Xã hội học, số 4 - 1992<br />
<br />
29<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Một số vấn đề nghiên cứu Hà Nội và<br />
những nhận xét sơ khởi qua nghiên cứu giai đoạn II<br />
<br />
<br />
<br />
PHẠM BÍCH SAN<br />
<br />
<br />
<br />
C ó rất nhiều vấn đề đang đặt ra cho sự phát triển Hà Nội. Nhưng là thủ đô, là trung tâm văn hóa và chính<br />
trị của cả nước, vấn đề nổi lên hàng đầu phải chăng là: trong điều kiện phát triển sản xuất hàng hóa, sự<br />
phân tầng xã hội ở Hà Nội đã diễn ra như thế nào, và sự phân tầng đó có thúc đẩy cho sự phát triển của đất nước<br />
hay không là vấn đề có ý nghĩa lớn cần đặt ra nghiên cứu.<br />
Và cũng có rất nhiều lý do để khẳng định tầm quan trọng của vấn đề trên. Ít nhất, để phát triển nền kỹ nghệ<br />
hiện đại đòi hỏi phải có những nguồn tiềm lực được tập trung đủ lớn và có những nhóm người có năng lực cụ<br />
thể thực thi việc phát triển nền kỹ nghệ đó Nhà nước và các cán bộ nhà nước có thể là một nguồn như vậy. Điều<br />
này đã được triển khai nhiều năm qua ở Việt Nam. Nhưng còn có thể bổ sung rất hữu hiệu cho nguồn đó bằng<br />
những nguồn khác như sự đổi mới trong những năm vừa qua đã cho thấy. Tiếp đó, sự phát triển đòi hỏi ngoài sự<br />
gia tăng sản xuất còn cần phải tạo được công ăn việc làm, đặc biệt là cho những người trẻ tuổi, có một sự phân<br />
phối lại hợp lý thu nhập và giảm thiểu tình trạng nghèo khổ. Cuối cùng, cũng cần phải hình thành nên nột sự<br />
đồng tình (consensus) dân tộc và điều đó cũng bao gồm từ việc chấp thuận một sự tập trung tài sản trong từng<br />
thời kỳ nhất định như một sự cần thiết tạm thời, chấp nhận những thay đổi cần thiết về phương diện lối sống,<br />
chấp nhận một tư duy mới.<br />
*<br />
* *<br />
Cuộc nghiên cứu Hà Nội giai đoạn II đã được triển khai với việc xác lập biến số phụ thuộc là sự phân tầng xã<br />
hội thành năm tầng lớp trong các dân cư thủ đô:<br />
- Tầng lớp cao<br />
- Tầng lớp trung lưu cao<br />
- Tầng lớp trung lưu giữa<br />
- Tầng lớp trung lưu dưới<br />
- Tầng lớp dưới<br />
Sự phân tầng này được xem xét trên hai bình diện. 1. Trước hết, đó là sự tích tụ vật chất của các hộ gia đình<br />
trong dân cư Hà Nội và 2. Những mô hình văn hóa đặc trưng của các tầng lớp dân cư đó. Có nhiều chỉ báo để<br />
đo sự tích tụ vật chất nhưng trong cuộc nghiên cứu này hai nhóm chính được đề cập tới. Nhóm chỉ báo về thu<br />
nhập cố gắng xác định những khoản thu hàng tháng, được giới hạn về thời gian từ đầu năm 1992 trở lại đây và<br />
giới hạn cụ thể trong tháng tám, tháng trước khi cuộc nghiên cứu được tiến hành, mà người ta cảm<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1992<br />
<br />
30 Một số vấn đề nghiên cứu Hà Nội ...<br />
<br />
<br />
thấy tiện lợi có thể công bố được. Các khoản thu nhập cá nhân gồm thu nhập từ lương và phụ cấp hay từ nghề<br />
chính, thu nhập từ những việc làm thêm có được từ cơ quan, thu nhập từ những nguồn có liên quan đến nghề<br />
