MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC RÈN LUYỆN KĨ NĂNG KẾT HỢP CÁC<br />
THAO TÁC NGHỊ LUẬN TRONG VĂN NGHỊ LUẬN CHO HỌC SINH THPT<br />
TRẦN VĂN CHUNG<br />
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế<br />
Tóm tắt: Văn nghị luận là một thể loại chiếm vị trí rất quan trọng trong<br />
chương trình dạy học làm văn ở THPT. Nó hình thành cho học sinh khả<br />
năng bàn luận, đánh giá về các vấn đề trong hiện thực đời sống. Để đạt được<br />
mục tiêu này, trước kết, học sinh phải có kĩ năng kết hợp các thao tác nghị<br />
luận một cách hợp lí, sáng tạo vào việc làm văn nghị luận. Bài viết này tập<br />
trung làm rõ một số vấn đề lí luận và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm<br />
hình thành kĩ năng kết hợp các thao tác lập luận trong văn nghị luận cho học<br />
sinh THPT.<br />
<br />
1. Trong chương trình làm văn ở trung học phổ thông (THPT) hiện nay, văn nghị luận<br />
chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Dạng bài này nhằm hình thành cho học sinh những kiến<br />
thức và kĩ năng cần thiết để có thể tham gia bàn luận, đánh giá về những vấn đề khác<br />
nhau trong nhiều lĩnh vực của đời sống.<br />
Nhìn một cách khái quát, sự khác biệt cơ bản giữa văn nghị luận và các thể loại khác<br />
như miêu tả hay thuyết minh chính là đối tượng tiếp cận. Nếu văn miêu tả, văn thuyết<br />
minh quan tâm đến những đối tượng, sự kiện cụ thể - trực quan thì văn nghị luận lại chủ<br />
yếu tập trung vào những vấn đề mang tính trừu tượng - khái quát. Xét từ góc độ chức<br />
năng, chức năng quan trọng nhất của văn nghị luận không phải là thông báo, thông tin<br />
mà là bàn luận, đánh giá. Mục đích của người làm văn nghị luận là thuyết phục người<br />
nghe, người đọc về một vấn đề nào đó. Tuy nhiên, người nghe, người đọc là những đối<br />
tượng tiếp nhận có trình độ kiến thức, sự hiểu biết nhất định nên việc thuyết phục không<br />
hề dễ dàng. Muốn làm được điều này, người viết không chỉ phải huy động lí lẽ, dẫn<br />
chứng mà còn phải sử dụng nhiều thao tác lập luận (TTLL) khác nhau. Không có một<br />
văn bản nghị luận nào chỉ tồn tại một TTLL mà bao giờ cũng phải có sự kết hợp hài<br />
hoà, linh hoạt nhiều thao tác khác nhau.<br />
Bên cạnh đó, việc hình thành kỹ năng kết hợp các TTLL không chỉ nâng cao chất lượng<br />
làm văn nghị luận mà còn góp phần phát triển tư duy của học sinh. Các TTLL thực chất<br />
là các thao tác của tư duy được sử dụng vào quá trình nghị luận, có tính trừu tượng và<br />
khái quát cao. Khi học sinh có khả năng sử dụng các thao tác này một cách tự giác vào<br />
thực tế nói năng thì cũng đồng nghĩa với việc các em đã có sự hình thành và phát triển<br />
tư duy trừu tượng. Ngược lại, khả năng tư duy trừu tượng của học sinh là tiền đề quan<br />
trọng, quyết định việc hình thành kĩ năng kết hợp các TTLL.<br />
Mặt khác, như đã biết, chương trình Ngữ văn ở THPT hiện nay đã chú trọng nhiều hơn<br />
đến việc rèn luyện kĩ năng kết hợp các TTLL cho học sinh bằng việc dành nhiều tiết để<br />
luyện kĩ năng kết hợp các TTLL. Tuy nhiên, thời lượng chương trình và cách thức rèn<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 01(21)/2012: tr. 113-121<br />
<br />
114<br />
<br />
TRẦN VĂN CHUNG<br />
