v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
MỘT VÀI SUY NGHĨ<br />
VỀ DIỄN NGÔN SƯ PHẠM TRONG<br />
GIẢNG DẠY TIẾNG PHÁP<br />
NGUYỄN VIỆT QUANG<br />
Đại học Ngoại ngữ - ĐHQG Hà Nội<br />
<br />
<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Xuất phát từ những thông tin quan sát được trên thực tế, tác giả trình bày những suy nghĩ của mình về<br />
việc sử dụng ngôn ngữ của giáo viên trên lớp. Trước hết, bài viết điểm lại quá trình hình thành của khái<br />
niệm diễn ngôn sư phạm, sau đó đề cập các chức năng của loại diễn ngôn này theo lý thuyết về hành<br />
vi ngôn ngữ của Austin. Song song với việc trình bày lý thuyết, tác giả đưa ra các khuyến cáo dựa trên<br />
các kết quả dự giờ của giảng viên Việt Nam và Pháp với hy vọng việc làm này sẽ có ích cho việc đổi mới<br />
phương pháp giảng dạy tiếng Pháp.<br />
Từ khóa: diễn ngôn giáo khoa, diễn ngôn sư phạm, hành vi ngôn ngữ, phương pháp giảng dạy<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ quan sát một số giờ dạy, trong đó có giờ do giáo viên<br />
người Pháp thực hiện ở Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa<br />
Để thực hiện nhiệm vụ của mình, người giáo viên Pháp Trường Đại học Ngoại ngữ – ĐHQG Hà Nội. Xét<br />
ngoại ngữ cần làm chủ phương pháp giảng dạy. Các thấy những điều đã quan sát được cũng là những vấn<br />
ứng xử sư phạm trên lớp thể hiện chủ yếu thông qua đề chung có thể xảy ra ở những đơn vị đào tạo khác,<br />
hai yếu tố: cử chỉ và lời nói. Cử chỉ là việc sử dụng có nên chúng tôi mạnh dạn trình bày những suy nghĩ<br />
chủ ý một số bộ phận cơ thể, chủ yếu là cánh tay và của mình trong bài viết này. Trước hết, chúng tôi điểm<br />
bàn tay phục vụ cho mục đích sư phạm. Yếu tố thứ lại quá trình hình thành khái niệm DS, sau đó đề cập<br />
hai được thể hiện bằng lời để truyền đạt kiến thức và các chức năng của DS theo lý thuyết về hành vi ngôn<br />
hướng dẫn học sinh hoạt động, trong giáo học pháp ngữ của Austin, đồng thời đưa ra các khuyến cáo dựa<br />
người ta gọi là diễn ngôn sư phạm (DS). DS có vai trò trên các quan sát dự giờ đã nói ở trên.<br />
hết sức quan trọng vì mọi giao tiếp trên lớp đều được<br />
tiến hành bằng phương tiện này. Thêm vào đó là đặc 2. KHÁI NIỆM DIỄN NGÔN SƯ PHẠM<br />
thù của lớp học tiếng: việc dạy-học một ngôn ngữ<br />
mới được thực hiện qua chính ngôn ngữ đó (nó vừa Diễn ngôn sư phạm (Discours pédagogique) là một<br />
là mục đích, vừa là phương tiện). Do vậy giáo viên cần nhánh của giao tiếp trên lớp, một trường hợp đặc biệt<br />
quan tâm tới vấn đề này. của giao tiếp ngoại ngôn (communication exolingue).<br />
Trong 20 năm vừa qua, giao tiếp ngoại ngôn đã được<br />
Việc nghiên cứu DS trong giảng dạy tiếng Pháp cho một số nhà ngôn ngữ học và lý luận dạy học nghiên<br />
đối tượng người Việt Nam vẫn còn là một lĩnh vực cứu. Nhưng các công trình đều đề cập DS ở mức độ<br />
mới mẻ. Trong khuôn khổ của một nghiên cứu về DS khái quát, và nhiều khi còn có sự nhầm lẫn giữa DS với<br />
(Nguyễn Việt Quang, 2014), chúng tôi đã tiến hành diễn ngôn giáo khoa (Discours didactique).<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
10 Số 3 - 9/2016<br />
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
Tài liệu nghiên cứu khá chi tiết DS là tạp chí Langages diễn ngôn sư phạm là diễn ngôn tương tác được thực<br />
số 45 xuất bản năm 1977. Tạp chí đã dành riêng số hiện qua các trao đổi trên lớp. “Diễn ngôn sư phạm là<br />
này để công bố các nghiên cứu về DS với tiêu đề một sản phẩm tương tác bằng lời để giao tiếp và thực<br />
Formation des discours pédagogiques (Sự hình thành hiện một nhiệm vụ giáo dục và đào tạo, nó có một cấu<br />
của các loại diễn ngôn sư phạm). Trong lời giới thiệu, C. trúc nội tại liên quan đến thể loại diễn ngôn được sử dụng<br />
