TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
<br />
MỘT SỐ KHIẾM KHUYẾT - BẤT THƯỜNG RĂNG HÀM MẶT<br />
VÀ ĐẶC ĐIỂM BỆNH LÝ DI TRUYỀN<br />
<br />
Hoàng Đạo Bảo Trâm¹, Tạ Thành Văn²<br />
¹Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, ² Trường Đại học Y Hà Nội<br />
<br />
<br />
<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Các bất thường răng hàm mặt có thể biểu nhai thực hiện được các chức năng, ngăn cản<br />
hiện đơn lẻ hoặc nằm trong một hội chứng, có các rối loạn và các hoạt động cận chức năng,<br />
thể liên quan đến nhiều yếu tố như môi trường, đồng thời có vai trò quan trọng về thẩm mỹ.<br />
bệnh lý trong quá trình hình thành và phát triển, Oligodontia là một trong các thể bệnh lý<br />
gen, di truyền… Bài tổng quan trình bày về một thiếu răng, biểu hiện thiếu bẩm sinh tối thiểu 6<br />
số bất thường răng hàm mặt: dịch tễ, nguyên răng, không kể các răng khôn. Bệnh có nguyên<br />
nhân, đặc điểm bệnh lý và biểu hiện tại chỗ và nhân chủ yếu về gen, có thể đơn lẻ hoặc là<br />
toàn thân. Việc phát hiện, chẩn đoán chính xác một phần của một hội chứng đa bất thường về<br />
và kịp thời, tiên lượng và theo dõi thích hợp có hình thái. Bệnh lý này ảnh hưởng đến cả chức<br />
thể giúp người bệnh cải thiện các tình trạng năng, thẩm mỹ và tâm lý xã hội của người<br />
khiếm khuyết về cấu trúc, chức năng và thẩm bệnh. Bệnh hiếm gặp và có tỷ lệ bệnh thay<br />
mỹ, phục hồi và nâng cao chất lượng cuộc đổi tùy theo răng, hàm, loại khớp cắn, giới, và<br />
sống của người bệnh. chủng tộc. Đối với răng vĩnh viễn, tỷ lệ trong<br />
dân số châu Âu thay đổi từ 1/1250 đến 1/625<br />
II. NỘI DUNG TỔNG QUAN<br />
tùy theo nghiên cứu. Trong một phân tích meta<br />
1. Oligodontia năm 2004, Polder và cộng sự ghi nhận tỷ lệ<br />
Thiếu răng là một bệnh lý thường gặp, và chung của bệnh lý oligodontia là 0,14%, tương<br />
là một bất thường phát triển ở người hay gặp đương 1/714 [2]. Ở bộ răng sữa, bệnh lý này<br />
nhất, với tỷ lệ xấp xỉ 1/18 trên dân số châu Âu rất hiếm gặp và chưa có số liệu báo cáo. Việc<br />
[1]. Thiếu răng được định nghĩa là bất thường điều trị bệnh thường đòi hỏi sự phối hợp của<br />
về số lượng răng do không có sự phát triển của nhiều chuyên ngành như nha khoa trẻ em,<br />
một hay nhiều mầm răng. Trong đó, phần lớn chỉnh hình răng mặt, phục hình, phẫu thuật<br />
các trường hợp thiếu bẩm sinh dưới 6 răng. hàm mặt và cấy ghép, cũng như chẩn đoán<br />
Một bộ răng hoàn chỉnh, với quá trình phát triển hình ảnh, bệnh lý gen, liệu pháp vận động và<br />
và thiết lập một khớp cắn sinh lý, liên quan đến cả tâm lý học.<br />
sự phát triển hài hòa của mặt, giúp hệ thống Oligodontia có thể được phân ra hai loại<br />
chủ yếu :<br />
Địa chỉ liên hệ: Hoàng Đạo Bảo Trâm - Đại học Y<br />
Oligodontia đơn lẻ biểu hiện ở những<br />
Dược Thành phố Hồ Chí Minh<br />
người không có hội chứng lớn, đa số có nguyên<br />
Email: hoangdaobaotram@ump.edu.vn<br />
nhân về gen, tuy nhiên ở một số trường hợp<br />
Ngày nhận: 07/04/2017<br />
có thể liên quan đến yếu tố môi trường như<br />
Ngày được chấp nhận: 26/6/2017<br />
<br />
<br />
138 TCNCYH 108 (3) - 2017<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
tia ion, hóa chất, chấn thương sọ mặt, nhiễm thái. Các tác giả Bloch-Zupan và Cardinaux<br />
khuẩn khi sinh, sử dụng Thalidomide® trong liệt kê tới 15 hội chứng đa bất thường hình<br />
thai kỳ, phơi nhiễm dioxin…. thái thường có kèm biểu hiện oligodontia: loạn<br />
Oligodontia thường có các biểu hiện bất sản ngoại bì giảm tiết mồ hôi (DEH), loạn sản<br />
thường về răng, rối loạn khớp cắn và bất ngoại bì có suy giảm miễn dịch, incontinentia<br />
thường hình thái xương sọ - mặt. Các bất pigmenti, loạn sản ngoại bì - ngón chẻ - khe<br />
thường về răng có thể bao gồm bất thường hở khẩu cái (BEC), hội chứng CLPED1, hội<br />
về hình thái và kích thước như răng hình nón, chứng Van der Woude, hội chứng Williams,<br />
răng ít múi, răng bò tót, răng nhỏ, chân răng hội chứng Witkop, hội chứng Rieger, loạn sản<br />