<br />
luyện theo chúng tôi là chưa thực sự hợp lí. Không có một tiết học nào hướng dẫn học<br />
sinh cách thức phối hợp các TTLL, trong khi đó các bài tập để hình thành kĩ năng lại<br />
chủ yếu là dạng bài tập phát hiện (yêu cầu học sinh chỉ ra các TTLL được sử dụng trong<br />
văn bản), bài tập phân tích (yêu cầu phân tích tác dụng của các TTLL). Vì vậy, việc<br />
luyện tập chưa mang lại hiệu quả rõ rệt, kĩ năng chưa được hình thành một cách bền<br />
vững, học sinh còn gặp nhiều khó khăn khi vận dụng vào làm văn nghị luận. Nói cách<br />
khác, việc rèn luyện mới chỉ dừng lại ở mức độ giúp cho học sinh hiểu chứ chưa thể vận<br />
dụng được. Điều đó dẫn đến hệ quả là việc hình thành kĩ năng kết hợp các TTLL cho<br />
học sinh ở THPT hiện nay còn nhiều bất cập, chưa đạt được hiệu quả như mong đợi.<br />
2. Lập luận là một thao tác rất quan trọng trong quá trình làm văn nghị luận. Nó giúp<br />
cho người viết lí giải và thuyết phục người khác thông qua hệ thống lí lẽ và dẫn chứng<br />
bằng những cách thức khác nhau. Khái niệm lập luận đã được nhiều nhà nghiên cứu<br />
quan tâm tìm hiểu. Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng, “lập luận là đưa ra những lí lẽ<br />
nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đó mà<br />
người nói muốn đạt tới” [1]. Cùng quan điểm đó, nhóm tác giả Nguyễn Quang Ninh,<br />
Nguyễn Thị Ban, Trần Hữu Phong cho rằng “lập luận là đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng<br />
một cách đầy đủ, chặt chẽ, nhất quán và đáng tin cậy nhằm dẫn dắt người đọc, người<br />
nghe đến một kết luận hoặc chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói, người viết<br />
muốn đạt tới” [4].<br />
Những quan niệm trên dù được diễn đạt khác nhau nhưng đều nhấn mạnh đến vai trò<br />
không thể thiếu được của các yếu tố: luận cứ (lí lẽ, dẫn chứng), kết luận và cách thức<br />
lập luận. Luận cứ là những lí lẽ và dẫn chứng được người viết rút ra từ đời sống xã hội,<br />
đời sống văn học hay những chân lí được mọi người thừa nhận dùng làm cơ sở và căn<br />
cứ để đi đến kết luận. Kết luận là những điều rút ra sau khi tiến hành lập luận. Cách<br />
thức lập luận là sự phối hợp, tổ chức luận cứ theo những cách suy luận nào đó để dẫn<br />
đến kết luận.<br />
Dựa vào cách thức lập luận, người ta chia ra nhiều TTLL khác nhau. Chương trình Ngữ<br />
văn ở THPT hiện nay tập trung chủ yếu vào 4 TTLL cơ bản: phân tích, bình luận, so<br />
sánh và bác bỏ. Trong văn nghị luận, các TTLL không hề tồn tại tách biệt mà luôn có sự<br />
kết hợp chặt chẽ, giao thoa với nhau. Một vấn đề nghị luận muốn đảm bảo tính thuyết<br />
phục, sáng rõ, người viết không chỉ sử dụng thao tác phân tích mà còn phải kết hợp<br />
thêm các TTLL so sánh, bình luận, bác bỏ… Bởi vì, văn nghị luận phải giải quyết<br />
những vấn đề có tính phức tạp và trừu tượng cao như tư tưởng đạo lí, quan niệm, hay<br />
tác phẩm nghệ thuật… Những vấn đề này sẽ không bao giờ được bàn bạc một cách<br />
thuyết phục, thấu đáo nếu chỉ sử dụng một TTLL. Chẳng hạn, khi nghị luận về một câu<br />
tục ngữ “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, người ta phải sử dụng phối hợp nhiều TTLL cho<br />
những mục đích khác nhau: giải thích (để thấy được ý nghĩa), so sánh (để thấy được giá<br />