Désirat và T. Hordé nhận xét rằng, loại diễn ngôn này và tuân thủ một sự tình có kết cấu động, và có khả năng<br />
có một vị thế đặc biệt và là đối tượng của hai hướng thực hiện các hoạt động tri nhận quan trọng, nó được<br />
nghiên cứu (Desirat c., Horde t., 1997). đặt trong một ngữ cảnh cụ thể mà nó vừa phụ thuộc vừa<br />
chi phối” (Burlinska W., 2012). Trong định nghĩa trên,<br />
Theo hướng thứ nhất, DS chỉ các văn bản trong sách tác giả đã nhấn mạnh tới khía cạnh tương tác, cấu<br />
giáo khoa, các bài viết của học sinh, các lời chỉ dẫn trúc nội tại và ngữ cảnh của DS, nhưng vẫn chưa bao<br />
của giáo viên, các báo cáo thanh tra, v.v. Ở nghĩa này, quát hết toàn bộ nội dung và phương tiện diễn đạt.<br />
DS (dùng ở số nhiều) đối lập với diễn ngôn phản bác,<br />
tranh luận và với diễn ngôn khoa học. Khuynh hướng Chúng tôi đề nghị đưa thêm vào nội dung của DS<br />
thứ hai coi DS (dùng ở số ít) chỉ là một trong những các sản phẩm viết, và vào phương tiện diễn đạt các<br />
dạng của diễn ngôn giáo khoa mà đặc điểm nổi bật phương tiện ngoại lời vì cả hai yếu tố trên đóng vai<br />
là không có các chủ thể phát ngôn (câu không có chủ trò quan trọng trong giao tiếp trên lớp. Như vậy,<br />
ngữ cụ thể, có thể được phát ra bởi X hoặc Y). Như diễn ngôn sư phạm là tất cả những gì do giáo viên tạo<br />
vậy, khái niệm DS có một trường nghĩa rất rộng, và ra dưới dạng nói hay viết để thực hiện một hành động<br />
qua đó ta cũng thấy có một sự chồng chéo giữa diễn giáo dục và đào tạo. Ở dạng nói, nó được hỗ trợ bởi cử<br />
ngôn sư phạm và diễn ngôn giáo khoa. chỉ và các biểu hiện của cơ thể, dạng viết được thể hiện<br />
ở trên bảng và trên giấy trong bài làm của người học.<br />
Bảy năm sau vào năm 1984, trong lĩnh vực lý luận<br />
dạy học, C. Kramsch cho xuất bản một nghiên cứu rất Cũng cần nói thêm là việc mở rộng khái niệm diễn<br />
đầy đủ về Tương tác và diễn ngôn trong lớp học ngoại ngôn sư phạm sang lĩnh vực viết là hoàn toàn phù<br />
ngữ (Interaction et discours dans la classe de langue hợp với quá trình tiến triển của khái niệm diễn<br />
(Kramsch C., 1984/1996). Theo Kramsch, những điều ngôn. Sausure là người đầu tiên phân biệt ngôn ngữ<br />
kiện tâm lý và xã hội của những năm 80 thế kỷ trước (langue) và diễn ngôn (discours). Diễn ngôn là sự hiện<br />
đã khiến các nhà giáo học pháp quan tâm tới nội thực hóa ngôn ngữ, là ngôn ngữ trong hành động.<br />
dung của diễn ngôn sử dụng trong lớp học ngoại Trong một thời gian khá lâu, diễn ngôn chỉ dùng<br />
ngữ. Diễn ngôn được quan niệm như sản phẩm của cho các sản phẩm nói, đối lập với văn bản (texte),<br />
một quy trình trao đổi giữa hai hay nhiều tác nhân diễn ngôn thuộc lĩnh vực nói còn văn bản thuộc lĩnh<br />
trong một tình huống giao tiếp cụ thể, nó cần được vực viết. Ngày nay sự phân biệt nói/viết đang có xu<br />
đặt trong mạng lưới các tương tác cá nhân và xã hội. hướng biến mất. Ở mục từ “văn bản”, Từ điển lý luận<br />
Trong giảng dạy, để chuyển tải một nội dung nào đó, dạy học tiếng Pháp đã nêu ra 13 thể loại bao gồm cả<br />
người dạy cần sử dụng diễn ngôn phù hợp với điều văn bản viết và văn bản nói: hội thoại, tọa đàm, tranh<br />
kiện và trình độ của người học. Ở đây DS được đối lập luận, tham vấn, xét hỏi, bài báo, quảng cáo, văn bản<br />
với nội dung giảng dạy, nhưng tác giả cũng không chuyên ngành,... (Cuq J.-P.(Dir), tr.73).<br />
đưa ra một định nghĩa cụ thể.<br />
3. CHỨC NĂNG<br />
Sự phân biệt giữa diễn ngôn sư phạm và diễn ngôn<br />
giáo khoa chỉ được thực hiện một cách tường minh Dưới góc độ của ngữ dụng thì DS là tập hợp các hành<br />
trong luận án tiến sĩ của Burlinska năm 2012 “Diễn động lời nói (acte de langage). Như chúng ta biết,<br />
