intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Một trường hợp chèn ép TKT ở khuỷu tay được phát hiện bằng đo điện cơ

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

19
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài nghiên cứu này trình bày về một trường hợp chèn ép TKT ở khuỷu tay phát hiện bằng đo điện cơ. Chèn ép TKT ở khuỷu là bệnh lý thần kinh ngoại biên đo đè ép phổ biến thứ 2, chỉ sau hội chứng ống cổ tay. TKT là một trong ba dây thần kinh chính của chi trên, chạy từ vùng cổ xuống đến bàn tay và có thể bị chèn ép ở một số vị trí trên đường đi của nó, thường gặp nhất là ở sau khuỷu tay gọi là hội chứng đường hầm TKT. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Một trường hợp chèn ép TKT ở khuỷu tay được phát hiện bằng đo điện cơ

  1. MỘT TRƯỜNG HỢP CHÈN ÉP TKT Ở KHUỶU TAY ĐƯỢC PHÁT HIỆN BẰNG ĐO ĐIỆN CƠ Đỗ Thị Quốc Trinh TÓM TẮT. Một trường hợp chèn ép TKT ở khuỷu tay phát hiện bằng đo điện cơ. Chèn ép TKT ở khuỷu là bệnh lý thần kinh ngoại biên đo đè ép phổ biến thứ 2, chỉ sau hội chứng ống cổ tay. TKT là một trong ba dây thần kinh chính của chi trên, chạy từ vùng cổ xuống đến bàn tay và có thể bị chèn ép ở một số vị trí trên đường đi của nó, thường gặp nhất là ở sau khuỷu tay gọi là hội chứng đường hầm TKT. Đo điện cơ là một xét nghiệm quan trọng giúp chẩn đoán xác định thần kinh có bị chèn ép hay không và vị trí chèn ép. SUMMARY. A case of the compressive ulnar neuropathy at the elbow was detected by electromyography (EMG) in Nhật Tân hospital. The ulnar nerve compression is the second most common type of peripheral neuropathy, after only the carpal tunnel syndrome. The ulnar nerve is one of the three main nerves of the upper limb, which runs from the neck to the hand and can be comprssed at some point along its path, most commonly in the posterior elbow on which is called ulnar tunnel syndrome at the elbow. Electromyography is an important test that helps determine whether a nerve is compressed or not and the compressed position. ĐẶT VẤN ĐỀ Hội chứng chèn ép TKT (TKT) ở khuỷu là bệnh lý thần kinh ngoại biên do đè ép phổ biến thứ 2, chỉ sau hội chứng ống cổ tay. Khi đi qua rãnh TKT ở khuỷu tay, TKT đi rất nông và không có cơ che phủ nên rất dễ bị tổn thương. Những nguyên nhân như bất thường các cấu trúc giải phẫu, gãy xương cũ hoặc mới, bệnh lý khớp viêm tại vùng khuỷu có thể dẫn đến TKT bị chèn ép. Duy trì tư thế gấp khuỷu trong thời gian dài hoặc lặp đi lặp lại động tác gấp duỗi khuỷu có thể gây tổn thương TKT. Kỹ thuật đo điện cơ giúp chẩn đoán vị trí chèn ép, độ nặng, lựa chọn phương pháp điều trị (bảo tồn hay phẫu thuật) đối với chèn ép TKT. Chúng tôi báo cáo 1 trường hợp chẩn đoán chèn ép TKT ở khuỷu tay phát hiện bằng đo điện cơ tại Bệnh Viện Đa Khoa Nhật Tân. TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG Bệnh nhân nam, 31 tuổi, nghề nghiệp làm ruộng, vào viện vì tê và teo cơ bàn tay trái. Bệnh sử: Cách nhập viện khoảng 2 năm, bệnh nhân cảm giác bị tê ngón 5 và 4 tay trái sau đó bị teo cơ nhẹ bàn tay trái, không điều trị gì, tình trạng tê ngón út và teo cơ bàn tay trái ngày càng nhiều đặc biệt là vùng ô mô cái nên đi khám và nhập viện điều trị. Tình trạng lúc nhập viện: Bệnh tỉnh. HA 120/80 mmHg, nhiệt độ 37oC, tê 1/3 ngoài bàn tay cả phần mu và lòng bàn tay lan đến ngón 5 và nửa ngoài ngón 4, teo cơ ô mô út, teo các cơ gian cốt bàn tay trái, ngón 5 không khép kín được (dấu Wartenberg) và co rút nhẹ ở đốt xa, yếu động tác kẹp giữa ngón 1 và 2, vùng khuỷu trái biến dạng,cử động gấp hạn chế, không rung giật bó cơ, phản xạ gân xương bình thường, dấu Babinski (-). Hình 1- 4: Mặt sấp và ngửa của bàn 36
  2. tay bị liệt dây TKT. Hình 3 vá 4. Hình 5. Hình 6. X-quang khuỷu trái cho thấy gãy cũ dạng tách rời lồi cầu ngoài. Tiền sử: Té trật khớp khuỷu lúc nhỏ (không nhớ năm bao nhiêu tuổi) chỉ bó thuốc nam, không ghi nhận bệnh lý gì lạ khác; Gia đình không ai mắc bệnh di truyền về thần kinh. Cận lâm sàng: X-quang khớp khuỷu trái: gãy cũ dạng tách rời lồi cầu ngoài xương cánh tay trái. Điện cơ: có biểu hiện tổn thương mãn tính dạng chèn ép dây TKT trái đoạn đi qua khuỷu. Hình 7: Đo MCV (tốc độ dẫn truyền vận động) Hình 8: Đo MCV dây TKT trái dây TKT phải – thời gian tiềm và biên mất đáp ứng hoàn toàn. 37