trị của gỗ và sơn), bình luận (để thấy được mặt tích cực, đúng đắn và hạn chế của câu<br />
tục ngữ)… Vì vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng sự kết hợp các TTLL trong văn nghị<br />
luận là tất yếu, làm nên nét đặc trưng của thể loại văn này.<br />
<br />
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC RÈN LUYỆN KỸ NĂNG KẾT HỢP ...<br />
<br />
115<br />
<br />
Mặt khác, chúng ta còn thấy rằng, các TTLL không chỉ có sự kết hợp chặt chẽ với nhau<br />
để giải quyết từng phương diện, khía cạnh của luận đề mà còn có sự chuyển hóa, bổ<br />
sung cho nhau; một TTLL này bao giờ cũng được làm rõ thông qua một số TTLL khác.<br />
Tuy nhiên, sự tồn tại của các TTLL trong văn nghị luận không phải ngang hàng nhau<br />
mà có sự phân cấp cụ thể: TTLL chủ đạo và TTLL bổ sung [3]. TTLL chủ đạo thường<br />
được xác lập dựa trên yêu cầu về thể loại của đề bài. Chẳng hạn, đề bài yêu cầu phân<br />
tích, bình luận… thì TTLL chủ đạo sẽ là phân tích hay bình luận. Thao tác chủ đạo này<br />
là cơ sở để xác lập các luận điểm cũng như quy trình lập luận. Trong những đề không<br />
yêu cầu cụ thể về mặt thể loại, người nghị luận phải tự lựa chọn, xác lập các TTLL chủ<br />
đạo. TTLL bổ sung là những TTLL có chức năng hỗ trợ, bổ sung cho TTLL chủ đạo<br />
trong việc giải quyết các khía cạnh, phương diện của luận đề.<br />
Chẳng hạn, khi nghị luận về vấn đề “thế lực của đồng tiền”, tác giả viết:<br />
“Nhưng nói đến những lực lượng bạo tàn của số mệnh, không thể không nói đến thế lực<br />
của đồng tiền. Trong xã hội “truyện Kiều” đồng tiền đã trở thành một sức mạnh tác<br />
quái rất ghê. Nguyễn Du không phải không nhắc đến tác dụng tốt của đồng tiền. Có tiền<br />
Thúc Sinh, Từ Hải mới chuộc được Kiều, Kiều mới cứu được cha và sau này báo được<br />
ơn cho người này, người nọ… Nhưng chủ yếu Nguyễn Du vẫn nhìn về mặt tác hại. Vì<br />
Nguyễn Du thấy rõ cả một loạt hành động gian ác, bất chính đều do đồng tiền chi phối.<br />
Quan lại vì tiền mà bất chấp công lí, sai nha vì tiền mà tra tấn cha con Vương Ông, Tú<br />
Bà, Mã Giám Sinh… vì tiền mà làm nghề buôn thịt bán người; Sở Khanh vì tiền mà táng<br />
tận lương tâm; Khuyển, Ưng vì tiền mà làm những điều đại ác. Cả một xã hội chạy theo<br />
tiền…<br />
Đồng tiền cơ hồ trở thành một thế lực vạn năng. Tài hoa, nhan sắc… công lí đều không<br />
còn có ý nghĩa trước thế lực của đồng tiền. Tài tình, hiếu hạnh như Kiều cũng chỉ còn là<br />
một món hàng không hơn không kém. Ngay Kiều nữa, cái việc dại dột nhất, tội lỗi<br />
nhất… khuyên Từ Hải ra hàng một phần cũng bởi xiêu lòng vì ngọc vàng của Hồ Tôn<br />
Hiến” […] [2].<br />
Trong văn bản nghị luận này, vấn đề được đem ra bàn luận ở đây là “thế lực của đồng<br />
tiền trong truyện Kiều của Nguyễn Du”. Người đọc cũng nhận ra được tác giả đã lựa<br />
chọn TTLL phân tích làm thao tác chủ đạo để chia vấn đề nghị luận ra 3 phương diện để<br />
đi sâu tìm hiểu: tác dụng tốt của đồng tiền, tác hại của đồng tiền, thế lực vạn năng của<br />
đồng tiền. Để làm sáng tỏ từng phương diện, tác giả đã sử dụng thêm các TTLL bổ sung<br />
như: chứng minh (dùng dẫn chứng để minh họa cho các nhận định), bình luận (đưa ra<br />
những nhận định, đánh giá).<br />