ngôn sư phạm trong đào tạo ban đầu giáo viên ngoại Austin đã xây dựng một lý thuyết chung về lời nói<br />
ngữ (Le discours pédagogique dans la formation initiale trong hành động. Khi ta đưa ra một phát ngôn hướng<br />
des enseignants de langues étrangères)”. Theo đó, diễn tới ai và nhằm một mục đích nào đó là đã thực hiện<br />
ngôn giáo khoa liên quan đến nội dung chương trình, ba hành động: hành động tạo lời, hành động tại lời và<br />
giáo trình, v.v. Nội dung là một khối lượng kiến thức hành động bởi lời (Austin, J.-L., 1962). Chúng tôi nghĩ<br />
tương đối cố định cần truyền tải tới người học. Còn có thể sử dụng lý thuyết của Austin để xác định chức<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 3 - 9/2016 11<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
năng của DS bởi lẽ mỗi hành động trên lớp đều được 3.1.2. Về mặt ngữ pháp<br />
xây dựng trên cơ sở tuân thủ những quy luật chung<br />
về ngôn ngữ, nhằm thực hiện một “việc” và để lại một Theo cách phân chia truyền thống, ngữ pháp bao<br />
“hiệu quả” nào đó ở người học. gồm từ pháp và cú pháp. Đối với người Việt Nam,<br />
trong số 9 loại từ của Từ pháp tiếng Pháp, động từ<br />
3.1. Chức năng tạo lời (locutoire) gây nhiều khó khăn nhất, đặc biệt là việc dùng thời,<br />
thể. Cú pháp quan tâm đến hoạt động của các hình vị<br />
Như nói ở trên, trong giảng dạy ngoại ngữ, ngôn ngữ trong câu và các dạng câu, và cũng gây không ít khó<br />
đích cũng là ngôn ngữ giao tiếp trên lớp. Thông qua khăn. Dưới đây chúng tôi xin nêu hai ví dụ.<br />
và bằng lời nói của mình người dạy giúp người học<br />
tiếp thu một phương tiện giao tiếp mới. Do vậy, DS a) Cách đặt câu hỏi<br />
phải có tính khuôn mẫu để người học noi theo. Tạo<br />
lời tức là xây dựng các phát ngôn theo các quy luật Trong các loại câu (tường thuật, mệnh lệnh, nghi vấn,<br />
của ngôn ngữ, điều này được thể hiện ở ba bình diện cảm thán), câu nghi vấn chiếm vị trí quan trọng. Câu<br />
chính là ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. hỏi cho phép người dạy hiểu rõ tình hình của lớp,<br />
nắm được những hiểu biết của người học liên quan<br />
3.1.1. Về mặt ngữ âm đến nội dung của bài sắp học, giảng những vấn đề<br />
mới và cuối cùng là đánh giá được mức độ tiếp thu<br />
Nếu DS là vỏ vật chất của phương pháp sư phạm, thì của họ. Đây là các câu hỏi “thực”: nó giúp người hỏi<br />
ngữ âm là vỏ vật chất của DS. Việc tạo lời phải được có thêm thông tin về một vấn đề mà mình chưa<br />
tiến hành chuẩn xác cả về cấu âm và cách sử dụng các biết. Ngoài ra còn có câu hỏi “giả”. Để điều hành lớp,<br />
yếu tố siêu ngữ đoạn. Ở đây cần lưu ý tới ảnh hưởng giảng viên phải thường xuyên đưa ra các yêu cầu; về<br />
tiêu cực của tiếng mẹ đẻ. Những âm chỉ có ở tiếng lý thuyết chúng được diễn đạt bằng câu mệnh lệnh,<br />
nước ngoài như các âm mũi /ɑ̃ ɔ̃ ɛ̃ œ̃/ trong tiếng<br />
ví dụ, Lisez le texte! Nhưng trong thực tế để giảm bớt<br />
Pháp có thể gây khó khăn, nhưng không “nguy hiểm”,<br />
căng thẳng, người ta mềm hóa yêu cầu đó bằng một<br />
bởi lẽ lúc đầu người học có thể không phát âm chính<br />
câu hỏi Pouvez-vous lire le texte?<br />
xác nhưng dần dần họ sẽ đạt được.<br />
Trong tiếng Pháp có ba cách đặt câu hỏi: dùng ngữ<br />
Cái khó là ở các âm gần giống, phần tương đồng dễ<br />
điệu lên giọng, dùng đặc ngữ est-ce que và đảo chủ<br />
cho ảo tưởng là phát âm đúng. Ví dụ, /g/ và /ɤ/ đều là<br />
ngữ. Câu hỏi trong tiếng Việt được thể hiện qua các từ<br />
hữu thanh, nhưng /g/ là một phụ âm tắc (occlusive)<br />
để hỏi (phần lớn đặt ở cuối), và không có đảo chủ ngữ:<br />
trong tiếng Pháp, còn /ɤ/ là phụ âm xát (fricative)<br />
trong tiếng Việt (Đoàn Thiện Thuật, 1997). Khi phát – Bạn thấy điều đó thế nào?<br />
ra âm này ở trạng thái riêng lẻ giáo viên có thể phân<br />