ngắn, bất thường về cấu trúc mô răng như răng-móng-da (OODD), loạn sản đầu xương<br />
thiểu sản men răng, kém khoáng hóa men và đầu chi (ASPED), hội chứng Kallmann, hội<br />
răng, bất thường về quá trình mọc và thay răng chứng Bloom, hội chứng Johanson-Blizzard,<br />
như mọc muộn, lạc chỗ, hoán đổi chỗ, trồi răng hội chứng Kabuki [1]. Bên cạnh các biểu hiện<br />
quá mức, răng xoay, các răng cối sữa thấp. ở vùng răng hàm mặt như bất thường số<br />
Các bất thường về răng và xương ổ răng lượng, hình dạng, cấu trúc, kích thước răng,<br />
đưa đến hậu quả bất thường về cung răng và bất thường phát triển xương hàm, lưỡi, khe hở<br />
khớp cắn, như răng xoay, nghiêng, sai chỗ, môi vòm miệng, bệnh nhân còn có thể có các<br />
khe hở giữa các răng, sống hàm và cung răng biểu hiện bất thường ở các cơ quan, hệ thống<br />
hẹp, cắn sâu, giảm độ cắn chìa, hàm nhỏ, xu khác như da, tóc, móng, tuyến mồ hôi, chi và<br />
hướng khớp cắn hạng III. Các bất thường về ngón, tai, mắt, hô hấp, cơ xương khớp, tâm<br />
xương và răng dẫn đến tình trạng bệnh nhân thần. Các bất thường này gây ra những ảnh<br />
có tầng mặt dưới thấp, tầng mặt giữa lùi sau, hưởng quan trọng đối với chức năng, thẩm mỹ<br />
mặt lõm, gò má lép, môi trên tụt ra sau, môi và vấn đề tâm lý xã hội của bệnh nhân.<br />
dưới trề, rãnh môi cằm rõ. Bệnh nhân có các Việc tiên lượng và điều trị bệnh nhân mắc<br />
rối loạn chức năng như nhai, nuốt, phát âm, oliogodontia liên quan đến nhiều chuyên<br />
hô hấp. ngành. Đối với bệnh nhân nhỏ tuổi, bác sỹ nha<br />
khoa trẻ em có vai trò quan trọng, thường là<br />
người đưa ra chẩn đoán đầu tiên và theo dõi<br />
quá trình phát triển của trẻ. Ở người lớn, các<br />
điều trị liên quan đến thẩm mỹ, chức năng và<br />
có tính lâu dài. Tùy theo tình trạng tại chỗ, toàn<br />
thân, kinh tế - xã hội, phục hình có thể thuộc<br />
loại cũ hay là phục hình trên implant, cố định<br />
hay tháo lắp. Phục hình trên implant thường là<br />
lựa chọn đối với bệnh nhân oligodontia, song<br />
Hình 1. Oligodontia đơn lẻ ở một bệnh các loại phục hình khác cũng không loại trừ.<br />
nhân nữ 12 tuổi [1] Chỉnh hình răng mặt cũng thường giữ vai trò<br />
quan trọng. Ở trẻ đang phát triển, cần có các<br />
Oligodontia thuộc hội chứng xảy ra ở can thiệp hướng dẫn đối với các vấn đề rối<br />
những bệnh nhân có thiếu nhiều tổ hợp gen loạn chức năng và cận chức năng miệng - mặt,<br />
và có biểu hiện hội chứng đa bất thường hình điều chỉnh các bất thường hình thái xương, rối<br />
<br />
<br />
TCNCYH 108 (3) - 2017 139<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
loạn khớp cắn, khe hở giữa các răng, phục 2. Incontinentia pigmenti (IP)<br />
hình ban đầu. Các điều trị này cũng có vai trò Incontinentia pigmenti (OMIM308300; OR-<br />
thiết yếu đối với phục hình ở giai đoạn trưởng PHA464) là một bệnh genodermatose liên<br />
thành, đặc biệt lưu ý về khoảng cách giữa quan đến nhiễm sắc thể X, do đột biến gen<br />
các thân răng và khoảng cách giữa các chân IKBKG. Đây là một bệnh hiếm (có khoảng<br />
răng trong trường hợp thực hiện implant-phục 700 trường hợp được báo cáo), có thể gặp<br />
hình. Chỉnh hình răng mặt cũng cần thiết trước ở nhiều nơi trên thế giới, trong đó hay gặp ở<br />
và sau các phẫu thuật chỉnh hình hàm mặt. người caucasien. Tỷ lệ bệnh ước tính khoảng<br />
Chuyên gia về phát âm, cùng với bác sỹ chỉnh 0,2/100.000, thấy nhiều hơn ở nữ và thường<br />
hình và bác sỹ phẫu thuật, sẽ có những can gây sẩy thai ở người [3].<br />
thiệp và bài tập nhằm cải thiện về phát âm và Bệnh biểu hiện rối loạn về sắc tố, tác động<br />
các chức năng khác như nuốt, thở của bệnh đến hệ thần kinh trung ương, da, mắt và răng.<br />
nhân. Các can thiệp phẫu thuật miệng như IP đặc trưng bởi các bất thường ở các mô và<br />
nhổ răng, lấy răng ngầm, cấy ghép răng cũng cơ quan nguồn gốc ngoại bì và trung bì. Bệnh<br />
có thể được chỉ định. Cuối cùng, phẫu thuật được Garrod mô tả năm 1906, và thuật ngữ IP<br />
chỉnh hình hàm mặt được đặt ra đối với các hay hội chứng Bloch - Sulzberger được Bloch-<br />
trường hợp chẩn đoán muộn khi đó các can Sulzberger đưa ra năm 1926 [3]. Tên IP được<br />
