intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số kết quả thí nghiệm về sức chịu tải của cọc xi măng - đất thi công bằng khoan phụt cao áp

Chia sẻ: Đỗ Thiên Hỷ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

73
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ứng dụng đầu tiên của phương pháp phun vữa tại Việt Nam là được thực hiện bởi Trung tâm công nghệ cao Hòa Lạc của Viện Tài nguyên nước Việt Nam vào tháng 6 năm 2004. Với các ứng dụng thành công trong một số dự án tại Việt Nam, phương pháp đã được chứng minh là có hiệu quả cao trong việc này loại dự án, trong đó cả hai khả năng chịu lực và tính thấm phải được giải quyết. Nó cũng Cho thấy phạm vi ứng dụng rộng hơn nhiều, đặc biệt là cải thiện nền móng cho việc xây dựng, đường giao thông, cầu, bến cảng và đường hầm, cấu trúc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số kết quả thí nghiệm về sức chịu tải của cọc xi măng - đất thi công bằng khoan phụt cao áp

Mét sè kÕt qu¶ thÝ nghiÖm vÒ søc chÞu t¶i cña cäc xi<br /> m¨ng - ®Êt thi c«ng b»ng khoan phôt cao ¸p<br /> Nguyễn Quốc Dũng*, Nguyễn Quốc Huy*,<br /> Vũ bá Thao*<br /> * Viện KHTL. 171 Tây Sơn - Đống Đa - Hà Nội<br /> Tel/Fax: 8537083/5632827<br /> <br /> The results of testing bearing capacity and other parameters of soil-cement columns<br /> was created by jet-grouting method<br /> Abstract: While searching for technological solution to repair downgrading hydraulic structures, the<br /> researcher team of the Vietnam Institute for Water Resources have found jet-grouting method, one the most<br /> advance ground improvement techniques. The first application of jet-grouting method in Vietnam was<br /> executed by the Hoa Lac high tech Centre of the Vietnam Institute for Water Resources in June 2004. With<br /> the successful applications in some projects in Vietnam, the method proved to be highly effective in such<br /> type of projects, where both of ground bearing capacity and permeability are to be addressed. It also<br /> suggests a much wider range of applications, particularly in improvement of foundation for building, roads,<br /> bridges, harbors and tunnels, structures and so on.<br /> This paper will introduce the results of testing bearing capacity and other parameters of soil-cement columns<br /> and comparing these results with other.<br /> 1. Giới thiệu công nghệ sửa chữa, gia cố nền cho công trình sẵn có.<br /> - Có thể xử lý cục bộ một tầng đất hoặc lớp<br /> Khoan phụt cao áp (KPCA) là một phương xen kẹp yếu nằm ở sâu.<br /> pháp xử lý nền tiên tiến được sử dụng rộng rãi - Có thể thi công dưới mực nước ngầm.<br /> trên thế giới. Được phát minh năm 1970 ở Nhật - ứng dụng được với mọi loại đất.<br /> Bản, công nghệ này đã chứng tỏ được tính ứng Các ứng dụng chính của KPCA gồm có:<br /> dụng cao trong rất nhiều công trình ở các nước - Làm móng công trình mới.<br /> phát triển như Nhật Bản, Anh, Mỹ, v.v... - Gia cường móng sẵn có.<br /> KPCA thực chất là một phương pháp tạo cọc - Tạo tường chắn, tường chống thấm.<br /> xi măng đất kiểu trộn ướt, để so sánh với các - Gia cố mái dốc.<br /> phương pháp tạo cọc xi măng - đất hoặc xi măng - Tạo vỏ cho đường hầm.