biệt, nhưng đặt trong một chuỗi câu sự nhầm lẫn – Có bao nhiêu văn bản ở đó?<br />
dễ xảy ra, nhất là trong các từ gần giống tiếng Pháp<br />
như ga, ga tầu (đã được Việt hóa từ gare trong tiếng – Người ta có thể thấy các văn bản lập luận ở đâu?<br />
Pháp). Rất có nhiều khả năng từ gare trong Je vais à<br />
la gare được phát âm với /ɤ/ và sau đó không có phụ Qua quan sát chúng tôi thấy, dưới ảnh hưởng của cấu<br />
âm cuối /r/. Chúng tôi còn nhận thấy xu hướng nhầm trúc tiếng Việt “chủ ngữ + động từ + phải không?” một<br />
lẫn /g/ với /r/, một âm ngạc hữu thanh, ví dụ, thay vì số giảng viên có xu hướng lạm dụng dùng câu hỏi<br />
“conjuguez” họ nói “conjurez”. Xu hướng càng rõ hơn lên giọng (đôi khi kèm theo cụm n’est-ce pas ở cuối),<br />
khi /g/ ở liền kề với /r/ như trong các từ Roland Garros, và như vậy hầu như loại bỏ câu hỏi đảo chủ ngữ. Dự<br />
calendrier grégorien và garroter. một số giờ của giảng viên bản ngữ thì thấy ngược lại:<br />
cả ba loại câu hỏi đều được sử dụng, trong đó có đảo<br />
Cái sai của người dạy tất sẽ dẫn đến cái sai của người chủ ngữ:<br />
học. Quan sát cho thấy sự nhầm lẫn về âm này còn dai<br />
dẳng ở một số giáo viên. Về mặt ngữ âm thì các giáo – Pourquoi avez-vous trouvé ça intéressant?<br />
viên bản ngữ có ưu thế hơn nhiều, chúng ta cần quan<br />
sát để điều chỉnh cho phù hợp. – / donc euh / combien y a-t-il de textes?<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
12 Số 3 - 9/2016<br />
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
– Oùtrouve-t-onlestextesargumentatifs/informatifssurtout? Các động từ intéresser, être, trouver được dùng ở thời<br />
quá khứ kép thức trực thuyết. Cũng như vậy khi bình<br />
Do vậy, không nên dùng quá nhiều câu hỏi lên giọng. luận về câu trả lời của sinh viên:<br />
Cũng xin nói thêm là cách đặt câu hỏi lên giọng<br />
(không đảo chủ ngữ) không phải luôn luôn được – Hmm/ vous avez trouvé que ça changeait/ ça vous a<br />
chấp nhận với nhiều người Pháp. Julien Lepers, người changé des autres thèmes/ des autres façons de penser<br />
dẫn chương trình Questions pour un champion trên (faire signe avec la main)/ Un peu? (Bạn đã thấy là điều<br />
đài truyền hình Pháp đã kể câu chuyện sau: đó đã thay đổi.)<br />
<br />
Trong một lần ghi hình qua phiếu khán giả tôi thấy – J’ai bien aimé ton expression. (Tôi đã rất thích cách<br />
ứng viên rất yêu mến vùng Aquitaine (nơi có thành phố diễn đạt của bạn.)<br />
Arcachon xinh đẹp nằm trên bờ biển Đại Tây Dương),<br />
tôi đã đặt câu hỏi “Vous vivez à Arcachon?” Ngày hôm Trong văn nói, người ta có thể dùng thời hiện tại để<br />
sau tôi nhận được một bức thư ký tên Isabelle R. ở diễn tả các hành động tương lai: nous faisons une<br />
Saint-de-Malbert: “Khi dẫn một chương trình văn hóa, promenade au parc = nous allons faire une promenade<br />
au parc (chúng tôi sắp đi dạo trong công viên), nhưng<br />
thưa ông, người ta không nói như vậy!” Do mệt nên tôi<br />
với các hành động đã qua thì phải dùng thời quá<br />
đã quên những gì nói hôm trước. Liệu có phải tôi đã<br />
khứ (trừ trong các tác phẩm văn học, khi tác giả<br />
nói “Habitez-vous à Arcachon?” thay vì “Vous habitez<br />
muốn làm sống lại ở hiện tại một chuỗi hành động<br />
à Arcachon?” Tôi tiếp tục đọc thư, Isabelle viết: “Ông có<br />
quá khứ). Trong giao tiếp trên lớp cũng vậy, ví<br />
bị méo mồm đi khi nói “Vivez-vous à Arcachon?” mà<br />
dụ, khi hỏi một sinh viên đã bị ốm như thế nào thì<br />
không phải là “Vous vivez à Arcachon?” như tất cả các<br />
phải dùng Qu’est-ce que vous avez eu? (Bạn đã làm<br />
quý ông-bà ngu dốt mà người ta đã tuyển chọn vào đài<br />
sao vậy?) chứ không phải Qu’est-ce que vous avez?<br />
truyền hình, ngay cả đến cách đặt một câu hỏi mà họ<br />