thiệp chỉnh hình không thể thực hiện hiệu quả, hình thành do có sự biểu hiện các vết sắc tố<br />
hoặc trong trường hợp điều trị chỉnh hình chưa melanine ở biểu bì và da. Các biểu hiện ở da<br />
đủ để điều chỉnh các bất thường về xương. thường lành tính và giảm dần. Ngược lại, các<br />
Các can thiệp xương, tùy trường hợp, có thể ở bất thường về mắt và thần kinh có thể nặng và<br />
hàm trên (Le Fort 1 hoặc Le Fort 2), hàm dưới kéo dài suốt đời, ảnh hưởng đến chất lượng<br />
(chẻ dọc cành lên xương hàm dưới), hoặc phối sống của người bệnh.<br />
hợp cả hai hàm. Có 2 gen được xác định liên quan đến bệnh<br />
Chẩn đoán về gen là cần thiết, giúp xác này, nằm trên nhiễm sắc thể X là gen X locus<br />
định thể bệnh và hỗ trợ cho kế hoạch điều trị, p11 và gen X locus p28. IP type I, ít gặp, do<br />
bên cạnh đó là các yếu tố cần lưu ý liên quan chuyển vị trên nhiễm sắc thể X, và IP type II,<br />
đến gia đình, di truyền. Việc điều trị và phục thường gặp hơn, do mất đoạn ở nhiễm sắc thể<br />
hồi răng miệng ở bệnh nhân oligodontia, thuộc X. Trong 80% trường hợp, sự mất đoạn này<br />
một hội chứng hoặc đơn lẻ, đòi hỏi sự phối đưa exon 4 qua vị trí 10 và sinh đột biến gen<br />
hợp đa chuyên ngành và tùy theo từng trường IKBKG (yếu tố ức chế κB kinase γ), trước đây<br />
hợp cụ thể. Tuy nhiên, quá trình điều trị có gọi là NEMO (yếu tố điều hòa thiết yếu NF-κB)<br />
đặc điểm chung là kéo dài, có thể từ thời điểm [4; 5]. Trước nhận diện nhiều sai lệch nhiễm<br />
được chẩn đoán lúc nhỏ cho tới tuổi trưởng sắc thể, liên quan đến đoạn ngắn và đoạn dài<br />
thành, tới cả chục năm. Do đây là bệnh hiếm của nhiễm sắc thể X, Berlin và cộng sự xác<br />
gặp và không quen thuộc, bác sỹ thường gặp định được mối liên quan có ý nghĩa giữa Xq28<br />
khó khăn trong việc thiết lập một kế hoạch điều và bệnh IP, cho phép loại trừ đoạn ngắn (đặc<br />
trị phù hợp. Chìa khóa thành công của việc biệt là Xp11) trong bệnh nguyên của IP. Hiện<br />
điều trị bệnh nhân oligodontia là vấn đề phối giờ, chỉ có type II đáp ứng tiêu chuẩn chẩn<br />
hợp các chuyên khoa, từ khi được chẩn đoán đoán IP [5].<br />
ở giai đoạn sớm cho đến phục hình sau cùng. Gen IKBKG mã protein IKKγ, là một yếu<br />
<br />
<br />
140 TCNCYH 108 (3) - 2017<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
tố điều hòa thứ cấp liên quan đến 2 protein kinh, yếu tố dẫn truyền NF-κB không còn giữ<br />
kinase IKKα và IKKβ. IKKγ, IKKβ và IKKα tạo vai trò của nó trong việc bảo vệ chống lại phản<br />
nên phức hợp enzyme IKK. Phức hợp enzyme ứng miễn dịch và phản ứng apoptose, chẳng<br />
này thiết yếu đối với con đường tín hiệu NF-κB. hạn bị gây ra bởi xuất huyết não ví dụ như tình<br />
Dòng yếu tố chuyển NF-κB là một yếu tố chìa trạng thiếu oxy tế bào hay hiện tượng độc với<br />
khóa trong điều hòa thể hiện gen. Nó tác động tế bào trong cơn động kinh.<br />
trong giai đoạn truyền tín hiệu phản ứng miễn Biểu hiện phenotype của đột biến này rất<br />
dịch bẩm sinh, bám dính tế bào, biệt hóa sau thay đổi ngay cả ở các bệnh nhân có cùng loại<br />
cùng của các tế bào keratin và bảo vệ chống đột biến gen. Sự đa dạng này rất có thể do sự<br />
lại quá trình apoptose [4; 5]. hoạt hóa của một trong hai nhiễm sắc thể X<br />
Ở tình trạng sinh lý, NF-κB được điều hòa ở người nữ. Bệnh truyền chủ yếu theo nhiễm<br />
ở khoảng gian bào bởi IKK. Khi đáp ứng với sắc thể X. Người phụ nữ mắc IP có thể có bất<br />
các kích thích, như cytokine viêm, các tín thường gen do mẹ truyền hoặc là một đột biến<br />
hiệu sẽ được truyền đến IKKγ, cho phép hoạt mới. Khi phát hiện bất thường gen ở trẻ, cần<br />
hóa phức hợp enzyme (IKK) và sinh ra quá khảo sát bố mẹ. Dù cha mẹ có biểu hiện bệnh<br />
trình phosphoryl hóa. Quá trình này dẫn đến IP hay không, vẫn cần thực hiện xét nghiệm<br />
hoạt động phosphoryl hóa protein ức chế IκB phân tử đối với người mẹ. Một số bà mẹ có<br />
kinase, kết hợp với yếu tố dẫn truyền của dòng thể mang đột biến gen nhưng biểu hiện bệnh<br />
NF-κB (ví dụ p50/p65). Con đường tín hiệu ở mức rất nhẹ. Ngược lại, trường hợp cả mẹ<br />