được đào tạo, thu nhập từ những nguồn không có liên quan đến nghề được đào tạo và cuối cùng là những khoản<br />
thu nhập khác. Trong phần thu của hộ gia đình có đề cập đến hai mục khác nữa là các khoản lãi suất và sự giúp<br />
đỡ của người thân.<br />
Song song với nhóm chỉ báo về thu nhập là các chỉ báo về tài sản mà hộ gia đình sở hữu và một số chi tiêu<br />
căn bản của họ. Trong các tài sản, nhà ở và các công trình phụ được xem xét cặn kẽ và cố gắng xác định tình<br />
trạng sở hữu của chúng. Tiếp đó là phương tiện đi lại nghe nhìn, các sắm sửa thường nhật và chi tiêu dành cho<br />
việc ăn uống. Cũng tìm hiểu cả mục đích của việc vay nợ trong quá khứ cũng như dự định vay nợ trong tương<br />
lai. Những chỉ báo này được triển khai với hy vọng chúng sẽ cung cấp các thông tin bổ sung xác nhận về khả<br />
năng kinh tế của các hộ gia đình.<br />
Khía cạnh văn hóa được xem xét chủ yếu thông qua kiến thức, thái độ và cách ứng xử của gia đình đối với<br />
việc học hành của con cái với các chỉ báo đề cập tới mức quan tâm của phụ huynh, mức đầu tư của họ cho con<br />
học tập (kể cả ở nhà trường lẫn các hình thức học thêm), ước vọng của họ với tương lai của con mình. Ở đây<br />
nhiều chỉ báo cụ thể, nhưng đôi khi rất quan trọng, đã được triển khai như: tiêu chí để lựa chọn nhà trường cho<br />
con học, sự nắm biết được các chi phí tối thiểu cho việc học ở trường v.v... Bổ sung cho nhóm chỉ báo này là<br />
nhóm các chỉ báo về tiêu dùng văn hóa của gia đình như mua sách, báo, loại nhạc chọn nghe, loại tranh chọn<br />
treo... Cuối cùng, trùm lên tất cả là một loạt các thử nghiệm thăm dò được đưa ra nhằm tìm hiểu mô hình văn<br />
hóa của các gia chủ.<br />
Sau khi cân nhắc chung, năm biến số độc lập có thể có tác động lớn hơn cả đến sự thành hình các tầng lớp<br />
dân cư về mặt kinh tế được lựa chọn: 1 . Nguồn gốc xuất thân của từng thành viên, chồng và vợ, hình thành nên<br />
gia đình, 2. Các trình độ học vấn và tay nghề họ có được thông qua các giai đoạn, 3. Nghề nghiệp và sự thăng<br />
tiến nghề nghiệp của họ, 4. Sự tham gia vào các hoạt động chính trị, 5. môi trường nơi họ sinh sống. Cách tiếp<br />
cận "lịch sử đời sống" đã được sử dụng để xây dựng nên các nhóm chỉ báo cụ thể nhằm xem xét sự hình thành<br />
nên các cá nhân qua suốt thời kỳ sống của họ.<br />
Vấn đề được cuộc nghiên cứu quan tâm nhất ở đây là dưới tác động của chính sách đổi mới, các nhóm xã hội<br />
khác nhau đã được hình thành nên như thế nào. Nói chung, trong xã hội luôn luôn tồn tại các nhóm xã hội khác<br />
nhau nhưng giá trị của chúng đối với sự phát triển kinh tế rất khác nhau tùy thuộc vào kiểu loại kinh tế định phát<br />
triển. Sự phân tầng có thể diễn ra trên căn bản kinh tế do sở hữu, hoặc do tác động của thị trường. Sự phân tầng<br />
cũng có thể diễn ra trên căn bản chính trị, tôn giáo hoặc theo một số căn bản khác. Trong điều kiện Việt Nam<br />
quá trình công hữu hóa tư liệu sản xuất đã diễn ra trong nhiều năm và rất triệt để nên sự phân tầng trên căn bản<br />
