intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một số vấn đề về quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội trong giáo dục đại học

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

5
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết Một số vấn đề về quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội trong giáo dục đại học trình bày tính khách quan, tất yếu về việc thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội trong giáo dục đại học; Nội hàm quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội trong giáo dục đại học; Mối quan hệ giữa quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội trong giáo dục đại học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một số vấn đề về quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội trong giáo dục đại học

  1. HỘI THẢO KHOA HỌC: «VẤN ĐỀ TỰ CHỦ - TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM» MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUYỀN TỰ CHỦ VÀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Nguyễn Thị Thu Hằng1 - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Nguyễn Văn Lê2 - Trường Cao đẳng Sư phạm Trung ương 1. Tính khách quan, tất yếu về việc thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội trong giáo dục đại học. Từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, cuộc cách mạng công nghệ hiện đại trên thế giới đã dẫn đến những biến đổi sâu sắc, đặc biệt đã đưa nền kinh tế thế giới sang một giai đoạn mới về chất, đó là nền kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế tri thức, nhà trường chỉ là giai đoạn ngắn trong cuộc đời của mỗi con người. Với những biến đổi to lớn và phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ nhất là công nghệ thông tin, nhà trường không thể cập nhật nhanh mọi tri thức và bản thân con người cũng không thể chỉ học mãi trong nhà trường mà phải được học tập và thử thách trong thực tế, trong lao động sản xuất và các môi trường khác. Chính vì vậy, học tập thường xuyên, học tập suốt đời là đặc điểm nổi bật của giáo dục thế kỉ XXI và là chân lý của thời đại mới. Thực tế cũng cho thấy, giáo dục không chỉ còn là sự truyền thụ kiến thức, cung cấp thông tin thuần túy mà giáo dục đang hướng tới giúp cho con người có khả năng tìm kiếm thông tin, khai thác và xử lý thông tin để mang lại hiệu quả cao trong sản xuất và các hoạt động thực tiễn khác. Kinh tế tri thức cũng đã làm thay đổi căn bản nền giáo dục từ quan điểm đến hệ thống giáo dục, nhà trường và mô hình nhà trường, cơ sở giáo dục cũng như nội dung, chương trình, đội ngũ giáo viên, người học và phương pháp giảng dạy. Trong bối cảnh đó, giáo dục đại học (ĐH) có vai trò cực kỳ quan trọng. Giáo dục ĐH không chỉ có ý nghĩa đào tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao mà còn có ý nghĩa quyết định trong việc phát minh ra những thành tựu khoa học mới. Nhà trường ĐH không chỉ là nơi đào tạo 1 TS 2 PGS.TS – Hiệu trưởng 47
  2. HỘI THẢO KHOA HỌC: «VẤN ĐỀ TỰ CHỦ - TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM» mà còn là những trung tâm nghiên cứu để hình thành hệ thống tri thức mới, phát triển và chuyển giao công nghệ hiện đại cũng như góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Tuyên bố của UNESCO trong hội nghị quốc tế về giáo dục ĐH năm 1998 đã khẳng định: Sứ mệnh của giáo dục ĐH là góp phần vào yêu cầu phát triển bền vững và phát triển xã hội nói chung. Bước vào thế kỷ XXI, giáo dục ĐH đã có những chuyển biến mạnh mẽ từ giáo dục ĐH tinh hoa chuyển dần sang giáo dục đại chúng và quy mô giáo dục ĐH đã tăng nhanh trên phạm vi toàn thế giới. Các trường ĐH cũng đã có nhiều chuyển biến cơ bản về chất lượng đội ngũ giảng dạy, về nội dung chương trình, phương pháp và quy trình đào tạo. Nhiều trường ĐH đã trở thành các trung tâm nghiên cứu mang lại lợi ích to lớn cho nhà trường và xã hội. Nhiều nước đã và đang thực hiện những đổi mới và những cải cách giáo dục theo hướng phát triển hệ thống đảm bảo chất lượng với các tiêu chí và chuẩn mực