NF-κB được hoạt hóa và yếu tố dẫn truyền của và con đều mắc bệnh, khả năng di truyền cao<br />
dòng NF-κB có thể được truyền vào nhân tế tới mức 50%. Xác suất truyền cho con trai thấp<br />
bào. Khi đã tới nhân tế bào, yếu tố dẫn truyền hơn, ở mức 33%.<br />
này sẽ kiểm soát biểu hiện bộ gen được mã Khi bà mẹ mang thai mắc IP, cần thực hiện<br />
hóa cho các protein liên quan trong hệ miễn karyotype trước sinh:<br />
dịch, đáp ứng viêm và apoptose [6]. - Nếu karyotype phôi là 46,XX: tỷ lệ mắc<br />
Trong bệnh IP, đột biến gen IKBKG luôn của con là 50% [4]<br />
cho phép tương tác của protein IKKγ với phức - Nếu karyotype phôi là 46,XY: có nguy cơ<br />
hợp enzyme nhưng không cho phép hoạt hóa sảy thai trong 3 tháng đầu thai kỳ. Trong một<br />
tiếp tục con đường tín hiệu NF-κB. Các tế bào bài tổng quan các tài liệu từ 1993 đến 2010,<br />
câm không đáp ứng các kích thích hoạt hóa Minić và cộng sự ghi nhận tình trạng bệnh ở<br />
con đường tín hiệu này nữa và không tiếp nam. Trong 1286 bệnh nhân mắc IP, 83 nam<br />
tục phá hủy IκB Kinase. Hơn nữa, các tế bào được chẩn đoán [7]. Giải thích có thể là các<br />
này rất nhạy cảm với TNF và quá trình chết biểu hiện IP ở nam có dạng khảm thể post-<br />
tế bào theo chương trình. Do đó khi tiếp xúc zygotic của gen IKBKG. Đột biến gen biểu hiện<br />
với TNF-α chẳng hạn, chúng chuyển biến theo ở một số lượng giới hạn tế bào [4; 8].<br />
hướng apoptose [6]. - Nếu karyotype phôi là 47,XXY: nguy cơ<br />
Ở da, các tế bào câm, trong đó chứa gen sảy thai. Sự hiện diện thêm một nhiễm sắc thể<br />
câm, không được cơ thể nhận biết và dẫn đến X ở người nam mắc IP đã được ghi nhận trong<br />
quá trình viêm. Sự tăng trưởng tế bào dừng y văn, như hội chứng Klinefelter (47,XXY).<br />
lại và các tế bào da bị phá hủy do tăng tổng Trong những trường hợp này, như ở nữ, một<br />
hợp interleukine 1 β (IL1β) ở biểu bì. Ở hệ thần trong các nhiễm sắc thể X đã bị bất hoạt [8].<br />
<br />
<br />
TCNCYH 108 (3) - 2017 141<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
Tổn thương da có thể tiến triển qua 4 giai đến chậm phát triển trí tuệ, ngôn ngữ, liệt nửa<br />
đoạn: người, mất điều hòa vận động do não, bệnh lý<br />
Giai đoạn 1: bóng nước đỏ hồng ở đầu chi vi mạch não, thiếu máu não cục bộ ở trẻ. Các<br />
và vùng da có lông tóc, xuất hiện trong khoảng biểu hiện này có thể được chẩn đoán từ khi<br />
4 năm đầu đời của trẻ, biến mất trong vòng ra đời đến khi trẻ 10 tuổi. Theo một số khảo<br />
4 tháng. Giai đoạn biểu hiện này thấy ở 90% sát, các biểu hiện thần kinh thấy ở 66,9% các<br />
người mắc bệnh. trường hợp trong tháng đầu tiên trẻ ra đời [10].<br />
Giai đoạn 2: thấy trong khoảng tuần đầu Trong một tổng quan hệ thống, Minić và<br />
tiên tới tuần thứ 20 của trẻ. Biểu hiện bằng các cộng sự thấy rằng 30,44% bệnh nhân IP có<br />
nốt mụn quá sừng và các tổn thương dạng hột bất thường thần kinh, trong đó 25,7% có thiểu<br />
cơm, chủ yếu ở vùng da có lông tóc. năng tâm thần, 20,36% chậm phát triển tâm<br />
Giai đoạn 3: da biểu hiện sắc tố quá mức, thần và 4,07% có não nhỏ [7]. Minić và cộng<br />
thấy ở tuần thứ 12 đến 20, là giai đoạn đặc sự đặt ra giả thuyết có thể các tổn thương ở<br />
hiệu nhất. não có dạng hình tương tự như tổn thương<br />
Giai đoạn 4: có thể xuất hiện trong khoảng trên da theo mô tả của Blaschko, có thể tương<br />
thời gian từ khi ra đời đến khi trưởng thành, tự ở xương, răng, mắt, do cấu trúc của các cơ<br />
biểu hiện bằng các tổn thương da mất màu, quan này có liên quan về nguồn gốc phôi thai,<br />
thường chạy theo chiều dài chân, thường thấy điều này ủng hộ quan điểm khảm di truyền do<br />
ở mặt phía sau chân, và mất dần theo thời bất hoạt nhiễm sắc thể X. Trong các bệnh nhân<br />
gian. Các tổn thương này nhạt màu so với da IP có ảnh hưởng thần kinh trung ương, 54,3%<br />
xung quanh, do giảm các hạt sắc tố và mạch bệnh nhân có ảnh hưởng bệnh lý ở mắt; và<br />
máu, có thể chạy theo hình chữ V ở lưng và trong các bệnh nhân IP có biểu hiện bệnh lý<br />