các nguồn sở hữu lớn là điều hết sức hạn chế. Sản xuất hàng hóa được phát triển trong những năm cuối đã đem<br />
lại cơ hội cho một số nhỏ người vượt trội lên, nhưng những điều kiện nào cần thiết để dưới tác động của quá<br />
trình sản xuất hàng hóa người ta có thể vượt trội lên được vẫn còn là điều chưa được sáng tỏ lắm. Cơ hội để tiếp<br />
xúc và sử dụng các nguồn tiềm năng của nhà nước có thể là một điều kiện. Có được khả năng giao tiếp với thị<br />
trường bên ngoài hay quen thuộc với các kỹ thuật, kinh nghiệm kinh doanh hiện đại có thể là một điều kiện<br />
khác. Và cũng có thể đơn giản chỉ là nhà ở của một cá nhân nào, mà theo cách nói dân gian là tốt số, nằm đúng<br />
trong một môi trường nơi hoạt động kinh doanh sôi nổi đem lại cho người ta một khả năng làm giàu.<br />
Vậy còn có gì đọng lại để có thể phân biệt được các nhóm, các tầng lớp khác nhau đó<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1992<br />
<br />
Phạm Bích San 31<br />
<br />
<br />
ngoài các chỉ báo về kinh tế hay không và những cái đọng lại đó có thể ổn định để được tái tạo lại cho các thế hệ<br />
tiếp nối hay không? Các nhóm vượt trội lên về kinh tế có chứng tỏ là có sự vượt trội lên về văn hóa, một điều vô<br />
cùng cần thiết khi chúng ta bước vào kỷ nguyên thông tin và kiến thức, hay không và liệu đã có điều kiện cho<br />
phép hình thành một tầng lớp trung lưu năng động làm cơ sở cho sự phát triển vững bền của xã hội hay không?<br />
*<br />
* *<br />
Để trả lời hàng loạt các câu hỏi nêu trên, cuộc nghiên cứu Hà Nội II đã thăm dò 150 hộ gia đình với khoảng<br />
300 bậc phụ huynh của các em học sinh lớp 9 tại ba trường phổ thông ở Hà Nội. Đối tượng là phụ huynh học<br />
sinh lớp 9 (hệ mới) được chọn với giả định là phần lớn trong số họ ở khoảng tuổi từ 35 tới 50 những người đang<br />
là lực lượng lao động nòng cốt của thủ đô và sẽ còn là như thế trong vòng mười năm sôi động sắp tới. Cũng giả<br />
định tiếp là trong vòng gần 40 năm qua một hướng phát triển cơ bản của Hà Nội là hướng Ngã Tư Sở nơi có<br />
những nhà máy với những tên gọi quen thuộc trước đây như Trung quy mô, Cao Xà Lá ... được dựng lên ngay<br />
từ những ngày đầu trong niềm ước vọng công nghiệp hóa nhanh đất nước, nơi có con đường kiểu cao tốc đầu<br />
tiên được thiết lập, nơi có những khu tập thể lớn được xây dựng nên trong thời kỳ hứng khởi sau ngày thống<br />
nhất đất nước và cũng là nơi, cùng với kinh tế thị trường đã xuất hiện đoạn phố tập trung đầu tiên buôn bán hàng<br />
kỹ thuật cao (đoạn phố Nam Đồng cũ). Một mặt khác, ở Hà Nội cũng có ba khu vực: Khu vực trung tâm lấy<br />
tháp rùa làm tâm, khu vực giữa men theo vành đai Ngọc Hà Kim Mã, Đê La Thành, Ô Cầu Diễn..., khu vực<br />
ngoài men theo vành đai Bưởi, Ngã Tư Sở, Bạch Mai, Vĩnh Tuy. Tại giao điểm giữa đường cắt Tháp Rùa Ngã<br />
Tư Sở và ba khu vực nêu trên chọn ba trường phổ thông cơ sở gần nhất và tiến hành chọn mẫu ngẫu nhiên các<br />
hộ gia đình theo bảng danh sách học sinh lớp 9. Các trường phổ thông cơ sở Trưng Vương, Tô Vĩnh Điện và<br />