cũng không biết?” Isabelle có thể dùng những lời lẽ nhẹ Tóm lại, DS cũng phải tuân thủ các quy tắc dùng thời,<br />
nhàng hơn, nhưng tôi không phản đối nội dung bức thể trong tiếng Pháp.<br />
thư (Lepers J., 2011).<br />
3.1.3. Về mặt từ vựng<br />
b) Dùng thời quá khứ khi cần thiết<br />
Mỗi ngôn ngữ tồn tại dưới nhiều cấp độ: cấp độ trang<br />
Việc dùng thời, thể trong tiếng Pháp luôn là một vấn trọng, cấp độ thông dụng, cấp độ thân mật, cấp độ<br />
đề khó đối với người Việt Nam, bởi hiện tượng này suồng sã. DS phải được dùng ở cấp độ thông dụng<br />
không tồn tại trong tiếng Việt. Có trường hợp giáo (langue courante). Điều này có vẻ là một sự thật hiển<br />
viên chỉ sử dụng thời hiện tại của thức trực thuyết nhiên, nhưng thực tế không luôn đúng như vậy. Vì<br />
(indicatif ) ngay cả đối với các hành động quá khứ: Et giao tiếp giữa người dạy và người học trên lớp chủ<br />
tu n’écris pas ici?/Mais tu es toujours en retard/c’est pas yếu được thực hiện dưới dạng nói nên người ta dễ<br />
seulement aujourd’hui/mais mardi/tu es déjà en retard. chuyển từ thông dụng sang thân mật hoặc suồng sã.<br />
Ở đây cần phải dùng hai động từ “écrire” và “être” ở Việc lạm dụng dùng từ quoi (cái gì) như trong Quoi?<br />
thời quá khứ kép (Em đã không viết vào đây, Hôm thứ hay Tu dis quoi? thay vì những câu hỏi thông dụng:<br />
ba vừa rồi em đã đến muộn). Que dis-tu? Qu’est-ce que tu dis? (Em nói điều gì vậy)<br />
là một ví dụ. Cũng như vậy đối với trường hợp các<br />
Khi quan sát giáo viên người Pháp thì thấy hoàn toàn từ voiture và bagnole, caisse. Từ voiture thuộc cấp độ<br />
khác. Để nhắc lại bài hôm trước, người bản ngữ nói: ngôn ngữ thông dụng, trong khi đó hai từ bagnole và<br />
caisse thuộc cấp độ ngôn ngữ thân mật.<br />
– Alors vous avez été intéressés par le dossier un / Oui?<br />
(Bài 1 đã làm cho các bạn hứng thú không?) Ngoài việc nhầm lẫn về cấp độ ngôn ngữ, trong quá<br />
trình dự lớp chúng tôi còn ghi nhận một số lỗi về cách<br />
– Quelles ont été vos impressions?/… / (rire) Pourquoi sử dụng từ. Sau đây là hai ví dụ:<br />
avez-vous trouvé ça intéressant? (Các bạn đã có cảm<br />
giác như thế nào? Tại sao các bạn đã thấy điều đó lý thú?) – Về nghĩa: passant/ passager. Từ đầu chỉ người đi bộ<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 3 - 9/2016 13<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
đi dạo (personne qui passe à pied dans un lieu, dans nay kiến thức văn hóa rất được chú trọng; văn hóa<br />
une rue), trong khi đó passager chỉ hành khách đi tàu là tất cả những gì tạo nên nét riêng của một cộng<br />
đi xe... (personne transportée à bord d‘un navire, d‘un đồng như phong tục tập quán, cách sinh hoạt, tác<br />
avion, d‘une voiture...). Do vậy, khi nói về cụ bà đang phẩm văn học, công trình kiến trúc,... Tất cả những<br />
đi trong một con phố thì phải dùng La grand-mère est điều đó cần được thể hiện từng bước trong bài học<br />
une passante (không phải là passagère). thông qua DS.<br />
<br />
– Về giới từ: S’opposer et protester contre la décision du Chức năng tổ chức, dẫn dắt được thực hiện thông qua<br />
maire (chống lại và phản đối quyết định của thị trưởng). việc quản lý các hoạt động sư phạm và điều tiết lời<br />
Việc dùng giới từ sau động từ cũng là một vấn đề khó, nói. Có thể nêu ba thao tác chính: thao tác điều tiết<br />
cần phải ghi nhớ máy móc, ví dụ: s’opposer à, essayer (opérations de ponctuation de l‘échange), thao tác<br />
de, lutter contre. Nếu hai động từ có cùng giới từ và kích ngôn (opérations d‘incitation à la prise de parole)<br />
cùng bổ ngữ, khi đi liền nhau ta chỉ dùng giới từ một và thao tác cảnh báo (opérations de mise en garde).<br />
lần: On proteste et lutte contre cette invasion. Nhưng Trong các thao tác trên, việc dẫn dắt người học đi<br />