Tóm lại, việc kết hợp các TTLL làm cho bài văn nghị luận trở nên mạch lạc, chặt chẽ và<br />
có tính thuyết phục cao hơn. Dù có mối liên hệ mật thiết với nhau nhưng trong bài văn<br />
nghị luận, mỗi TTLL có một vị trí, vai trò nhất định: có TTLL chủ đạo và TTLL bổ<br />
sung. Đặc điểm này cho thấy, việc làm văn nghị luận không chỉ chú trọng đến nội dung<br />
nghị luận mà còn đặc biệt chú trọng đến việc tổ chức, sắp xếp và kết hợp các TTLL sao<br />
cho phù hợp.<br />
<br />
116<br />
<br />
TRẦN VĂN CHUNG<br />
<br />
3. Từ thực trạng rèn luyện và vận dụng kỹ năng kết hợp các TTLL, chúng ta cần quan<br />
tâm trước hết đến việc cung cấp lí thuyết về kết hợp các TTLL cho học sinh. Đây là<br />
khâu then chốt để giúp các em hiểu và vận dụng kỹ năng này vào thực tế giao tiếp. Để<br />
thực hiện được điều này, chúng ta không chỉ phải xây dựng được hệ thống tri thức đầy<br />
đủ mà quan trọng hơn là lựa chọn phương pháp để hình thành tri thức cho học sinh phù<br />
hợp. Chương trình sách giáo khoa Ngữ văn hiện nay chỉ mới chú trọng phân tích cách<br />
kết hợp các TTLL trong một vấn đề cụ thể mà chưa chỉ ra được một quy trình khái quát<br />
về việc sử dụng kết hợp các TTLL cho mọi đề tài.<br />
Việc hình thành tri thức lí thuyết kết hợp các TTLL ở nhà trường hiện hay cần kế thừa các<br />
phương pháp dạy học làm văn truyền thống, trong đó đặc biệt chú ý đến phương pháp<br />
phân tích mẫu. Phương pháp này sẽ hình thành lí thuyết kết hợp các thao tác luận cho học<br />
sinh thông qua việc hướng dẫn học sinh phân tích cách kết hợp các TTLL trong những<br />
văn bản cụ thể. Con đường này giúp học sinh hiểu kiến thức một cách sâu sắc và đầy đủ<br />
hơn. Sử dụng phương pháp phân tích mẫu để hình thành tri thức về việc kết hợp các<br />
TTLL cho học sinh cần tiến hành theo quy trình gắn với các bước và thao tác cụ thể sau.<br />
Bước 1. Lựa chọn và cung cấp mẫu cho học sinh<br />
Mẫu chính là những văn bản nghị luận có sự kết hợp các TTLL một cách nhuần nhuyễn<br />
và sáng tạo. Khi lựa chọn mẫu, nên ưu tiên cung cấp các văn bản hoàn chỉnh mà các em<br />
đã được học trước đó. Điều này sẽ thuận lợi cho học sinh trong khi tiếp cận và phân tích<br />
cách kết hợp các TTLL trong toàn văn bản và từng đoạn văn cụ thể. Đối với những văn<br />
bản khó, giáo viên có thể cho học sinh tìm hiểu ở nhà trước.<br />
Bước 2. Hướng dẫn học sinh phân tích mẫu<br />
Đây là bước trọng tâm, quyết định hiệu quả của việc hình thành tri thức lí thuyết cho<br />
học sinh. Nếu không tổ chức phân tích mẫu hợp lí, học sinh không thể nhận ra cách kết<br />
hợp các TTLL trong văn bản nên cũng không thể khái quát được quy trình kết hợp các<br />
TTLL nói chung. Do vậy, khi hướng dẫn học sinh phân tích mẫu, giáo viên cần hướng<br />
học sinh đến các vấn đề sau:<br />
- Nội dung và mục đích cơ bản của văn bản là gì?<br />
- Văn bản được triển khai thành mấy đoạn văn, mấy luận điểm?<br />
- Trong mỗi đoạn văn, tác giả đã sử dụng những TTLL nào? Hãy chỉ ra biểu hiện<br />
của TTLL đó trong đoạn văn.<br />
- Xác định vai trò, vị trí và tác dụng của các TTLL trong từng đoạn văn.<br />
Bước 3. Hướng dẫn học sinh tổng hợp khái quát tri thức sử dụng kết hợp các thao<br />
tác lập luận trong văn bản nghị luận<br />