đánh giá chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, dịch vụ phát triển cộng đồng. Tuy nhiên, giáo dục ĐH cũng đang chịu sự tác động, chi phối bởi nhiều xu hướng khác nhau, đặc biệt là những vấn đề gay cấn cần phải giải quyết như yêu cầu về phát triển quy mô, nâng cao chất lượng, giữa đào tạo và nghiên cứu dịch vụ, giữa nhu cầu và phát triển nguồn lực cho xã hội. Quy mô giáo dục ĐH tăng nhanh, nhu cầu sử dụng nguồn lực ở trình độ cao ngày càng nhiều, tỷ lệ sinh viên đại học cũng tăng nhanh đáng kể ở nhiều nước trong đó có nước ta. Việc phát triển cơ cấu ngành nghề của xã hội và sự chuyên môn hóa cao của các ngành đã đặt ra yêu cầu cần phải đa dạng về ngành nghề đào tạo, đặc biệt phải đa dạng hoá các loại hình nhà trường để đáp ứng yêu cầu về xã hội học tập. Để tăng nhanh hiệu quả đào tạo và thu hút các nguồn lực của xã hội, ngoài ngân sách của Nhà nước cho giáo dục, loại hình trường tư đã không ngừng phát triển để đáp ứng nhu cầu của người học. Đây là mô hình rất phát triển ở nhiều nước trên thế giới và là xu thế không thể đảo ngược. Các hình thức đa dạng về sự hợp tác và cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo như chuyển đổi văn bằng chứng chỉ, trao đổi sinh, phát triển mạng lưới các trường ĐH nghiên cứu trở thành các trung tâm sản xuất, sử dụng, phân phối, xuất khẩu tri thức và chuyển giao công nghệ mới và hiệu đại… đã biến các trường ĐH thành các cơ sở dịch vụ đào tạo nhân lực, thu hút vốn đầu tư vào quá trình đào tạo từ nhiều nước khác nhau đặc biệt là các nước đang phát triển có nhu cầu tiếp cận với các công nghệ hiện đại. 48
  3. HỘI THẢO KHOA HỌC: «VẤN ĐỀ TỰ CHỦ - TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM» Những phân tích về bối cảnh trên cho thấy việc ra đời các quy chế tổ chức hoạt động và quản lý nhằm nâng cao năng lực tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường đang là đòi hỏi khách quan, tất yếu của bản thân các trường ĐH cũng như yêu cầu bức thiết của xã hội hiện nay. Quyền tự chủ là yêu cầu không thế thiếu được với vai trò và hoạt động của các trường ĐH, CĐ. Để giáo dục ĐH chuyển biến phù hợp với nền kinh tế thị trường và nền kinh tế tri thức thì một trong những vấn đề quan trọng về công tác quản lý là phải tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội trong các trường đại học. Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt Nam (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2005) đã chọn giải pháp đổi mới quản lý giáo dục ĐH theo hướng tăng quyền tự chủ, nâng cao trách nhiệm xã hội và thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các trường ĐH là hướng đi đúng, phù hợp với xu thế cũng như yêu cầu phát triển giáo dục hiện nay. 2. Nội hàm quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội trong giáo dục đại học. Theo Từ điển tiếng Việt (2001), Tự chủ chính là “tự điều hành, quản lý mọi công việc của mình, không bị ai chi phối”. Như vậy, quyền tự chủ chính là quyền được tự điều hành, quản lý các hoạt động trong nhà trường. Nó thể hiện tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vai trò chủ thể của lãnh đạo nhà trường trong việc thực thi các chức năng, nhiệm vụ của nhà trường nhằm đại được tối ưu các mục tiêu đã đề ra. Còn về trách nhiệm xã hội: Theo Từ điển Anh – Việt (1975), thuật ngữ Trách nhiệm xã hội (accountability) được hiểu là “trách nhiệm, trách nhiệm giải thích”. Và theo các tài liệu về giáo dục ĐH, thuật ngữ trách nhiệm xã hội được giải thích như sau: - Accountability liên quan trước hết tới những người có thẩm quyền và quy định họ cần thực thi nhiệm vụ của mình như thế nào. - Accountability là sự sẵn sàng giải thích các quyết định có kèm theo minh chứng khi sinh viên, đồng nghiệp hoặc bất kỳ cá nhân nào hỏi. - Accountability có nghĩa là những người được giao quyền lực phải chịu trách nhiệm trước một cá nhân hoặc một nhóm người nào đó. Ví dụ: Giảng viên phải chịu trách nhiệm trước Ban chủ nhiệm khoa, nhất là trong trách nhiệm giảng dạy, Chủ nhiệm khoa phải chịu trách nhiệm trước Hiệu trưởng, Hiệu trưởng phải chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng trường ĐH. 49