nếu mỗi động từ có một giới từ riêng thì cần dùng đầy vào nội dung bài, phát hiện kiến thức mới là rất quan<br />
đủ cả hai. Câu trên phải được chữa như sau: s’opposer trọng. Ngày nay việc dạy học không còn một chiều<br />
à la décision du maire et protester contre elle. theo cách thầy giảng trò nghe, mà là hướng dẫn<br />
người học tự khám phá kiến thức. Lời nói của giảng<br />
Vậy khi sử dụng DS, ta phải cân nhắc lựa chọn từ đúng<br />
viên phải đi theo hướng gợi mở, dẫn dắt như: Pour<br />
nghĩa và đúng cách dùng; khi giao tiếp trên lớp các<br />
comprendre l’idée principale du texte, basez-vous sur les<br />
sai sót có thể qua đi vì “lời nói gió bay”, nhưng trong<br />
mots en gras (để hiểu được ý chính của bài hãy dựa vào<br />
các văn bản viết (ví dụ, lời phê vào bài làm, nhận xét<br />
những từ in đậm); hoặc Vous êtes dans la bonne voie,<br />
công trình khoa học...) thì chúng tồn tại lâu dài trên<br />
continuez (các em đi đúng hướng rồi, tiếp tục đi).<br />
“giấy trắng mực đen” có khả năng ảnh hưởng đến<br />
việc tiếp thu kiến thức mới của người học, và uy tín Về chức năng đánh giá, như ta đã biết mọi giao tiếp<br />
của người dạy. Ngoài ra, cần tránh các tật ngôn ngữ trong lớp học đều được thực hiện qua tam giác sư<br />
(des tics de langage), tức việc dùng lạm dụng một từ phạm gồm ba yếu tố: giảng viên hỏi (Question), sinh<br />
nào đó.<br />
viên trả lời (Réponse), giảng viên kết thúc bằng việc<br />
đánh giá (Évaluation). Công việc đánh giá rất quan<br />
3.2. Chức năng tại lời (illocutoire)<br />
trọng vì nó kết thúc một đoạn giao tiếp và mở ra một<br />
Mọi thao tác tạo lời đều nhằm gây một tác động đoạn mới. Nó thường được tiến hành thông qua ba<br />
nào đó tới người nghe. Austin đã viết “quand dire, thao tác: đánh giá (opération évaluative), điều chỉnh<br />
c’est faire”, tức khi người ta nói không phải chỉ là để (opération corrective) và chuyển giai đoạn (ouverture<br />
nói mà là để làm một việc gì đó. Có thể nói đây là sur un nouvel échange). Trước hết người dạy phải thể<br />
tính mục đích của phát ngôn. DS của giáo viên trên hiện quan điểm của mình trước sản phẩm của người<br />
lớp phải hướng vào một mục đích sư phạm cụ thể. học (khen hoặc chê, đồng ý hay không đồng ý), sau<br />
Theo L. Dabène, người giáo viên trên lớp có ba chức đó phải đưa ra các điều chỉnh tùy theo mức độ chính<br />
năng chính: xác của sản phẩm, cuối cùng là thao tác chuyển sang<br />
một giai đoạn giao tiếp mới.<br />
Cung cấp thông tin cho người học (informateur);<br />
Tổ chức các hoạt động sư phạm (meneur de jeu); Điều cần lưu ý ở đây là dù chất lượng sản phẩm do<br />
Đánh giá (évaluateur) (Dabène L., 1984). người học đưa ra như thế nào, việc đánh giá phải đi<br />
Ba chức năng này tạo ra cấu trúc giao tiếp trong lớp theo hướng tích cực. Phải coi những lỗi của người học<br />
học ngoại ngữ và được thực hiện thông qua một loạt là điều tất yếu, là thành tố tự nhiên của quá trình học<br />
các hoạt động siêu ngôn ngữ thể hiện qua DS. tập. Lời nói của người dạy chủ yếu phải mang tính<br />
chất khen ngợi, động viên. Những câu như sau cần<br />
Chức năng thông tin, liên quan đến việc truyền tải được thường xuyên sử dụng:<br />
kiến thức, bao gồm kiến thức về ngôn ngữ (ngữ âm,<br />
từ vựng, ngữ pháp) và kiến thức về văn hóa. Ngày Une excellente idée (Một ý tưởng tuyệt vời).<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
14 Số 3 - 9/2016<br />
PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY v<br />
<br />
<br />
<br />
Vous avez raison (Em hoàn toàn có lý). -: …. Tu n’as pas fait -: …. Em đã không làm bài<br />
l’exercice à la maison? tập ở nhà?<br />
Vous avez très bien compris, n’hésitez pas (Em đã hiểu<br />