<br /> - vôi - đất, kiểu trộn khô đã được nghiên cứu và Tài liệu khoa học về công nghệ này ở trong<br /> sử dụng ở nước ta trong mấy năm gần đây. nước hiện nay có rất ít. Trong cuốn "Sổ tay xử lý<br /> KPCA có nguồn gốc từ việc sử dụng tia nước sự cố công trình xây dựng" (Tập 1) của tác giả<br /> cao áp để xẻ các vỉa than. Về sau, nó được đưa Trung Quốc Vương Hách, phương pháp này<br /> vào lĩnh vực xây dựng để xử lý nền đất yếu. được gọi là phương pháp phun xoay bơm vữa.<br /> Thiết bị dùng trong công nghệ này gồm một máy Cuốn sách này cung cấp một số liệu thực tế rất<br /> khoan và một máy bơm cao áp. Hai thiết bị này bổ ích, có thể dùng để so sánh, đối chiếu. Ngoài<br /> kết hợp lại để đưa một tia vữa có áp lực lớn vào ra, cuốn "Hư hỏng, sửa chữa, gia cường nền<br /> lòng đất để đánh nhuyễn và trộn đều hỗn hợp móng" của Lê Văn Kiểm cũng có đề cập đến<br /> vữa này với đất. Quy trình thi công gồm có các phương pháp này để gia cường nền. Tuy nhiên<br /> bước dưới đây (Hình 1): cả hai tài liệu nói trên cũng chỉ dừng ở mức giới<br /> 1. Từ mặt đất tự nhiên, khoan xuống đến cao thiệu sơ lược với số liệu được lấy từ các công<br /> trình đáy của lớp cần xử lý. trình được thi công ở nước ngoài.<br /> 2. Phụt vữa theo phương ngang với áp suất Việc đưa thiết bị và chuyển giao công nghệ<br /> cao (200-400 atm). vào nước ta chỉ mới được Trung tâm Công nghệ<br /> 3. Trong quá trình phụt vữa, cần khoan vữa cao thuộc Viện Khoa học Thủy lợi thực hiện vào<br /> xoay vừa rút lên dần, tạo ra cột vữa hình trụ. tháng 4 năm 2004, sau đó được đưa vào sử<br /> 4. Tiến hành cho đến cao trình đỉnh của lớp dụng trong công tác xử lý chống thấm nền và<br /> cần xử lý. mang cống dưới đê cho một số công trình ở<br /> Nghệ An và Hà Nam được ghi nhận là rất thành<br /> công.<br /> Tuy nhiên, ứng dụng gia cố, nâng cao sức<br /> chịu tải của nền và làm móng cho công trình đến<br /> nay vẫn chưa được phát huy. Để tìm hiểu khả<br /> năng ứng dụng này, một số thí nghiệm đã được<br /> Trung tâm thực hiện tại Trạm nghiên cứu tài<br /> nguyên đất - nước ven biển Đồ Sơn, Hải Phòng.<br /> Hình 1: Các bước thi công KPCA Bài báo này sẽ trình bày các kết quả chủ yếu thu<br /> được qua các thí nghiệm về sức chịu tải của cọc<br /> Các ưu điểm chính của KPCA gồm có: xi măng - đất.<br /> - Thiết bị thi công gọn nhẹ, có thể triển khai 2. Kết quả thí nghiệm<br /> được trên địa bàn chật hẹp, có chiều cao hạn 2.1. Thí nghiệm nén tĩnh hiện trường<br /> chế. Bãi thử cọc xi măng - đất nằm trong khuôn<br /> - Đường kính khoan nhỏ (40-90mm) nhưng viên của Trạm nghiên cứu tài nguyên đất - nước<br /> vẫn có thể tạo ra được cọc xi măng đất đường ven biển Đồ Sơn, Hải Phòng. Các cọc xi măng -<br /> kính lớn (600-1000mm) ngầm trong lòng đất. đất được thi công bằng phương pháp KPCA có<br /> Đây là một ưu thế có thể khai thác trong công tác đường kính 600mm, chiều dài cọc 8m.<br /> Thí nghiệm nén tĩnh hiện trường được tiến<br /> hành tại 05 điểm nhằm xác định sức mang tải<br /> của cọc và nhóm cọc trên cơ sở tiêu chuẩn<br /> TCXD 190: 1996 (móng cọc tiết diện nhỏ). Công<br /> tác thí nghiệm được thực hiện vào đầu tháng 10<br /> năm 2004.