  4. HỘI THẢO KHOA HỌC: «VẤN ĐỀ TỰ CHỦ - TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM» Tuy nhiên, hiện nay thuật ngữ Accountability được đưa vào hệ thống thuật ngữ quản lý của nước ta bằng cụm từ “tự chịu trách nhiệm”, đặc biệt đã được đưa vào các văn bản pháp quy của Nhà nước như Luật giáo dục, Điều lệ trường ĐH, Điều lệ trường CĐ, Nghị định 43/2006/NĐ- CP mà chưa có sự giải thích rõ nội hàm của cụm từ này. Điều đó đã gây nên những cách hiểu khác nhau về thuật ngữ này. Thực tế khi các trường ĐH đã được quyền tự chủ trong các hoạt động tác nghiệp thì kèm theo đó các trường ĐH đương nhiên cũng phải tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình. Tuy nhiên, nếu xem quyền “tự chịu trách nhiệm” như là một quyền riêng, tương đương và ngang hàng với quyền tự chủ, nhất là được chính thức hóa trong các văn bản pháp quy thì khái niệm này nếu không được giải thích rõ thì sẽ gây nên cách hiểu cho rằng Nhà nước cho phép các trường ĐH, CĐ có quyền hoàn toàn tự do hoạt động, chỉ chịu trách nhiệm với chính mình mà không chịu trách nhiệm với ai hoặc tổ chức nào khác. Như vậy, có thể hiểu “trách nhiệm” hay “trách nhiệm xã hội” chính là trách nhiệm công khai hóa các hoạt động của nhà trường với các vấn đề liên quan như Nhà nước, người tài trợ, sinh viên và gia đình họ, giáo chức và viên chức nhà trường, người sử dụng sản phẩm và dịch vụ của trường, các cộng đồng liên quan khác… Trước hết các mặt sau đây của nhà trường phải thể hiện rõ: mục tiêu hoạt động, chế độ sở hữu, cơ chế hoạt động, nội dung, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, sự công bằng về cơ hội tiếp cận và quyền lợi người học. Rõ ràng, quản lý giáo dục ĐH cần quan tâm đến trách nhiệm xã hội của các trường ĐH trước cơ quan quản lý cấp trên và trước sinh viên, cơ sở sử dụng sinh viên sau khi tốt nghiệp… thực chất là trước toàn thể xã hội. Vấn đề cốt tử là trách nhiệm của nhà trường trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, xứng đáng với sự đầu tư của Nhà nước, đóng góp của nhân dân và chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước cũng như của xã hội để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 3. Mối quan hệ giữa quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội trong giáo dục đại học. Như trên đã phân tích, tự chủ của trường ĐH chính là việc các trường ĐH có thể tiến hành tất cả các hoạt động mà pháp luật cho phép và thực thi những quyền hạn đã được cụ thể hóa trong điều lệ cũng như trong quy chế tổ chức và hoạt động của nhà trường đã được cấp có thẩm quyền thông qua. 50
  5. HỘI THẢO KHOA HỌC: «VẤN ĐỀ TỰ CHỦ - TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM» Điều 60 Luật giáo dục năm 2005 đã quy định những lĩnh vực có quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường TC, trường CĐ và trường ĐH ở nước ta như sau: - Xây dựng chương trình, giáo trình, kế hoạch giảng dạy, học tập đối với các ngành nghề được phép đào tạo. - Xây dựng chỉ tiêu tuyển sinh, tổ chức tuyển sinh, tổ chức quá trình đào tạo, công nhận tốt nghiệp và cấp văn bằng. - Tổ chức bộ máy nhà trường, tuyển dụng, quản lý, sử dụng, đãi ngộ nhà giáo, cán bộ và nhân viên. - Huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực. - Hợp tác với các tổ chức kinh tế, giáo dục, văn hoá, thể dục thể thao, y tế, nghiên cứu khoa học trong nước và nước ngoài theo quy định của Chính phủ. Trong bối cảnh đất nước hiện nay đã có nhiều thay đổi, đặc biệt khi đã chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các trường ĐH cần có các quyền tự chủ nhất định mới có khả năng đương đầu với bối cảnh mới và có khả năng tự điều chỉnh tốt hơn nhằm đáp ứng nhanh, nhạy nhu cầu phát triển của bản thân cũng như đáp ứng kịp thời những yêu cầu của Nhà nước và của xã hội, trước hết là của người học. Tự chủ là điều cần thiết giúp các trường ĐH trong quản lý đào tạo và phổ biến kiến thức… Các trường ĐH phải đi trước đón đầu, chấp nhận rủi