rất đúng, đừng ngần ngại). Sinh viên: Non. Sinh viên: Không ạ.<br />
3.3. Chức năng bởi lời (perlocutoire) -: Pourquoi non? -: Tại sao lại không?<br />
Chức năng bởi lời là chức năng tạo ra hiệu quả ở Sinh viên: /…/ Sinh viên: /…/<br />
người nghe. Khi phát ra một phát ngôn, người nói<br />
luôn mong tạo ra ở người nghe một hiệu quả nào đó -: Pourquoi non? -: Tại sao lại không? <br />
sau khi nghe lời nói của mình. Chức năng bởi lời ở đây<br />
khác với chức năng tại lời ở trên. Khi nói Maintenant, Sinh viên: Sinh viên: <br />
nous allons commencer la séance, ouvrez le livre à la<br />
page X (Bây giờ chúng ta bắt đầu bài học, mở sách ra -: Parce que -: Bởi vì<br />
ở trang X), người dạy đã thực hiện một hành động tại<br />
lời. Đó là thông báo với lớp là buổi làm việc đã bắt Sinh viên: Sinh viên: <br />
đầu và yêu cầu người học mở sách ra ở trang X. Còn<br />
chức năng bởi lời là hiệu quả mà người học có được -: En vietnamien / -: Hãy nói bằng tiếng Việt<br />
sau khi nghe câu đó. Có thể là vui mừng phấn khởi pourquoi tu n’as pas fait / Tại sao em đã không làm<br />
được bắt đầu một bài học mới, điều này có thể là do l’exercice à la maison? bài tập ở nhà?<br />
cách nói mạch lạc rõ ràng cộng với một vẻ mặt tươi<br />
Sinh viên: Sinh viên: <br />
vui của giáo viên; cũng có thể là buồn chán vì lại phải<br />
làm việc với một giáo viên mà họ không thích, lý do<br />
-: Tu peux parler plus -: Em có thể nói to thêm<br />
không thích là do phương pháp phi sư phạm cộng với<br />
fort? được không?<br />
một thái độ quá nghiêm khắc thể hiện qua DS.<br />
Sinh viên: Hôm Sinh viên: Hôm qua<br />
Các hiệu quả do chức năng bởi lời tạo ra tác động<br />
qua em có việc. em có việc.<br />
đến người nghe hết sức khác nhau, không có tính<br />
quy ước (Đỗ Thị Kim Liên, 2014). Chúng phụ thuộc - Hôm qua em có việc // - Hôm qua em có việc //<br />
vào ý đồ và thái độ của người nói và trạng thái tâm La prochaine fois, il faut La prochaine fois, il faut<br />
lý của người nghe. Trong bối cảnh của tình hình faire attention Bởi vì faire attention Bởi vì bạn<br />
giảng dạy tiếng Pháp ở Việt Nam hiện nay (không bạn đã không phải là đã không phải là giỏi rồi<br />
còn được mở rộng như thời kỳ tổ chức Hội nghị cấp giỏi rồi / đúng không / đúng không / cho nên<br />
cao các nước nói tiếng Pháp năm 1997), người dạy / cho nên mình phải mình phải làm bài ở nhà<br />
cần tạo ra ở người học hai hiệu quả chính: hứng thú làm bài ở nhà nếu mình nếu mình muốn hiểu cô /<br />
đối với bộ môn tiếng Pháp và khả năng tự chủ trong muốn hiểu cô / ça va? ça va? <br />
học tập. Phương pháp sư phạm thể hiện qua DS phải<br />
góp phần vào việc hình thành hai “hiệu quả” này. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc không làm bài<br />
tập, cũng có thể do khách quan hoặc chủ quan.<br />
Hứng thú trong học tập có thể được tạo ra bằng<br />
Trong trường hợp này, trước hết người giảng viên<br />
nhiều cách: vị thế của môn học trong xã hội, nội<br />
phải có thái độ thông cảm, tìm cách giúp sinh viên<br />
dung sách giáo khoa, môi trường giảng dạy, phương<br />
pháp sư phạm, v.v. Ba yếu tố đầu nhìn chung vượt ra hòa nhập vào bài mới. Điều toát lên từ đoạn “tra hỏi”<br />
khỏi quyền quyết định của người dạy, chỉ có yếu tố trên là một sự quở trách với ý đồ làm mất thể diện<br />
thứ tư là nằm trong tầm kiểm soát của họ. Người dạy của sinh viên trước lớp. Khi sinh viên không thể đưa<br />
hoàn toàn có khả năng điều chỉnh phương pháp sư ra một lời giải thích có giá trị, giảng viên yêu cầu<br />
phạm thông qua DS của mình để nâng cao hứng thú “Em có thể nói to thêm được không?”, và cuối cùng<br />
của người học. Một cách ứng xử quá “cứng” như quở kết thúc bằng việc tuyên bố trước lớp “Bạn đã không<br />