<br /> Để thí nghiệm sức chịu tải của nền phức hợp,<br /> tức là sự làm việc đồng thời của cọc và nền, ba<br /> cọc xi măng - đất bố trí trên ba đỉnh của một tam<br /> giác đều, khoảng cách từ tâm đến tâm cọc là<br /> 1,5m. Trên cùng đổ một tấm bê tông cốt thép dày<br /> 40cm, mặt dưới của tấm bê tông tiếp xúc đồng<br /> thời với ba đầu cọc và diện tích nền giữa các<br /> cọc. Vị trí các cọc được thể hiện trên hình 2. Hình 4: Bố trí kích nén ngang<br /> <br /> Các cọc thí nghiệm có chiều dài xác định<br /> trước 8,0m nằm từ độ sâu -1m đến -9m chỉ phục<br /> vụ công tác thí nghiệm xác định khả năng gia cố<br /> nền trong khu vực đất yếu. Theo kết quả khoan<br /> khảo sát địa chất công trình, phía dưới lớp đất<br /> lấp (lớp 1) dày khoảng 2,2m là lớp sét pha xen<br /> kẹp cát pha màu xám đen lẫn vỏ sò, hữu cơ<br /> trạng thái chảy (lớp 2) dày khoảng 8,0m, đây là<br /> lớp đất rất yếu và độ lún lớn. Sét màu xám tro<br /> Hình 2: Sơ đồ bố trí cọc thí nghiệm trạng thái dẻo mềm (lớp 3) nằm ở dưới.<br /> Một số chỉ tiêu chủ yếu của đất nền được tóm<br /> tắt trong bảng sau:<br /> Các cọc thí nghiệm có một số đặc điểm được<br /> trình bày ở bảng sau:<br /> Các cọc được thí nghiệm đến phá hoại. Biểu<br /> đồ quan hệ tải trọng và độ lún tiêu biểu như ở<br /> hình 5, hình 6 và hình 7.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 3: Bố trí kích nén nền phức hợp<br /> <br /> <br /> Bảng 1: Chỉ tiêu cơ lý của đất nền<br /> Lớp đất<br /> Chỉ tiêu 1 2 3<br /> (Đất lấp) (Sét pha-chảy) (Sét xám - dẻo mềm)<br /> - Độ sâu đáy lớp (m): 2,0-2,4 10,0 - 10,2 14-15<br /> - Bề dày lớp (m): 2,0-2,4 7,6 - 8,0 4-5<br /> - Khối lượng thể tích ướt ( (kN/m3) - 1,82 1,86<br /> - Độ ẩm (%) - 32,23 48,12<br /> - Hệ số rỗng (e) - 0,953 1,150<br /> - Độ sệt Is - 1,26 0,54<br /> - Lực dính C (102.kPa) - 0,07 0,17<br /> - Góc ma sát trong ( (độ) - 6o14' 10o0,8'<br /> - Hệ số nén lún (a) (102 kPa)-1 - 0,125 0,048<br /> - Sức chịu tải quy ước (Ro*) (102.kPa) - 0,534 1,052<br /> Bảng 2: Thông số cọc thí nghiệm<br /> Nền phức hợp Cọc nén dọc trục Cọc nén ngang<br /> Thông số (03 cọc hình<br /> D1 D2 N1 N2<br /> tam giác)<br /> Tiết diện cọc 60cm 60cm 60cm 60cm 60cm<br /> Ngày thi công 01-02/9/2004 2/9/2004 2/9/2004 4/9/2004 4/9/2004<br /> Ngày thí nghiệm 4/10/2004 6/10/2004 6/10/2004 8/10/2004 8/10/2004<br /> Cốt đầu cọc -1,2m -1,25m -1,25m -1,3m -1,4m<br /> Chiều dài cọc 8,0m 8,0m 8,0m 8,0m 8,5m<br /> Tải trọng thiết kế 450kN 120kN 120kN 35 kN 35kN<br /> Tải trọng thí nghiệm Nén phá hoại<br /> <br /> <br /> <br /> T¶i träng (tÊn) T¶i träng (tÊn)<br /> <br /> 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 0 1 2 3 4 5 6<br /> 0 0<br /> <br /> 10<br /> <br /> 20 10<br /> §é lón (mm)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 30<br /> §é lón (mm)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 40<br /> 20<br /> 50<br /> <br /> 60<br /> 30<br /> 70<br /> <br /> 80<br /> 40<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Hình 5. Biểu đồ quan hệ tải trọng- lún: Hình 7. Biểu đồ quan hệ tải trọng-<br /> Nền phức hợp chuyển vị ngang: Cọc đơn N1<br /> <br /> <br /> T¶i träng (tÊn)<br /> Dựa vào các biểu đồ quan hệ tải trọng - lún<br /> 0<br /> 0 5 10 15 20 25 30 của cọc thí nghiệm cho phép rút ra một số nhận<br /> 10<br /> xét về sức chịu tải của cọc như sau:<br /> 20<br /> + Sức chịu tải tính toán của cọc thí nghiệm<br /> §é lón (mm)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 30<br /> được tính theo công thức sau:<br /> 40<br /> Ptt = Pgh/F<br /> 50<br /> trong đó: + Pgh là tải trọng giới hạn của cọc<br /> 60<br /> lấy tương ứng với tải trọng thí nghiệm khi cọc bị<br /> phá hoại.