dạng chữ S ở ngực, theo đường thần kinh, đặc hiệu về răng miệng, 69,56% có ảnh hưởng<br />
mạch máu và bạch huyết. ở hệ thần kinh trung ương.<br />
Các tổn thương da trong bệnh IP có thể<br />
phối hợp bệnh lý da khác như viêm nhiễm,<br />
herpes, thủy đậu, bóng nước biểu bì. Các tổn<br />
thương thường tự biến mất, có thể dùng kháng<br />
sinh và kháng viêm trong một số trường hợp.<br />
Ngoài ra, cũng có thể thấy biểu hiện ở tóc và<br />
móng: 50% bệnh nhân có biểu hiện ở tóc, tóc Hình 2. Hàm trên và hàm dưới<br />
khô gãy mất độ bóng, có thể không có lông một bệnh nhân IP, nữ, 13 tuổi [3]<br />
mày và lông mi, móng chân và móng tay có thể<br />
bị phá hủy, mỏng, vằn, hoặc phì đại. Ở các bệnh nhân IP, 95,05% có biểu hiện<br />
Các tổn thương thần kinh là biến chứng bất thường về răng và 4,95% có bất thường<br />
nặng nề nhất của bệnh IP, có thể xuất hiện từ về miệng. Các bất thường răng có thể về hình<br />
sơ sinh hoặc trong giai đoạn nhỏ tuổi. Thống dạng, điển hình là răng cửa và răng năng hình<br />
kê của Carney năm 1976 trên 653 bệnh nhân nón, về số lượng (31,22%) như thiếu răng,<br />
IP cho thấy có 142 người có ảnh hưởng thần oligodontia, và răng mọc muộn (17,87%) [7].<br />
kinh, 13,3 đến 25% bệnh nhân IP có biểu hiện Các bất thường có thể thấy cả ở răng sữa và<br />
co giật [9]. Các vấn đề thần kinh có thể dẫn răng vĩnh viễn. Bệnh nhân có thể có khe hở<br />
<br />
<br />
142 TCNCYH 108 (3) - 2017<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
vòm miệng, khẩu cái hình cung. Các biểu hiện tính.[12]<br />
bệnh lý ở mắt là tiêu chuẩn chẩn đoán thứ 4. Hội chứng Beckwith-Wiedemann<br />
yếu, 90% bệnh nhân có thị lực bình thường.<br />
Hội chứng Beckwith-Wiedemann có tỷ lệ<br />
Bệnh nhân có thể bị ảnh hưởng mắt một bên<br />
bệnh khoảng 1/13.700, đặc trưng bởi sự phát<br />
(7%) hoặc 2 bên (23%); ở bệnh nhân có bệnh<br />
triển quá mức bẩm sinh, lưỡi to, thoát vị rốn.<br />
lý ở 2 mắt, thông thường có kèm ảnh hưởng<br />
Nguyên nhân liên quan đến sự biến đổi vùng<br />
thần kinh [11]. Theo Minić và cộng sự, các bất<br />
p15 của nhiễm sắc thể 11: demethyl đơn lẻ<br />
thường võng mạc (53%) trong IP chủ yếu có<br />
vùng khởi phát của KCNq10T1 hoặc ICF2.[13]<br />
nguyên nhân mạch máu như giãn mao mạch,<br />
5. Cherubism<br />
chảy máu hoặc vô mạch ở võng mạc. Các bất<br />
thường không thuộc võng mạc (47%) có thể Cherubism là một bệnh hiếm gây tổn<br />
là bất thường thủy tinh thể (3,38%), mắt nhỏ thương sợi-xương ở xương hàm dưới hoặc ở<br />
(2,3%) [7]. Các biểu hiện khác có thể có như cả hai hàm. Bệnh thường biểu hiện bằng khối<br />
về phát triển vú, công thức máu bất thường... phồng hai bên hàm, không đau. Khi tổn thương<br />
Việc chẩn đoán IP đôi khi khó khăn, nhất là ở hàm trên, mắt bị đẩy lên trên. Bệnh do đột<br />
ở thời kỳ sơ sinh. Dấu hiệu phát hiện bệnh chủ biến gen SH3BP2, thường xuất hiện khoảng từ<br />
yếu là biểu hiện ở da. Tiên lượng IP không chỉ 2 đến 7 tuổi, và tiến triển cho tới thời điểm dậy<br />
liên quan đến vấn đề thần kinh và chậm phát thì, sau đó có thể ổn định hoặc có những thời<br />
triển tâm thần, mà còn có thể về mắt và thị kỳ tiến triển một phần hoặc toàn thể ở tuổi đã<br />
giác. Các bất thường về răng là loại bất thường trưởng thành. Các thể lâm sàng rất thay đổi và<br />
ngoài bất thường da hay gặp nhất. Cần phối chưa nghiên cứu nào tìm thấy mối liên hệ với<br />
hợp nhiều chuyên ngành như nhi khoa, da liễu, genotype và phenotype. Tỷ lệ bệnh cũng chưa<br />
thần kinh, nha khoa, nhãn khoa trong điều trị được xác định, có thể thấp hơn 1/10.000 [14].<br />
và theo dõi. Chẩn đoán dựa trên hai yếu tố chính: dấu hiệu<br />
phồng má hai bên không đau và bất thường<br />
3. Hội chứng loạn sản ngoại bì, ngón chẻ,<br />
răng (thiếu răng, tiêu chân răng, răng kẹt,<br />
khe hở khẩu cái (EEC)<br />
răng nằm trong lòng tổn thương). Hạch dưới<br />
Hội chứng loạn sản ngoại bì, ngón chẻ, khe<br />
hàm lớn cũng là dấu hiệu thường thấy trong<br />
hở khẩu cái (Ectrodactyly Ectodermal Cleft)<br />
giai đạn tổn thương tiến triển. Hình ảnh phim<br />