trách người học khi không làm bài tập trong ví dụ phải là giỏi rồi / đúng không”. Tất cả những việc đó<br />
sau cần tránh. không thuộc DS của giáo học pháp mới, cần loại bỏ.<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
Số 3 - 9/2016 15<br />
v PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY<br />
<br />
<br />
4. KẾT LUẬN 3. Cuq J.-P. (Dir) (2003), Dictionnaire de didactique du<br />
français, Paris, CLE International.<br />
Hình thành khả năng tự chủ của người học là một<br />
trong những mục tiêu chính của giáo dục hiện đại. 4. Dabène L. (1984), “Communication et<br />
Công việc của người dạy là giảng dạy, và công việc của métacommunication dans la classe de langue<br />
người học là học tập. Người dạy không thể học thay<br />
étrangère” in INTERACTIONS les échanges langagiers en<br />
vị trí của người học. Mục đích của người dạy là giúp<br />
classe de langue, ouv. coll. de l’Université des Langues<br />
người học có được năng lực tự học. Cần cung cấp cho<br />
người học các công cụ cho phép họ trở thành người et Lettres de Grenoble, Grenoble.<br />
học chủ động, biết cách tự phát triển các kỹ năng nhận<br />
thức, nói cách khác là biết học cách học. Một sinh viên 5. Desirat C., Horde T., “Formation des discours<br />
được đào tạo tốt là người biết cách học. Người dạy cần pédagogiques”, Langages, n° 45.<br />
có những chiến lược phù hợp để phát huy năng lực tự<br />
học của người học. DS phải được thai nghén và hiển 6. Kramsch C. (1984/1996), Interaction et discours en<br />
ngôn phục vụ cho mục đích trên. Nếu như trước kia classe de langue, Hatier/Didier.<br />
người ta chỉ chú trọng chức năng thông tin của giảng<br />
viên, ngày nay chức năng tổ chức các hoạt động sư 7. Lepers J. (2011), Les fautes de français? Plus jamais!<br />
phạm rất được đề cao. Hy vọng việc làm sáng tỏ chức Michel Lafon.<br />
năng của DS sẽ có ích cho việc đổi mới phương pháp<br />
giảng dạy tiếng Pháp, đồng thời mở ra những hướng 8. Đỗ Thị Kim Liên (2014), Ngôn ngữ học đại cương,<br />
nghiên cứu mới về hoạt động của giảng viên trên lớp./. NXB Đại học Quốc gia.<br />
<br />
Tài liệu tham khảo: 9. Nguyễn Việt Quang (2004), Étude du discours<br />
pédagogique dans l’enseignement de la compréhension<br />
1. Austin, J.-L. (1962), How to do thing with words,<br />
écrite, Cas du Département de Langue et de Culture<br />
Cambridge (Mass) Havard University Press, p.5.<br />
Françaises de l’ULEI – UN de Hanoi. Thèse de doctorat,<br />
2. Burlinska W. (2012), Le discours pédagogique Université Nationale de Hanoi, (1977) .<br />
dans la formation initiale des enseignants de langues<br />
étrangères, thèse de doctorat, Uniwersytet Im. Adama 10. Đoàn Thiện Thuật (1997), Ngữ âm tiếng Việt, NXB<br />
Mickiewicza Wpoznaniu, Poznan. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.<br />
<br />
<br />
A FEW THOUGHTS ON PEDAGOGICAL DISCOURSE IN TEACHING FRENCH<br />
<br />
NGUYEN VIET QUANG<br />
<br />
Abstract: Basing on classroom observations, the author presents his perspectives on the teachers’<br />
use of classroom language. The article first reviews the formation of the term “pedagogical discourse”,<br />
and then covers different functions of this discourse type according to Austin’s speech act theory. In<br />
addition to theoretical presentation, the author also suggests his implications deriving from observing<br />
both Vietnamese and French teachers’ lessons. This aims to contribute to the reform of French language<br />
teaching in Vietnam.<br />
<br />
Keywords: didactic discourse, pedagogical discourse, speech act, teaching methodology<br />
<br />
Ngày nhận: 05/9/2016<br />
Ngày phản biện: 19/9/2016<br />
Ngày duyệt đăng: 20/9/2016<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰ<br />
16 Số 3 - 9/2016<br />