ro, tìm cách dự đoán trước những sự thay đổi và không được sáng tạo để thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của xã hội. Trách nhiệm xã hội chính là việc nhà trường tự đánh giá và giám sát việc thực hiện các quy định của Nhà nước, sẵn sàng giải trình, công khai và minh bạch các hoạt động của nhà trường và chịu trách nhiệm về các kết quả hoạt động của mình, sẵn sàng giải trình trước tập thể nhà trường, trước Nhà nước và trước xã hội nhằm đảm bảo lợi ích của chính bản thân nhà trường, của Nhà nước, của người học và của cộng đồng xã hội. Như vậy, tự chủ và trách nhiệm xã hội là hai mặt không tách rời nhau và có mối quan hệ biện chứng: Không có quyền tự chủ nào lại tách rời sự chịu trách nhiệm xã hội và ngược lại. Dân chủ đi đôi với kỷ cương, quyền lợi gắn liền với nghĩa vụ. Tự chủ gắn liền với tự chịu trách nhiệm 51
  6. HỘI THẢO KHOA HỌC: «VẤN ĐỀ TỰ CHỦ - TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM» cao là một đòi hỏi nghiêm túc đối với các cấp quản lý nhằm khách phục tình trạng xin - cho, thiếu tích cực, chủ động và sáng tạo. 4. Một số vấn đề cấp bách cần giải quyết. Để tăng cường quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường ĐH, CĐ hiện nay, chúng tôi cho rằng cần tập trung giải quyết dứt điểm một số vấn đề cấp bách sau đây: 4.1. Trước hết, Chính phủ và các Bộ, Ngành cần rà soát, xem xét lại hệ thống mô hình giáo dục ĐH hiện nay. Từ đó có sự phân loại, xếp hạng các trường ĐH, CĐ cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và quy mô hoạt động của các trường này. Việc phân loại, xếp hạng sẽ giúp cho quá trình xác định và ra quyết định về mức độ quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường ĐH, CĐ đảm bảo tính khoa học, tạo đà cho sự ổn định và phát triển của các trường hiện tại và trong tương lai. Thực tế cho thấy những thay đổi về việc sát nhập, chia tách, thay đổi cơ cấu tổ chức… trong thời gian qua có thể đã gây những ảnh hưởng tiêu cực trong công tác quản lý và dẫn đến sự bất ổn định và phát triển của các trường ĐH, CĐ. Thực tế cũng cho thấy một số đơn vị sự nghiệp có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng nhưng hiện chưa được phân loại, xếp hạng nên thiếu thống nhất về phân công và tổ chức quản lý, điều hành (một số đơn vị có chiều hướng nâng hạng như các tổ chức sự nghiệp và dịch vụ công). Do đó, việc phân loại trên cần có các tiêu chí và nguyên tắc nhất định để khắc phục tình trạng này và làm cơ sở cho việc thực hiện các chế độ, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cũng như đổi mới cơ chế và phương thức đầu tư cho các tổ chức sự nghiệp dịch vụ công lập theo hệ thống phân loại, xếp hạng. Hiện nay, căn cứ theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP đã phân loại 3 loại đơn vị là tương đối hợp lý: - Đơn vị sự nghiệp có thu nhà nước cấp toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên. - Đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo một phần kinh phí hoạt động thường xuyên. - Đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo toàn bộ kinh phí hoạt động thường xuyên. Tuy nhiên việc phân loại còn cần phải căn cứ vào khả năng thực tế, năng lực hiện hành của các cơ quan, đơn vị mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được phân cấp. 52
  7. HỘI THẢO KHOA HỌC: «VẤN ĐỀ TỰ CHỦ - TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM» 4.2. Trên cơ sở phân loại, xếp hạng hệ thống các trường ĐH, CĐ, điều thiết yếu là xác định rõ vai trò quản lý nhà nước của các Bộ, Ngành. Từ đó phải tạo điều kiện để các trường ĐH, CĐ, các cơ sở Giáo dục ĐH được chủ động trong mọi mặt nhất là chủ động thực hiện đa dạng hóa nguồn tài chính, khai thác tối đa các nguồn lực từ nghiên cứu khoa học, nguồn lực từ các dịch vụ và tư vấn, nguồn lực ngoài nhà nước và thu hút đầu tư của nước ngoài… Các trường cần được quyền tự chủ về hoạch toán thu - chi theo nguyên tắc từ nhiều nguồn thu tài chính đủ bù cho các khoản chi hợp lý, có tích lũy cần thiết để phát triển nguồn nhân lực, cơ sở vật chất để phục vụ quá trình đào tạo và nghiên cứu khoa học. Cần tạo ra môi trường cũng như cơ chế thông thoáng để các trường ĐH, CĐ phát triển các nguồn thu bổ sung, góp phần thuận lợi để ban hành các chính sách quan trọng như chế độ đãi ngộ và thu hút đội ngũ các thầy cô giáo, cán bộ quản lý giỏi để phát triển và nâng cao chất lượng nhà trường. Trong bối cảnh đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên tập trung vào việc hoạch định chiến lược, chính sách phát triển, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho giáo dục ĐH chỉ đạo và triển khai tốt hệ thống đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục ĐH; điều tiết về môi trường, cơ cấu và quy mô giáo dục ĐH theo yêu cầu phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Bên cạnh việc thực hiện quyền tự chủ về tài chính, các trường ĐH, CĐ cần được chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao trên cơ sở tuân thủ các chủ trương, chính sách, chế độ được Nhà nước ban hành. Ví dụ được dùng các biện pháp, các sáng kiến hợp lý, hợp pháp để nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học và hiệu suất sử dụng các trang thiết bị và cơ sở vật chất khác. Các trường được chủ động trong việc sử dụng định mức biên chế, các nguồn kinh phí được giao từ các nguồn kinh phí khác và được chủ động trong quan hệ, hợp tác với các cơ quan trong và ngoài nước (thủ trưởng đơn vị được quyết định và chịu trách nhiệm về vấn đề này). 4.3. Việc tăng cường phân cấp quản lý đảm bảo quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường ĐH, CĐ muốn thực hiện được cần có sự chỉ đạo thống nhất của các cơ quan quản lý hữu quan và có các văn bản hướng dẫn triệt để đảm bảo hiệu lực và tính khả thi của nó. Ví dụ giao cho các trường ĐH, CĐ quyền tự chủ về tài chính nhưng khi Kiểm toán nhà nước tiến hành kiểm toán về tài chính thì nhiều trường đã phải chịu xuất toán nhiều khoản chi… Trong công tác tuyển sinh, nhiều trường bị lỗ nặng vì thu không đủ chi, trong khi đó đã kiến nghị nhiều lần thu lệ 53
  8. HỘI THẢO KHOA HỌC: «VẤN ĐỀ TỰ CHỦ - TỰ CHỊU TRÁCH NHIỆM Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG VIỆT NAM» phí hồ sơ và lệ phí tuyển sinh một lần để giảm lượng thí sinh ảo và đỡ khó khăn về tài chính cho các trường… nhưng vẫn chưa được thực hiện. 4.4. Để thực hiện tốt quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội, các trường ĐH, CĐ nhất thiết phải tự khẳng định mình, trước hết là việc xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển của đơn vị mình. Để tồn tại và phát triển trong bối cảnh hiện nay, các trường phải có kế hoạch chiến lược để điều chỉnh mọi hoạt động, đáp ứng sự thay đổi nhanh và yêu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội. Kế hoạch chiến lược này phải phù hợp với nhu cầu xã hội, phải đảm bảo tăng và sử dụng có hiệu quản nguồn kinh phí. Các trường ĐH, CĐ nhất định phải công khai, minh bạch khả năng, tiềm năng chất lượng, hiệu quả của các hoạt động của mình trong hiện tại và tương lai với những cơ sở dữ liệu, luận cứ thuyết phục. Đồng thời phải báo cáo các hoạt động với các phía liên quan, trước hết là cơ quan chủ quan để nâng cao trách nhiệm xã hội của nhà trường với các nhóm lợi ích liên quan và không ngừng tự hoàn thiện mình, đáp ứng những thách thức, đòi hỏi, bức xúc từ ngoài nhà trường cũng như những đòi hỏi từ nội tại bản thân nhà trường. 4.5. Điều cuối cùng cũng cần nhấn mạnh rằng mục tiêu cao cả của vấn đề quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội hay tự chịu trách nhiệm của các trường ĐH, CĐ chính là vấn đề chất lượng đào tạo. Thước đo để đánh giá hiệu quả của quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường ĐH, CĐ chính là số lượng sinh viên ra trường có việc làm đúng ngành nghề được đào tạo, đáp ứng cả về kiến thức và kỹ năng tay nghề của hệ thống ngành nghề mà đất nước đang đòi hỏi. Đây là trách nhiệm, là vinh dự, là niềm tự hào của các trường ĐH, CĐ mà trước hết là của đội ngũ cán bộ quản lý nhà trường. 54
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0