đặc trưng bởi các bất thường phôi thai có<br />
tia X cho thấy các tổn thương đối xứng, nhiều<br />
nguồn gốc gen, do đột biến gen TP63 (3q27)<br />
ổ, giới hạn rõ, như “bong bóng xà phòng„. Về<br />
mã hóa yếu tố chuyển TP63. Do gen này tham<br />
mô học, mô xương bị thay thế bởi mô sợi giàu<br />
gia vào quá trình phát triển của ngoại bì và các<br />
mạch máu, chứa các tế bào khổng lồ đa nhân<br />
chi, đột biến gen này dẫn đến bất thường về<br />
dạng tế bào hủy xương.<br />
ngón và nhập ngón chân và tay. Có thể thấy<br />
Cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh<br />
các bất thường ở cơ quan khác như khe hở<br />
hệ thống khác như hội chứng Ramon, là một<br />
môi - xương ổ răng - vòm miệng, thiếu răng,<br />
dạng cherubism có thể kèm theo u sợi nướu,<br />
răng mọc muộn, lạc chỗ, bất thường hệ tiết<br />
rậm lông tóc, thiểu năng tâm thần, động kinh,<br />
niệu sinh dục, điếc do dẫn truyền hoặc nhận<br />
hoặc hội chứng Noonan với biểu hiện bất<br />
cảm, hẹp lỗ mũi sau, thiểu năng tuyến vú, bất<br />
thường hình thái mặt đôi khi tương tự, hay khối<br />
thường ở nhãn cầu, bất thường về nội tiết,<br />
u tế bào khổng lồ. Bất thường hình thái mặt<br />
chậm phát triển tâm vận động, lymphome ác<br />
<br />
TCNCYH 108 (3) - 2017 143<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
đặc trưng bởi đột biến gen khác (PTNN11 và như nhiễm khuẩn, chấn thương, áp lực của<br />
50511). Trên phim tia X, có thể thấy các hình mầm răng kế cận, hoặc yếu tố về gen. Một số<br />
ảnh thấu quang một bên và khu trú, như các tác giả giải thích bất thường này là do có sự<br />
khối u men, u hạt tế bào khổng lồ hoặc nang phát triển tế bào không bình thường. Rushton<br />
tạo ngà cần được loại trừ. (1937) cho rằng nguyên nhân là do có sự kích<br />
thích tăng sinh tế bào quá mức trong giai đoạn<br />
phát triển phôi [18]. Trong khi đó, theo Kronfeld<br />
(1934), bất thường liên quan đến sự chậm<br />
tăng sinh của một nhóm tế bào ở lớp biểu mô<br />
men trong, trong khi biểu mô men ngoài tiếp<br />
tục tăng sinh [19]. Một số tác giả khác lại cho<br />
rằng bất thường này là kết quả của sự xoắn<br />
vặn cơ quan men. Nhiều nghiên cứu ghi nhận<br />
tác động về di truyền. Bất thường này được<br />
xác định về mặt gen, có tính gia đình (di truyền<br />
trội). Một khảo sát trên 3020 trẻ ở Thụy Sĩ ghi<br />
nhận trong số trẻ có răng trong răng (2,7%<br />
mẫu khảo sát), 43% trẻ có cha/mẹ và 32% trẻ<br />
có anh/chị cũng có bất thường này [16].<br />
Trên lâm sàng, răng có thể có hình dạng<br />
Hình 3. Bệnh nhân cherubism (8 tuổi và 15 bình thường hoặc khác thường, như kích<br />
tuổi), hình ảnh 3D (10 tuổi) [15] thước gần xa lớn, hay cingulum to và có thể có<br />
6. Răng trong răng nhiều thùy. Tuy nhiên, rất nhiều trường hợp bất<br />
thường được phát hiện ngẫu nhiên qua phim<br />
Răng trong răng là một bất thường răng về<br />
tia X. Trong một số trường hợp, hình dạng răng<br />
hình dạng, tương đối hiếm, hình thành do cơ<br />
bất thường nhiều có thể làm chậm hoặc ngăn<br />
quan men chìm một phần vào nhú răng trong<br />
cản quá trình mọc răng [17].<br />
giai đoạn phát triển răng. Bất thường này do<br />
một nha sỹ được gọi tên là “Socrates„ mô tả 7. Răng sơ sinh<br />
lần đầu tiên năm 1856. Bất thường này thường Thông thường, các răng cửa hàm dưới<br />
thấy ở răng vĩnh viễn, hay gặp nhất ở răng cửa mọc đầu tiên, khi trẻ vào khoảng 6 tháng tuổi.<br />
bên hàm trên, ở cả hai bên, tiếp theo là các Các răng sơ sinh là những răng xuất hiện<br />
răng cửa giữa, răng cối nhỏ, răng nanh, ít gặp sớm hơn bình thường, có thể thấy ngay khi<br />
nhất ở răng cối. Tỷ lệ biểu hiện trong quần thể trẻ ra đời hoặc xuất hiện trong những tháng<br />
khoảng 0,3 đến 10%, nữ nhiều gấp 3 lần so sau sinh [20]. Tỷ lệ răng sơ sinh vào khoảng<br />
với nam [16]. Răng trong răng thường có liên 1:3500 đến 1:2000, và có xu hướng tăng lên<br />
quan đến các bất thường phát triển khác, như trong những năm gần đây [21]. Răng sơ sinh<br />
răng dư, răng nhập chung, răng bò tót, răng to, được phân loại dựa theo thời điểm mọc răng<br />
răng nhiều múi, thiếu răng, u ngà răng, thiểu hoặc đặc điểm về mức độ trưởng thành của<br />
sản ngà răng [17]. răng. Răng sơ sinh có thể là răng sữa xuất<br />
Nguyên nhân của răng trong răng chưa hiện sớm, hoặc là răng dư. Răng thường gặp<br />
được xác định. Nhiều yếu tố được đưa ra nhất là răng cửa dưới (85% đến 100%). Khảo<br />
<br />
<br />
144 TCNCYH 108 (3) - 2017<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
sát của Bodenhoff và Gorlin trên 359 trường ngoại bì, rối loạn sọ-mặt, pachyonychia bẩm<br />
hợp ghi nhận: 85% là răng cửa dưới, 11% là sinh, trisomie 13, khe hở khẩu cái. Điều này<br />
răng cửa trên, 3% là răng nanh hoặc răng cối cho thấy nhiều khả năng bất thường này có<br />
hàm dưới, 1% là răng nanh hoặc răng cối hàm liên quan đến yếu tố gen di truyền trội.<br />
trên [22]. Kết quả nghiên cứu của Anneroth và<br />
III. KẾT LUẬN<br />
cộng sự (1978) và Bodenhoff và Gorlin (1963)<br />
không ghi nhận có sự khác biệt về tỷ lệ răng sơ Theo y văn, các khiếm khuyết, bất thường<br />
sinh giữa nam và nữ [22]. Trong khi đó, nhiều răng hàm mặt có tỷ lệ xuất hiện thấp, tuy nhiên<br />
nghiên cứu khác lại cho thấy biểu hiện gặp các biểu hiện này có thể ảnh hưởng không nhỏ<br />
ở nữ nhiều hơn nam (Anderson và cộng sự, đến cuộc sống của người bệnh, từ khía cạnh<br />
1982) [23]. Anegundi và cộng sự, năm 2002, chức năng, sức khỏe toàn thân, cũng như về<br />
cũng ghi nhận tỷ lệ nghiêng về nữ (66%) so thẩm mỹ và các yếu tố tâm lý, xã hội. Việc phát<br />
với nam (31%) [24]. Đa số trường hợp, răng hiện và chẩn đoán kịp thời, điều trị phối hợp,<br />
sơ sinh liên quan đến lá răng tiên phát. Răng toàn diện và liên tục có thể giúp giảm nhẹ gánh<br />
xuất hiện ngay khi trẻ ra đời có tỷ lệ cao gấp 3 nặng về nhiều mặt cho người bệnh, gia đình và<br />
lần răng mọc sau đó, 90 đến 99% là răng sữa, cộng đồng. Bên cạnh đó, các nghiên cứu về di<br />
1 đến 10% là răng dư [24]. truyền và dịch tễ của bệnh cũng là những lĩnh<br />
Nhiều nguyên nhân được giả định: vị trí vực cần được quan tâm.<br />
mầm răng ở nông, dẫn đến sự hoạt hóa quá<br />
mức nguyên bào men ở giai đoạn khởi đầu TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
hoặc giai đoạn tăng sinh trong quá trình hình<br />
thành răng, các răng sơ sinh đa số nằm trong 1. Cardinaux D., Houchmand-Cuny<br />
vùng có quá trình tái tạo mạnh và có thể là M., Deumier L. et al (2015). Patients atteints<br />
nguyên nhân gây ảnh hưởng đến các mầm d’oligodontie: caractéristiques oro-faciales<br />
răng gần kề. Các mầm răng cửa giữa hàm et principles de traitement. Rev. Francoph.<br />
dưới nằm ở vùng chịu những tác động cơ Odontol. Pediatr. 10, 75 - 85.<br />
học lớn hơn so với các răng nằm trong vùng 2. Polder B.J., Van’t H.M., Van der<br />
xương hàm cứng chắc. Các răng gần khe hở Linden F.P. et al (2004). A meta-analysis of the<br />
môi xương ổ răng cũng chịu những tác động prevalence of dental agenesis of permanent<br />
tại chỗ tương tự. Một số nguyên nhân khác có teeth. Community Dent. Oral. Epidemiol. 32,<br />
thể được nhắc đến như chấn thương liên quan 217 - 226.<br />
đến can thiệp sản khoa, u, viêm nhiễm, thiếu 3. Bray E., Giumelli B., Wojtiuk F. et al<br />
vitamin, suy dinh dưỡng, rối loạn nội tiết. Tuy (2015). Incontinentia Pigmenti. Rev. Francoph.<br />
nhiên cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào Odontol. Pediatr. 10, 66 - 74.<br />
xác định được mối liên hệ nhân quả. 4. Shastry B. (2000). Recent progress in<br />
Răng sơ sinh là một dấu hiệu có thể thấy the genetics of incontinentia pigmenti (Bloch-<br />
trong rất nhiều hội chứng bất thường phát Sulzberger syndrome). J. Hum. Genet. 45, 323<br />
triển, trong đó thường gặp nhất ở hội chứng - 326.<br />
Hallermann-Streiff hay rối loạn sọ-mắt-hàm 5. Berlin A.L., Parller A.S., Chan<br />
dưới, hội chứng Wiedemann-Rautenstrausch, L.S. (2002). Incontinentia pigmenti: a<br />
hội chứng Elli-Van Creveld hay rối loạn sụn- review and update on the molecular basis of<br />
pathophysiology. J. Am. Acad. Dermatol. 47,<br />
<br />