Thịnh Quang rơi vào trong mẫu.<br />
Như vậy, mẫu được chọn ngẫu nhiên có chủ định. Trường Trưng Vương là một trường nổi tiếng từ lâu về sự<br />
đào tạo học sinh của mình và giờ đây cũng được các bậc phụ huynh có điều kiện mến mộ. Các trường còn lại là<br />
những trường bình dị như vô vàn trường khác của thủ đô. Mục tiêu trực tiếp của mẫu được thiết kế như vậy<br />
nhằm tìm hiểu về mối quan hệ giữa sự phân tầng về kinh tế trong mối tương quan với sự tái tạo văn hóa của các<br />
nhóm xã hội khác nhau có. Tuy nhiên, tính đại diện của cuộc nghiên cứu Hà Nội chỉ hoàn toàn trọn vẹn nếu có<br />
điều kiện thiết kế mẫu theo kiểu trên theo các hướng từ trung tâm ra Bưởi, Đội Cấn, Bạch Mai, Chợ Mơ và Vĩnh<br />
Tuy.<br />
Bên cạnh đó, cuộc nghiên cứu chọn mẫu còn được bổ sung bằng các cuộc nghiên cứu sâu thông qua phỏng<br />
vấn dân và phỏng vấn nhóm tập trung các bậc phụ huynh học sinh cũng như các thầy cô giáo. Các nghiên cứu<br />
sâu đó cho phép phát triển ra những vấn đề còn tiềm ẩn mà nghiên cứu chọn mẫu có thể không tính đếm được.<br />
*<br />
* *<br />
Mặc dầu việc xử lý số liệu mới chỉ bắt đầu, qua quá trình làm sạch số liệu (data clean up) một số đường nét<br />
xã hội của Thủ độ Hà Nội cũng đã hiện dần lên khá rõ.<br />
Tại trường Trưng Vương, lượng mẫu đã rải khắp thành phố Hà Nội. Tại trường Tô Vĩnh Diện, độ tản của<br />
mẫu thu hẹp rất nhiều và ở vòng ngoài cùng, trường Thịnh Quang, số mẫu rất tập trung quanh khu vực nhà<br />
trường. Những người có mức quan tâm cao đến việc học hành của con cái và có điều kiện khá giả về kinh tế<br />
không có chỗ ở theo những khu với những nét đặc trưng riêng cho giai tầng của họ.<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1992<br />
<br />
32 Một số vấn đề nghiên cứu Hà Nội ...<br />
<br />
<br />
Việc tìm đến được nhà các học sinh là điều không đơn giản. Địa chỉ được bố trí tùy tiện nhiều khi phải có<br />
người dẫn mới tìm đến được dù là vị trí ở ngay trong nội thành, khu trung tâm, trên đại lộ lớn, điều này không<br />
thích hợp cho việc quản lý theo chức năng. Bù lại, Hà Nội bảo lưu khá lớn tính nông thôn truyền thống với việc<br />
trong khu vực nhỏ mọi người biết nhau rất rõ và rất quan tâm đến nhau. Tín ngưỡng thờ ông bà được chấp nhận<br />
gần như trong tất cả các gia đình, việc đi các lễ hội, đền chùa rất phổ biến trong khi đi nghỉ hè ít hơn nhiều và<br />
chủ yếu là do cơ quan tổ chức. Thêm vào đó, loa truyền thanh mỗi phường hàng ngày đều đặn thông báo tin tức<br />
để củng cố thêm các quan hệ theo kiểu cộng đồng.<br />
Xuất xứ của người Hà Nội hiện nay gồm từ đủ mọi khu vực khác nhau, kể cả một số trở về từ nước ngoài.<br />
Người Hà Nội gốc theo ước tính chiếm không quá 15% và có rất ít người đến từ khu vực phía nam. Sự di<br />
chuyển định hướng về Hà Nội còn di động từ Hà Nội đi các khu vực khác để rồi lại trở về gần như không có: di<br />
động hướng tâm như vậy sẽ đưa Hà Nội trong tương lai trở thành một thành phố cực lớn khác hẳn với các đô thị<br />