Từ việc phân tích mẫu, giáo viên yêu cầu học sinh chỉ ra quy trình chung nhất để kết<br />
hợp các TTLL trong quá trình xây dựng văn bản nghị luận. Quy trình này cần phải có<br />
các thao tác sau.<br />
<br />
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC RÈN LUYỆN KỸ NĂNG KẾT HỢP ...<br />
<br />
117<br />
<br />
TT1. Xác định nội dung và mục đích của văn bản (Xác định luận đề)<br />
TT2. Xác định các luận điểm nhằm làm rõ các mặt của luận đề<br />
TT3. Lựa chọn các TTLL cơ bản và TTLL bổ sung để làm rõ cho từng luận điểm<br />
TT4. Xây dựng các phát ngôn để cụ thể hóa các TTLL.<br />
TT5. Liên kết các đoạn văn để tạo thành văn bản hoàn chỉnh.<br />
Bước 4. Tổ chức hoạt động củng cố, khắc sâu kiến thức cho học sinh<br />
Hoạt động này chủ yếu được tiến hành thông qua hệ thống bài tập. Muốn kiến thức và<br />
kỹ năng được hình thành một cách vững chắc, chúng ta cần sử dụng nhiều loại bài tập:<br />
bài tập phát hiện, bài tập phân tích các TTLL, đặc biệt là loại bài tập tạo lập văn bản gắn<br />
với việc kết hợp các TTLL.<br />
Không chỉ chú trọng về mặt lí thuyết, để kĩ năng hình thành và củng cố một cách bền<br />
vững, giáo viên cần xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập một cách phù hợp. Trong dạy<br />
học làm văn, mỗi dạng bài tập có những mục đích và hiệu quả khác nhau như củng cố<br />
và khắc sâu lí thuyết, sửa lỗi nhưng quan trọng và chủ yếu vẫn là rèn luyện kỹ năng sử<br />
dụng ngôn ngữ. Để rèn luyện kỹ năng kết hợp các TTLL trong văn nghị luận cho học<br />
sinh, giáo viên nên sử dụng các dạng bài tập sau:<br />
Bài tập phát hiện các TTLL: Đây là dạng bài tập yêu cầu học sinh dựa trên những hiểu<br />
biết của mình để xác định các TTLL trong một văn bản nghị luận cụ thể. Dạng bài tập<br />
này có tác dụng củng cố và khắc sâu kiến thức về các TTLL, làm tiền đề cho việc rèn<br />
luyện kỹ năng kết hợp các TTLL trong văn nghị luận cho học sinh THPT. Khi xây dựng<br />
hệ thống bài tập này, giáo viên cần chú ý lựa chọn những ngữ liệu phù hợp, có tính<br />
chuẩn mực và tính giáo dục đối với học sinh. Mỗi ngữ liệu cần phải có sự kết hợp từ hai<br />
TTLL trở lên.<br />
Ví dụ: Đọc đoạn văn nghị luận sau và trả lời các câu hỏi<br />
“Tính ham mê cờ bạc là một tính rất xấu, nó làm cho người ta phải chịu nhiều sự thiệt<br />
hại và mất cả phẩm giá. Ai đã mắc phải tính xấu ấy thì chẳng mấy ai tránh khỏi sự<br />
nghèo túng, rồi sinh ra gian lận điên đảo, vì cờ bạc là một cách ăn chơi tổn hại nhiều<br />
tiền. Họa là mỗi khi được, được thì xài phí hết ngay, còn thua thì thua nhiều, mà thua<br />
mãi thì thành ra con nợ, có khi đến nỗi vong gia thất thố, phải đi ăn mày ăn xin, ăn<br />
trộm ăn cắp, làm những điều hèn hạ, xấu xa. Đã cờ bạc thì danh giá gì? Dẫu ông gì bà<br />
gì, mà ngồi vào đám bạc, thì cũng thành ra đê tiện. Ai cũng gọi là con bạc, đồ cờ bạc.<br />
Bởi thế cho nên các anh phải giữ gìn, đừng bắt chước phường cờ bạc, đừng có tập<br />
nhiễm cái thói xấu ấy”<br />
(“Chớ nên ham mê cờ bạc” - Theo “Quốc văn giáo khoa thư”)<br />
1. Đoạn văn viết về vấn đề gì?<br />
2. Tác giả sử dụng những TTLL nào khi viết về vấn đề đó? TTLL nào là chính?<br />
3. Nêu những biểu hiện cho thấy tác giả đã sử dụng thao tác đó.<br />
<br />