TCNCYH 108 (3) - 2017 145<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
169 - 187. 15. Boulé-Montpezat C., Boileau M-J.,<br />
6. Raynaud F. (1999). NF-kappaB: Marteau J-M. (2015). Le chérubisme. À propos<br />
fonction, activation, rôle en physiopathologie d’un cas. Rev. Francoph. Odontol. Pediatr. 10,<br />
et implication en thérapeuthique. Médecine 154 - 159.<br />
thérapeuthique. 5, 385 - 392. 16. Alani A., Bishop K. (2008). Dens<br />
7. Minić S., Trpinac D., Gabriel H. invaginatus. Part 1 : classification, prevalence<br />
et al (2013). Dental and oral anomalies in and aetiology. Int. Endod. J. 41, 1123 - 1136.<br />
incontinentia pigmenti: a systematic review. 17. Khammal H.E., Amezian R., Fawzi R.<br />
Clin. Oral. Investig. 17, 1 - 8. (2015). Prise en charge des dents invaginées.<br />
8. Pacheco T.R., Levy M., Collyer J.C. À propos d’un cas clinique. Rev. Francoph.<br />
et al (2006). Incontinentia pigmenti in male Odontol. Pediatr. 10, 34 - 41.<br />
patients. J. Am. Acad. Dermatol. 55, 251 - 255. 18. Rushton M.A. (1937). A collection of<br />
9. Carney R.G. (1976). Incontinentia dilated composite odontomas. British Dental<br />
pigmenti: A world statistical analysis. Arch. Journal. 63, 65 - 85.<br />
Dermatol. 112, 535 - 542. 19. Kronfeld R. (1934). Dens in dente.<br />
10. Hardi-Rabia S., Froidevaux D., Journal of Dental Research. 14, 49 - 66.<br />
Bodak N. et al (2003). Clinical study of 40 20. Benkarroum F.Z., Khammal H.E.,<br />
cases of incontinentia pigmenti: a review. Eur. Zouaidi K. et al (2015). Les dents natales et<br />
J. Med. Genet. 139, 1163 - 1170. néonatales. À propos d’un cas clinique. Rev.<br />
11. Poziomczyk C.S., Recuero J.K., Francoph. Odontol. Pediatr. 10, 14 - 19.<br />
Bringhenti L. et al (2014). Incontinentia 21. Mhaske S., Yuwanati M.B., Mhaske<br />
pigmenti. An. Bras. Dermatol. 89, 26 - 36. A. et al (2013). Natal and neonatal teeth :<br />
12. Renaux M., Moulis E., Fauroux M-A. an over view of the literature. ISRN Pediatr.,<br />
(2015). Le syndrome ectrodactylie, dysplasie 956269.<br />
ectodermique et fentes orofaciales (EEC) et sa 22. Bodenhoff J., Gorlin R.J. (1963).<br />
prise en charge en médecine bucco-dentaire. Natal & neonatal teeth: folklore and fact.<br />
À propos d’un cas. Rev. Francoph. Odontol. Pediatrics. 32,1087 - 1093.<br />
Pediatr. 10, 186 - 191. 23. Aderson R.A. (1982). Natal and<br />
13. Ngo B.T., Vandomme J., Trentesaux neonatal teeth: histologic investigation of two<br />
T. et al (2015). Prise en charge bucco-dentaire black femals. ASDC J. Dent. Child. 49, 300 -<br />
d’un enfant atteint du syndrome de Beckwith- 303.<br />
Wiedemann. Rev. Francoph. Odontol. Pediatr. 24. Anegundi R.T., Sudha R., Kavedi H.<br />
10, 184 - 185. et al. (2002). Natal and neonatal teeth: a report<br />
14. Papadaki M.E., Lietman S.A., Levine of four cases. Journal of the Indian Society of<br />
M.A. et al (2012). Cherubism : best clinical Pedodontics and Preventive Dentistry. 20, 86 -<br />
practice. Orphanet. J. Rare. Dis. 7(Suppl1), 56. 92.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
146 TCNCYH 108 (3) - 2017<br />
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC<br />
<br />
summary<br />
OROFACIAL ANOMALIES AND CHARACTERISTIC OF<br />
GENETIC DISTURBANCES<br />
Orofacial anomalies can be exposed separately or composed in a systemic syndrome. These<br />
can be related to various factors such as environmental, developmental or genetic disturbances.<br />
Although the prevalence is low, these anomalies influence seriously to affected patients in many aspects<br />
including physical, functional and psychosocial points. Investigating causes and revealing clinical<br />
features are essential to establish appropriate diagnostics following by multidisciplinary approach of<br />
treatments for obtaining more comprehensive improvements for patients in medical and social contexts.<br />
<br />
Keywords: Orofacial anomalies, genetic disturbances<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TCNCYH 108 (3) - 2017 147<br />