còn lại ở miền Bắc Việt Nam. Sự hướng tâm như vậy cũng hạn chế các quan hệ ngang và giảm thiếu khả năng<br />
di chuyển các chuyên gia có trình độ tương đối cao, mà ở Hà Nội có tương đối nhiều hơn, đến các khu vực khác.<br />
Điều này cản trở việc hình thành nên một thị trường nhân lực và tay nghề chung cho cả nước, hạn chế sự lan<br />
truyền nhanh và vững bền công nghệ mới.<br />
Gia đình tại Hà Nội chủ yếu là các gia đình hạt nhân. Số lượng các gia đình ba thế hệ không đáng kể. Số con<br />
phổ biến là hai con trừ nhóm sinh những năm đầu 40 và một số nhóm sống tại khu vực vành đai giữa và ngoại<br />
thành có số con đông đảo hơn. Mức độ ly dị thấp nhưng số gia đình sống xa cách lớn hơn và điều này chủ yếu<br />
liên quan đến việc đi làm ăn ở nước ngoài (chứ không phải ở trong nước). Sự hình thành gia đình có nhiều phần<br />
ảnh hưởng của việc cùng quê và cùng nghề. Sự mất cân bằng giới tính được giải quyết bằng một số lượng lớn<br />
nam giới từ các khu vực khác đến sinh sống tại Hà Nội.<br />
Thu nhập khai báo từ khoảng 600.000 đồng đầu người trở lên có thể tạm coi là cao, từ 300.000 đến 600.000<br />
đồng là trung lưu cao, từ 150.000 đến 300.000 đồng là trung bình, từ 80.000 đến 150.000 đồng là thấp và dưới<br />
80.000 đồng có thể coi là nghèo khổ. Có điều, không thể tồn tại được tại Hà Nội nếu chỉ dựa vào đồng lương<br />
nhà nước. Các thu nhập chủ yếu là ngoài lương. Nguồn thu nhập của các gia đình có thu nhập cao có quan hệ<br />
nhiều với việc làm ăn quốc tế, kể cả trong nước lẫn ngoài nước. Chỉ có mỗi một trường hợp khai báo thu nhập<br />
cao, trên 5.000.000 đồng/tháng, là thuần túy làm nghề mình được đào tạo với đối tượng trong nước (giáo viên<br />
dạy thêm). Mức thu nhập giảm khi đi từ khu trung tâm ra các khu ngoại vi, điều có thể ảnh hưởng lớn đến việc<br />
phát triển và quy hoạch lại đô thị. Chỉ có một trường hợp trong 147 hộ thông báo là có dự định vay tiền để phát<br />
triển sản xuất.<br />
Ảnh hưởng của những năm đổi mới là đối với nhóm công nhân và những người không được đào tạo nhiều.<br />
Một số lớn trong họ đã ra về nghỉ hưu hoặc nghỉ mất sức trong những năm vừa qua (89, 90, 91) khi độ tuổi<br />
trong khoảng 40-50. Trong số này có cả một số công nhân tay nghề bậc 7 và trên 7. Tuy nhiên, chỉ có một số<br />
nhỏ là nằm trong tình trạng cần được hỗ trợ còn đa phần đều vượt qua được với thu nhập ít nhất là trên mức<br />
lương nhà nước có thể trả cho họ. So với nhóm công nhân, nhóm có học đại học đời sống ổn định hơn so với<br />
những năm chưa đổi mới. Nói chung, đời sống của tất cả đều có sự cải thiện rõ rệt. Có điều hầu như tất cả mọi<br />
người đều chưa thỏa mãn với thu nhập của mình, kể cả những người có thu nhập cao nhất.<br />
Các nhóm có thu nhập cao và có văn hóa cao đều rất quan tâm đến việc học hành của con cái. Nhu cầu đầu<br />
tư về văn hóa cho các thế hệ mai sau đã vượt qua được hàng rào hành chính của thể chế nhà trường mở theo<br />
tuyến để hình thành nên những trường trọng<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1992<br />