<br /> + Ptt là sức chịu tải tính toán của cọc đơn<br /> Hình 6. Biểu đồ quan hệ tải trọng- lún: hoặc nhóm cọc.<br /> Cọc đơn D1 + F là hệ số an toàn, với cọc thí nghiệm nén<br /> tĩnh lấy F = 2,0.<br /> Việc xác định sức chịu tải cho cọc xi măng -<br /> đất chưa có tiêu chuẩn hay quy phạm, tuỳ thuộc<br /> mục đích sử dụng, độ lún cho phép của công<br /> trình cần gia cố để có thể chọn độ lún cho phù<br /> hợp. Theo nội dung thí nghiệm phục vụ gia cố tải thực tế của các cọc thí nghiệm được trình bày<br /> nền đất dưới đê, nền đường có thể khuyến nghị ở bảng 3:<br /> lấy độ lún bằng 10% đường kính cọc. Sức chịu<br /> <br /> Bảng 3: Sức chịu tải thực tế của cọc thí nghiệm<br /> <br /> Nền phức hợp (03 Cọc nén dọc trục Cọc nén ngang<br /> Số hiệu cọc<br /> cọc hình tam giác) D1 D2 N1 N2<br /> Sức chịu tải Pgh (tấn) 8,5 T 24 T 22 T 5T 5,2 T<br /> Sức mang tải tính toán 42,5 T 12 T 11 T 2,5 T 2,6 T<br /> Ptt (tấn)<br /> <br /> 2.2. Thí nghiệm trong phòng Kết quả thí nghiệm trên tập hợp mẫu ở các<br /> Các mẫu thí nghiệm được lấy bằng khoan thời điểm 21, 28, 56 ngày. Kết quả thí nghiệm<br /> lấy lõi (11, 13, 15) từ các cọc xi măng - đất được trình bày trong bảng 4.<br /> được thi công trước đấy 7 ngày, đường kính<br /> 150mm. Các mẫu khoan được bảo dưỡng<br /> trong điều kiện bình thường. Việc khoan lấy lõi<br /> ở ngày tuổi sớm và đặc tính dễ gẫy, vỡ của vật<br /> liệu thân cọc nên gây nhiều khó khăn để có thể<br /> lấy được các mẫu với đúch kính thước tiêu<br /> chuẩn.<br /> Các mẫu hiện trường thường không đồng<br /> nhất trong bản thân một cây cọc. Vật liệu thân<br /> cọc có tỉ lệ hữu cơ, lẫn các trầm tích ven biển<br /> như vỏ sò, ốc rất cao và thấy rõ tính phân tầng<br /> dọc theo chiều dài cọc.<br /> Cường độ mẫu ở thời điển 14 ngày rất yếu,<br /> do tốc độ phát triển cường độ của vật liệu xi<br /> măng - đất, nên các thí nghiệm được tiến hành<br /> ở 21, 28 và 56 ngày tuổi.<br /> Các mẫu đúc (D1, D2, D3) được chế bị từ<br /> đất lấy ở hiện trường trộn với xi măng. Đất<br /> nguyên dạng là đất sét pha có lẫn vỏ sò được<br /> lấy từ độ sâu 1,5m, hệ số rỗng e = 0,953; độ<br /> ẩm 32,23%; Khối lượng thể tích tự nhiên ( =<br /> 1,82 (10 kN/m3) hệ số nén lún a1-2 = 0,125<br /> (102 kPa)-1. Đất sau khi phơi khô, giã và qua<br /> sàng 2mm, trộn đều với chất gia cố và nước.<br /> Chất gia cố dùng xi măng hàm lượng 100, 200,<br /> 300 kg/m3. Các mẫu đúc đường kính 150mm,<br /> cao 300mm được bảo dưỡng trong điều kiện<br /> bình thường trong thời gian 21, 28, 56 ngày.<br /> Bảng 4: Quan hệ giữa cường độ nén<br /> và thời gian<br /> <br /> Hàm lượng BiÓu 4: BiÓu ®å Ph¸t triÓn cêng ®é theo thêi gian<br /> TT Cọc Rn 21 Rn 28 Rn 56<br /> Xm (Kg/m3)<br /> 18<br /> 1 11 100 1,64 3,75 4,45 16<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> cêng ®é nÐn Rn (daN/cm2)<br /> 2 13 200 2,35 3,87 4,76 14 MÉu<br /> 12 11<br /> 3 15 300 7,50 13,50 17,59 10<br /> MÉu<br /> 13<br /> 4 D1 100 5,08 6,02 6,77 8 MÉu<br /> 15<br /> 6<br /> MÉu<br /> 5 D2 200 13,84 15,56 16,39 4 D1<br /> <br /> 6 D3 300 14,69 17,51 19,30 2<br /> <br /> 0<br /> 0 7 14 21 28 35 42 49 56 63<br /> <br /> thêi gian (ngµy)<br /> <br /> <br /> <br /> Hình 8: Biểu đồ phát triển cường độ<br /> theo thời gian<br /> <br /> Đối với bê tông mẫu 28 ngày cường độ coi như lớn nhất, nhưng đối với xi măng - đất do thành phần<br /> xi măng và đất trong quá trình đông cứng sẽ hình thành nhiều phản ứng hóa học nên cường độ phát<br /> triển chậm theo thời gian. Điển hình như mẫu 15 và mẫu D3, đây là 2 mẫu có hàm lượng xi măng<br /> cao 300 Kg/m3. Giữa mẫu KPCA thực tế và mẫu hiện trường có sự chênh lệch cường độ nên khá lớn,<br /> nhưng độ chênh lệch càng ngày càng giảm. So sánh số liệu thí nghiệm của mẫu 15 và D3 ở 21 và 56<br /> ngày, cho sự chênh cường độ nén từ 78% xuống 10%. Nguyên nhân có thể do điều kiện tạo mẫu trong<br /> phòng và hiện trường khác nhau, có sự chênh lệch về mức độ đồng đều khi trộn xi măng vào đất và<br /> điều kiện bảo dưỡng: thời gian thi công khác nhau; áp lực phun và năng lượng đầm khi tạo mẫu khác<br /> nhau.<br /> 3. Một số nhận xét và kết luận<br /> Theo Vương Hách (t.225), tải trọng tới hạn thẳng đứng của cọc đơn đối với phương pháp ống đơn<br /> (đơn pha) là 500 - 600 kN, tải trọng tới hạn ngang của cọc đơn là 30-40 kN. Đây là số liệu có thể sử<br /> dụng được cho thiết kế nếu không có điều kiện thí nghiệm hiện trường.<br /> Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, KPCA sử dụng cốt liệu sẵn có trong đất để tạo thành vật liệu xi<br /> măng - đất có cường độ cao hơn đất tự nhiên. Như vậy, cường độ của vật liệu mới tạo ra phụ thuộc rất<br /> nhiều vào các đặc tính địa kỹ thuật của đất nền tự nhiên, như thành phần hạt, độ rỗng, v.v. Đồng thời,<br /> hàm lượng xi măng sử dụng trong một đơn vị thể tích cọc cũng là một yếu tố quyết định cường độ cọc.<br /> Ngoài ra, đặc điểm địa kỹ thuật vốn có của đất nền cũng có ảnh hưởng quan trọng đến tương tác cọc -<br /> đất nền và sự làm việc của cọc. Do tác giả Vương Hác đã không cung cấp các số liệu nói trên, việc so<br /> sánh có thể bất cập. Tuy vậy, ta có thể nhận xét rằng các giá trị thí nghiệm thấp hơn các giá trị của<br /> Vương Hách không nhiều (10-25%).<br /> Các số liệu do Lên Văn Kiểm (t. 77-78) cung cấp lại cao hơn rất nhiều: 200 kG/cm2 đối với nền<br /> cuội sỏi, 150 kG/cm2 đối với đất cát và 80 kG/cm2 đối với đất bùn, sét. Do tài liệu chỉ giới thiệu sơ<br /> lược nên các yếu tố địa kỹ thuật của đất nền, công nghệ thi công, hàm lượng vữa, tiêu chuẩn thí<br /> nghiệm, v.v. đều không rõ. Vì vậy, rất khó có thể so sánh trực tiếp với các kết quả được thực hiện ở<br /> Đồ Sơn.<br /> Bất kỳ một công nghệ mới cũng đòi hỏi rất nhiều đầu tư thời gian và vật chất để hoàn thiện, kiểm<br /> chứng và tiến tới phổ biến rộng rãi. Thí nghiệm tại Đồ Sơn được thực hiện trong một thời gian rất ngắn và<br /> với kinh phí hạn hẹp, do đó chắc chắn có nhiều thiếu sót. Đây chỉ có thể là một trong rất nhiều thí nghiệm<br /> cần được tiếp tục thực hiện với quy mô lớn hơn và chuyên sâu hơn. Vì vậy, cần phải tạo điều kiện cho<br /> các đề tài nghiên cứu với đầu tư đúng mức về công nghệ này nhằm hoàn chỉnh phương pháp tính toán,<br /> quy trình thi công và kiểm tra, kiểm soát chất lượng cũng như các tiêu chuẩn liên quan, trong đó gồm cả<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2