  3. độ của CMAP (điện thế hoạt động co cơ toàn phần) bình thường. Hình 9:Đo SCV (tốc độ dẫn truyền cảm giác) Hình 10: Đo SCV dây TKT trái dây TKT phải – thời gian tiềm và biên mất đáp ứng hoàn toàn. độ của SNAP (điện thế hoạt động dây thần kinh cảm giác) bình thường. Hình 11: Đo SCV dây bì trụ mu tay: (1) bên Hình 10: Kỹ thuật kích thích từng inch dây trái mất đáp ứng hoàn toàn =>dây TKT TKT trái - MCV của dây trụ mất đáp ứng trái bị chèn ép phía trên cổ tay, (2) bên hoàn toàn từ cổ tay trái đến khuỷu, ở đoạn phải – SNAP bình thường. inch vừa qua khuỷu ghi nhận MCV với biên độ bình thường. 38
  4. Hình 11: Đo điện cơ kim cơ do TKT chi phối vùng cẳng tay: hình ảnh đơn vị vận động cao rộng đa pha kết tập giảm => tổn thương mạn tính dây TKT đoạn từ khuỷu trở lên cánh tay. BÀN LUẬN Bệnh nhân nam 31 tuổi có tiền sử té trật khớp khuỷu từ nhỏ với triệu chứng tê 1/3 ngoài bàn tay cả phần mu và lòng bàn tay lan đến ngón 5 và nửa ngoài ngón 4, teo cơ ô mô út, teo các cơ gian cốt bàn tay trái, ngón 5 không khép kín được (dấu Wartenberg) và co rút nhẹ ở đốt xa, yếu động tác kẹp giữa ngón 1 và 2. X-quang khớp khuỷu trái gãy cũ dạng tách rời lồi cầu ngoài. Chẩn đoán ban đầu chúng tôi nghỉ nhiều đến tổn thương dây TKT do chèn ép ở vùng khuỷu, phân biệt với hội chứng kênh Guyon (chèn ép dây TKT ở cổ tay) và bệnh xơ cứng cột bên teo cơ với biểu hiện sớm là teo cơ bàn tay. Bênh nhân được kiểm tra đo điện cơ chi trên, ghi nhận MCV và SCV của dây trụ bên trái mất đáp ứng hoàn toàn, SCV nhánh bì trụ mu tay bên trái cũng mất đáp ứng hoàn toàn (nhánh cảm giác của dây TKT chia nhánh ở 1/3 dưới cẳng tay trước khi đi qua cổ tay) giúp loại trừ chẩn đoán hội chứng kênh Guyon; khi tiến hành kỹ thuât kích thích từng inch, MCV của dây trụ mất hoàn toàn từ cổ tay trái đến khuỷu, ở đoạn inch vừa qua khuỷu ghi nhận MCV với biên độ bình thường, chứng tỏ dây TKT bị chèn ép ngay vùng khuỷu, sau đó chúng tôi tiến hàng đo điện cơ kim cho bệnh nhân ở các cơ do TKT chi phối ghi nhận đơn vị vận động cao rộng đa pha, kết tập giảm chứng tỏ dây trụ đã bị tổn thương mạn tính, không ghi nhận hình ảnh rung giật sợi cơ (fibrillation) hay rung giật bó cơ (fasciculation) thường gặp trong tổn thương neuron vận động ở sừng trước tủy sống gặp trong bệnh xơ cứng cột bên teo cơ. Đây là trường hợp đầu tiên phòng điện sinh lý Bệnh Viện Nhật Tân chẩn đoán bệnh chèn ép TKT tại vùng khuỷu tay nhờ điện cơ giúp tiên lượng và có hướng điều trị thích hợp. KẾT LUẬN Chèn ép TKT là bệnh lý thần kinh ngoại biên đo đè ép phổ biến thứ 2, chỉ sau hội chứng ống cổ tay. Kỹ thuật đo điện cơ giúp chẩn đoán vị trí chèn ép, độ nặng, lựa chọn phương pháp điều trị (bảo tồn hay phẫu thuật) đối với chèn ép TKT. Đối với những trường hợp nghi ngờ tổn thương thân kinh trụ nói riêng và các dây thần kinh 39
  5. của chi trên nói chung, nên đo điện cơ để xác định chẩn đoán, tiên lượng và hướng điều trị thích hợp. THAM KHẢO 1. Nguyễn Hữu Công. Chẩn đoán điện và ứng dụng lâm sàng, Nhà xuất bản Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh, năm 2013, trang 21-70. 2. Campbell ww et al. Variations in anatomy of the ulnar nerve at the cubital tunnel: pitíalls in the diagnosis of ulnar neuropathy at the elbow. Muscle Nerve.Aug 1991;14(8):733-8. 3. Aguiar PH et al. Surgical management of Guyon's canal syndrome, an ulnar nerve enừapment at the wrist: report of two cases. Arq Neuropsiquiatr. Mar 2001;59(l): 106-11. 4. Cheng CJ et al. Scratch collapse test for evaluation of carpal and cubital tunnel syndrome. J Hand Surg [Am]. Nov 2008;33(9): 1518-24. 5. Goldman SB et al (). A Review of Clinical Tests and Signs for the AssessmentofUlnarNeuropathy. JHandTher. Feb 1, 2009. 6. Rosati M et al. Clinical vali ity of the elbow ílexion test for the diagnosis of ulnar nerve compression at the cubital tunnel. Acta Orthop Belg. Dec, 1998;64(4):366-70. 40
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2