<br />
Phạm Bích San 33<br />
<br />
<br />
điểm đào tạo học sinh với chất lượng cao hơn. Mặt khác, khái niệm học vấn giá rẻ hay không mất tiền là điều<br />
không có và ở bất kỳ nơi nào các phụ khuynh cũng đều thấy sự cần thiết phải đóng góp thêm cho thầy cô giáo<br />
có thể sống được với nghề dạy học và trên thực tế là họ đã đóng góp. Chỉ riêng chi phí đầu năm học của các hộ<br />
gia đình, dù bình thường, cũng đã vượt quá số lương mà nhà nước trả cho các bậc cha mẹ. Việc học thêm không<br />
còn là khái niệm tự nguyện nữa mà trở thành điều bắt buộc ngay tại các khu vực không có nhu cầu gì về một<br />
học vấn chất lượng cao. Mở cửa cũng ảnh hưởng đến việc học thêm này với một số lượng đáng kể các gia đình<br />
cho con học ngoại ngữ, mà trước hết là cho học tiếng Anh.<br />
Trừ một số ít người thuộc về các tầng lớp nghèo ở khu vực ngoại ở người Hà Nội, phần lớn cho rằng học vấn<br />
đại học là hết sức cần thiết. Nhiều người trong số họ có ý định là nhất quyết phải cho một con học hết đại học.<br />
Tầm quan trọng của việc có một nghề tinh thông được họ đánh giá thấp hơn nhiều. Hình như quan niệm về học<br />
đại lọc vẫn còn rất truyền thống: học để làm quan (nay là vào biên chế nhà nước), để được nhàn hạ. Trong khi<br />
đó, quan niệm về một nền học vấn có tính thực tiễn vẫn chưa có gì là được phổ biến rộng rãi và ý thức về sự tốn<br />
kém của học vấn đại học chưa hề có trong nhân dân (được nhà trường bao cấp, không phải trả tiền là câu trả lời<br />
thường trực của các bậc phụ huynh có con học đại học).<br />
Như vậy, nếu sự quan tâm đến học vấn là cao trong các tầng lớp cao và trung lưu cao thì một vấn đề quan<br />
trọng bậc nhất của sự phát triển sẽ phải là hoàn thiện nội dung giáo dục để có thể nhanh chóng từ nay đến cuối<br />
thế kỷ tạo nên một thế hệ ưu tú có trình độ tiếp cận được với thế giới và làm cơ sở cho sự phát triển của đất<br />
nước trong thế kỷ tới. Nguồn gốc xuất thân về mặt địa lý không phản ánh được rõ nét về các sự thành đạt của cá<br />
nhân trong cuộc sống. Nhóm ở trường Trưng Vương có thu nhập cao đại đa số lại là người từ các khu vực khác<br />
đến sống tại Hà Nội. Nhóm người có gốc Hà Nội có một tỷ lệ cao hơn ở khu vực giữa và ngoài và đời sống của<br />
họ cũng hết sức bình thường và không phải là nhóm trội. Phần nhiều họ đều xuất thân từ những giai tầng thấp<br />
thời trước cách mạng hoặc là khu vực ngoại ô, mà nay là nội thành. Cũng chưa ghi nhận được những dấu hiệu rõ<br />
nét về ảnh hưởng của gia thế đối với sự thành đạt hiện nay.<br />
Sự tham gia hoạt động chính trị hình như không có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo nên các sản nghiệp lớn.<br />
Đa số những người tham gia công tác đảng đều có một cuộc sống như những người khác trong cùng hoàn cảnh<br />
của họ. Hình như, sự tham gia vào đảng có lẽ chỉ phát huy tác dụng cho việc tạo ra thu nhập khá khi kết hợp với<br />
trình độ được đào tạo và khả năng sử dụng trình độ đó trong các hoạt động có liên quan đến kinh tế ngoài nước,<br />
