Châu, Mai Sơn, Mường La), khoai sọ (Cụ Cang – Thuận<br />
Châu), hoa quả (Mộc Châu, Mai Sơn, Mường La, Sông Mã)…<br />
- Phải chuyển đổi phương thức sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân từ truyền thống nhỏ lẻ<br />
sang hàng hóa với quy mô hợp lý trên mỗi hộ gia đình và từng bản, từng khu vực thông qua việc<br />
hình thành phát triển các tổ chức kinh tế của nông dân như: “tổ nhóm hợp tác”, “hợp tác xã”,<br />
“hiệp hội sản xuất” và các mối liên kết giữa các hộ nông dân với các tổ chức sản xuất kinh doanh<br />
nông nghiệp như doanh nghiệp, các thương lái trên các vùng sản xuất.<br />
- Cũng cần phải chú trọng đến việc làm phi nông nghiệp. Ở các địa phương thuần nông và<br />
có bình quân diện tích đất nông nghiệp ít, việc phát triển các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp<br />
tại chỗ sẽ tạo ra nhu cầu về lao động và thu hút một bộ phận lao động nông nghiệp chuyển sang<br />
<br />
<br />
<br />
67<br />
các ngành nghề phi nông nghiệp. Các ngành nghề cần chú trọng phát triển như: Đan lát mây tre,<br />
dệt thổ cẩm, làm gốm…<br />
- Tái cơ cấu ngành nông nghiệp phải chú trọng đến bảo vệ tài nguyên môi trường, hình<br />
thành các biện pháp tái tạo môi trường tự nhiên và hạn chế loại cây trồng vật nuôi kém hiệu quả,<br />
lựa chọn những giống cây trồng, vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao, ít sử dụng tài nguyên.<br />
Các giải pháp cụ thể để tái cơ cấu nông nghiệp là:<br />
- Nâng cao chất lượng quy hoạch, định hướng tái cơ cấu ngành nông nghiệp<br />
Rà soát quy hoạch các vùng sản xuất lúa gạo, ngô, sắn để chủ động về lương thực cho nhân<br />
dân trong tỉnh. Điều chỉnh quy hoạch sản xuất lúa gạo, lương thực. Những vùng sản xuất lúa<br />
năng suất thấp hoặc không chủ động được nước tưới cần chủ động chuyển đổi sang trồng các<br />
loại rau màu có hiệu quả cao hơn.<br />
Rà soảt quy hoạch phát triển cây công nghiệp lâu năm (chè, cà phê, cao su) và cây ăn quả<br />
(xoài, nhãn, thanh long đỏ, cam, quýt) theo cơ chế thị trường, tránh trồng tràn lan. Một số cây<br />
cần phải được nghiên cứu kĩ để có thể mở rộng diện tích trồng hay không như cây mắc ca, cây<br />
cao su.<br />
Rà soát lại diện tích cây ngắn ngày như ngô, khoai, sắn, lạc, đỗ tương, mía, bông, rau xanh<br />
các loại để xác định tiếp tục phát triển lâu dài hay thay thế bằng cây trồng khác có hiệu quả kinh<br />
tế cao hơn.<br />
Rà soát lại địa bàn phát triển chăn nuôi đại gia súc, chăn nuôi bò sữa, chăn nuôi lợn, gia cầm<br />
để xác định mức độ phù hợp với yêu cầu của sản xuất hàng hóa tập trung. Phát triển chăn nuôi<br />
theo lợi thế từng vùng sinh thái nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước là chính. Chăn<br />
nuôi phát triển theo hướng áp dụng công nghệ tiên tiến, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm,<br />
phòng chống dịch bệnh và bảo vệ môi trường. Chú trọng sản xuất các loại thịt đỏ, thịt gia cầm,<br />
trứng, sữa, sản phẩm đặc sản theo hướng tập trung quy mô lớn, gắn với dịch vụ đầu vào, đầu ra<br />
và xử lý chất thải, tạo khí sinh học bằng các loại hầm biôga, các biện pháp phòng chống dịch<br />
bệnh gia súc, gia cầm, an toàn vệ sinh và kiểm dịch động vật.<br />
- Phát triển chăn nuôi lợn, gia cầm chất lượng cao theo mô hình trang trại có diện tích rộng,<br />
quy mô lớn và áp dụng các biện pháp phòng chống dịch bệnh. Quy mô các khu vực chăn nuôi<br />
tập trung tách khỏi khu dân cư và gắn với nhà máy chế biến thức ăn gia súc, hệ thống giết mổ,<br />
tăng cường năng lực dịch vụ thú y, kiểm soát dịch bệnh cấp cơ sở, đảm bảo vệ sinh thực phẩm.<br />
- Chú trọng phát triển lâm nghiệp, quy hoạch phát triển hợp lý ba loại rừng, chú trọng bảo vệ<br />
rừng đầu nguồn, phát triển cây ăn quả gắn với phát triển lâm nghiệp.<br />
- Phát triển và chuyển dịch ngành thủy sản. Chú trọng phát triển cá lồng, cá bè trên các hồ<br />
thủy điện, đặc biệt là hồ thủy điện Hòa Bình, hồ Sơn La. Chú trọng phát triển các loại cá đặc sản<br />
như cá hồi, cá tầm trên những vùng nước lạnh ở Mộc Châu, Mường La.<br />
- Phát triển công nghiệp chế biến nông sản phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chú trọng<br />
phát triển ngành công nghiệp chế biến thức ăn gia súc để chủ động nguồn thức ăn cho ngành<br />
chăn nuôi. Sơn La là tỉnh có sản lượng ngô lớn, phát triển ngành chế biến thức ăn gia súc sẽ tận<br />
dụng được các nguồn nguyên liệu tại chỗ, góp phần giảm chi phí vận chuyển, tăng giá trị của<br />
ngành chăn nuôi.<br />
<br />
68<br />
- Cần chú trọng tới thu hút đầu tư tư nhân tham gia vào tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Thu<br />
hút vốn đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân vào các lĩnh vực chăn nuôi tập trung, chăn nuôi các<br />
loại đặc sản như nuôi dê, gà đen, lợn cắp nách, nuôi cá hồi, cá tầm, cá sấu, ba ba…, hình thành<br />
các trang trại cây công nghiệp gắn với công nghiệp chế biến.<br />
- Hoàn thiện các chính sách tác động trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp nhằm tạo động lực<br />
thúc đảy tham gia vào quá trình tái cơ cấu nông nghiệp. Hoàn thiện nội dung chính sách khuyến<br />
nông, khuyến lâm và khuyến ngư với các chương trình, dự án hỗ trợ trực tiếp người sản xuất,<br />
thay đổi tập quán canh tác truyền thống sang phương thức sản xuất hàng hóa, tạo ra sản phẩm<br />
chất lượng cao và đồng đều, tăng cường các biện pháp bảo quản sản phẩm để kéo dài khả năng<br />
cất giữ trong tiêu thụ. Hoàn thiện chính sách thúc đảy nông dân liên kết với các doanh nghiệp<br />
chế biến, các tổ chức thu mua và tiêu thụ sản phẩm trên từng vùng sản xuất, hình thành mạng<br />
lưới sản xuất, chế biến, phân phối, tiêu thụ sản phẩm, kết nối các hoạt động cung ứng với dịch vụ<br />
sản xuất nông nghiệp. Triển khai chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào phát triển<br />
công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản theo hướng hiện đại, chế biến tinh, chế biến sâu, giảm<br />
dần và tiến tới hạn chế bán nông sản thô.<br />
- Hoàn thiện các chính sách tác động gián tiếp, tạo môi trường thuận lợi, thúc đảy các chủ<br />
thể nông nghiệp tham gia vào quá trình tái cơ cấu ngành. Hoàn thiện nội dung chính sách khuyến<br />
nông, khuyến lâm và khuyến ngư với các chương trình, dự án hỗ trợ trực tiếp người sản xuất,<br />
thay đổi tập quán canh tác truyền thống sang phương thức sản xuất hàng hóa, tạo ra sản phẩm có<br />
chất lượng cao và đồng đều, tăng cường các biện pháp bảo quản sản phẩm để kéo dài khả năng<br />
cất giữ trong tiêu thụ. Hoàn thiện các chính sách thúc đảy nông dân liên kết với các doanh<br />
nghiệp chế biến, các tổ chức thu mua và tiêu thụ sản phẩm trên từng vùng sản xuất.<br />
- Hoàn thiện các chính sách tác động gián tiếp, tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy chủ thể<br />
trong nông nghiệp tham gia vào tái cơ cấu ngành. Các chính sách như: chính sách đất đai, chính<br />
sách phát triển hạ tầng và dịch vụ công, chính sách thương mại nông nghiệp, chính sách khoa<br />
học công nghệ, chính sách thúc đảy các ngành nghề phụ.<br />
3. Kết luận<br />
Ngành nông nghiệp ở Sơn La đang có những bước phát triển đáng kể. Ngành trồng trọt,<br />
chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản đang khai thác lợi thế về tự nhiên, kinh tế xã hội nên mang lại<br />
hiệu quả kinh tế cao. Để có thể khai thác tốt hơn những tiềm năng cần phải có những giải pháp<br />
cụ thể trong các ngành trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản…, chú trọng phát triển các<br />
ngành công nghiệp chế biến, tìm thị trường cho các sản phẩm, thu hút vốn đầu tư… Cần thực<br />
hiện đồng bộ các giải pháp trên thì nông nghiệp tỉnh Sơn La sẽ phát triển mạnh mẽ và mang lại<br />
hiệu quả kinh tế cao hơn.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1]. Cục thống kê Sơn La, Niên giám thống kê Sơn La năm 2007, Sơn La.<br />
[2]. Cục thống kê Sơn La, Niên giám thống kê Sơn La năm 2013, Sơn La.<br />
<br />
<br />
<br />
69<br />
[3]. Quyết định số 339/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Đề án tổng thể tái cơ<br />
cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu<br />
quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020, Hà Nội ngày 19/02/2013.<br />
[4]. Sở NN&PTNT Sơn La (2009), Rà soát bổ sung quy hoạch phát nghiệp, nông thôn tỉnh Sơn<br />
La giai đoạn 2009 - 2020, Sơn La.<br />
[5]. Sở NN&PTNT Sơn La (2010), Báo cáo Kế hoạch Phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh<br />
Sơn La 5 năm giai đoạn 2011 - 2015, Sơn La.<br />
[6]. Sở Tài nguyên và Môi trường Sơn La (2009), Báo cáo chuyên đề Điều kiện tự nhiên, kinh tế<br />
xã hội tỉnh Sơn La giai đoạn 2001 - 2010 (Phục vụ xây dựng Chiến lược Bảo vệ môi trường<br />
tỉnh Sơn La giai đoạn 2010 - 2020 định hướng đến năm 2025), Sơn La.<br />
<br />
<br />
<br />
SOME MEASURES OF RESTRUCTURING AGRICULTURE INDUSTRY<br />
IN SON LA PROVINCE<br />
<br />
Do Thuy Mui, Dinh Van Thu<br />
Faculty of Geography and History, Tay Bac University<br />
<br />
<br />
Abstract. Restructuring the agricultural sector is the process of organizing and rearranging all the relevant<br />
factors affecting the value chain of the sector and agricultural products, chain of service supplying, production,<br />
harvest, purchase, processing, preservation and consumption. Although restructuring agriculture in Son La does<br />
enjoy a number of advantages of natural and economic–social conditions, it faces some certain difficulties,<br />
especially the consumption and processing of agricultural products. To restructure agriculture effectively, there<br />
must be such solutions as: reviewing the structure of plants and animals, planning the agricultural land,<br />
transforming the mode of production, developing non-agricultural occupations business, attracting investment,<br />
perfecting the policies directly impacting agricultural production. It is definitely essential to synchronously<br />
implement those solutions in order to restructure the sector and exploit the strengths of the province so as to<br />
develop the economy and eradicate hunger and poverty.<br />
<br />
Keywords: Restructuring agriculture, agricultural products, planning, sector value chain.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
70<br />