trong những ngành kinh tế có triển vọng hoặc quyền lực.<br />
Học vấn là yếu tố quan trọng nhất, một điều kiện gần như có thể gọi là cần cho việc có thu nhập cao. Tuy<br />
nhiên điều kiện đủ của nó là phải có nơi sử dụng học vấn đó. Rất đáng tiếc là đa phần chất xám đó được sử dụng<br />
ở nước ngoài và bởi nước ngoài, hay trong các hoạt động có liên quan tới nước ngoài. Nền kinh tế trong nước,<br />
các hoạt động khoa học nội địa vẫn còn trong điều kiện rất khó khăn để có thể sử dụng chất xám cao cấp vốn đã<br />
tốn rất nhiều công sức để đào tạo. Số người có được trình độ đại học ở Hà Nội lớn, nhưng vấn đề đặt ra sẽ là nội<br />
dung của bằng đại học đó là thế nào vì số người, ví dụ, biết thông thạo một ngoại ngữ trong đó là rất hiếm.<br />
Môi trường sinh sống có ảnh hưởng đáng kể đến thu nhập của các nhóm. Những khu vực nào có thể được<br />
đều được đem ra sử dụng vào kinh doanh. Tình trạng của thủ đô là tất cả mọi người đều có khả năng tham gia<br />
vào kinh doanh miễn là có một chỗ ở hè phố và<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
Xã hội học, số 4 - 1992<br />
<br />
34 Một số vấn đề nghiên cứu Hà Nội ...<br />
<br />
<br />
kinh doanh cò con là có lãi. Do vậy điều dễ nhận thấy là có sự hỗn loạn trong trật tự đô thị.<br />
*<br />
* *<br />
Số liệu chưa xử lý xong nên diện mạo chính xác của các tầng lớp khác nhau tại Hà Nội chưa thể được trình<br />
bày cụ thể bằng con số. Nhưng qua từng trang bảng hỏi vẫn thấy phảng phất dáng dấp riêng của những giai tầng<br />
khác nhau đọng lại qua đời sống văn hóa của các gia đình. Có khi chỉ là một chỉ báo rất nhỏ: các gia đình tương<br />
đối khá giả có quan tâm đến việc học hành của con cái đều có mua báo "Hoa học trò" cũng như không thích cho<br />
con xem vi deo, cho đến những nhu cầu cao hơn: có treo tranh trong nhà. Nhóm vượt trội lên đó, về đa số trong<br />
diện mẫu được xem xét, có sự vượt trội lên về văn hóa nhưng sự vượt trội đó, theo quan sát của tác giả, thấp hơn<br />
nhiều so với các giai tầng tương đương của các quốc gia đã phát triển hoặc nhiều quốc gia đang phát triển khác<br />
nhưng lại cũng hơn quá nhiều so với các nhóm khác ở Việt Nam. Như vậy, cần có sự điều chỉnh kịp thời để đẩy<br />
nhóm vượt trội hòa nhập vào thế giới nhưng cũng hết sức cần thiết cấp bách phải nâng các nhóm khác đến một<br />
khoảng cách thích hợp để đảm bảo sự ổn định trong xã hội. Tuy nhiên, cũng về mặt văn hóa hai nhóm đầu, cao<br />
và trung lưu cao, có nhiều nét tương đồng trong khi ba nhóm còn lại rất giống nhau: sự hình thành một tầng lớp<br />
trung lưu rộng lớn năng động đang chỉ ở vào thời điểm hết sức sơ khai.<br />
Nếu vậy, hy vọng rằng từ sự điều chỉnh này sẽ xuất hiện một Hà Nội hào hoa mẫu mực về văn hóa cho dân<br />
tộc, một thủ đô xứng đáng với hào khí Thăng Long trong thời buổi chuyển từ tinh thần ái quốc chính trị sang ái<br />
quốc kinh tế, chuyển từ chiến tranh, mất ổn định sang hòa bình, phát triển và thịnh vượng.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />