intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nâng cao năng lực thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đảm bảo cho phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

19
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề án "Nâng cao năng lực thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đảm bảo cho phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam" nhằm tiếp tục khuyến khích thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, theo hướng ngày càng nâng cao chất lượng, thông qua hoạt động đầu tư có tổ chức, chuyên nghiệp, giá trị đầu tư lớn và cam kết gắn bó lâu dài với thị trường chứng khoán Việt Nam từ đó nâng cao tính ổn định cho thị trường chứng khoán; quản lý vốn ổn định, bền vững tránh những tình huống bất ngờ hậu quả từ các biến động tiêu cực của vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nâng cao năng lực thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đảm bảo cho phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam

  1. NÂNG CAO NĂNG LỰC THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẢM BẢO CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Hoàng Văn Quỳnh* 1 Đi cùng với sự phát triển kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã chủ trương phát triển thị trường vốn là một kênh huy động vốn đầu tư quan trọng cho nền kinh tế. Tỷ trọng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài so với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam vẫn còn ở tỷ lệ thấp so với các nước khác trên thế giới và khu vực. Vì vậy, chính phủ rất quan tâm đến việc thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường vốn Việt Nam, coi đây là một trong những nguồn vốn đầu tư quan trọng và có vai trò kích thích sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.Do đó, việc ban hành Quyết định số 252/QĐ-TTg, Quyết định số 253/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam cũng đã được phê duyệt. Định hướng quan trọng của Đề án là: (i). Tiếp tục khuyến khích thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, theo hướng ngày càng nâng cao chất lượng, thông qua hoạt động đầu tư có tổ chức, chuyên nghiệp, giá trị đầu tư lớn và cam kết gắn bó lâu dài với thị trường chứng khoán Việt Nam từ đó nâng cao tính ổn định cho thị trường chứng khoán; (ii). Quản lý vốn ổn định, bền vững tránh những tình huống bất ngờ hậu quả từ các biến động tiêu cực của vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. 1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG NĂNG LỰC THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM Tăng cường thu hút và quản lý đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. Nhưng việc thực hiện thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vừa phải đảm bảo việc khuyến khích thu hút thêm vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, vừa phải đảm bảo sự hoạt động ổn định và phát triển bền vững của thị trường chứng khoán nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực mà dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài có thể gây ra. Công tác thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam thời gian qua đã đạt được một số kết quả sau: Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài đã được xây dựng và ban hành tương đối hoàn chỉnh, tạo hành lang pháp lý đầy đủ, ngày càng thông thoáng hơn, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển nhanh chóng của thị trường chứng khoán cũng như hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Sư ra đời của Luật chứng khoán năm 2006 và được bổ sung, sửa đổi năm 2010 đã làm cho tính chất pháp lý trong hoạt động chứng khoán được chuẩn hóa hơn. Với những quy định pháp lý rõ ràng, phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam và thông lệ quốc tế, đặc biệt là Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư năm 2014 được coi là những cải tổ quan trọng trọng khuyến khích, phát triển khu vực tư nhân và doanh nghiệp, do đó Việt Nam đang ngày càng thu hút được sự quan tâm và lựa chọn đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có cả hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Thứ hai, cơ chế chính sách về quản lý ngoại hối của Việt Nam đã và đang được hoàn thiện ngày càng thông thoáng, phù hợp với thông lệ quốc tế và với thực tế của sự phát triển hoạt động đầu tư gián tiếp nước * Học viện Tài chính.
  2. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 1119 ngoài vào Việt Nam. Lượng ngoại tệ lớn đổ vào thị trường Việt Nam cùng với số lượng nhà đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng vào Việt Nam để thực hiện đầu tư nếu không được quản lý chặt chẽ thì có thể xảy ra những tác động bất lợi lớn đối với nền kinh tế. Do cơ chế chính sách quản lý ngoại hối có một ý nghĩa hết sức quan trọng để thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cho nên trong thời gian qua, các văn bản pháp lý về quản lý ngoại hối của Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nhằm tạo khung pháp lý đồng bộ điều chỉnh các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế vào Việt Nam. Thứ ba, trong thực hiện thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường Việt Nam, các cơ quan quản lý nhà nước đã rất chú trọng đến việc tăng cường những lợi ích cho nhà đầu tư nước ngoài khi thực hiện đầu tư, giao dịch tại thị trường Việt Nam như: miễn thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại các công ty đại chúng Việt Nam từ 30% lên 49% đối với các công ty kinh doanh có điều kiện, không hạn chế tỷ lệ sở hữu nước ngoài đối với các công ty đại chúng không quy định điều kiện kinh doanh, được thành lập công ty quản lý quỹ 100% vốn nước ngoài trước thời hạn Việt Nam cam kết với WTO. Với việc tăng room cho nhà đầu tư nước ngoài, thị trường chứng khoán Việt Nam thật sự trở nên hấp dẫn và thu hút ngày càng đông đảo các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài. Điều này đã được minh chứng bằng sự gia tăng đột biến số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán và giá trị danh mục đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong những năm vừa qua, cụ thể như: số lượng tài khoản nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài năm 2013 là 15.794 tài khoản nhưng đến năm 2017 đạt tới 23.506 tài khoản. Giá trị danh mục đầu tư gián tiếp nước ngoài trên thị trường chứng khoán năm 2013 chỉ đạt 11,5 tỷ USD, nhưng đến cuối năm 2017 đạt tới 32,9 tỷ USD, mức cao nhất từ trước đến nay. Thứ tư, cơ chế chính sách thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ngày càng thông thoáng, tạo nhiều sự thuận lợi hơn cho nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài khi thực hiện đầu tư vào Việt Nam. Điều này được thể hiện ở việc điều chỉnh các quy định liên quan đến thời gian chuyển ngoại hối và lưu ký chứng khoán theo hướng thuận tiện hơn. Ngân hàng Nhà nước đã bãi bỏ quy định về nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn vào Việt Nam sau một năm mới được rút vốn ra. Bên cạnh đó, thành viên lưu ký chứng khoán cũng đã được mở rộng cho một số ngân hàng thương mại lớn trong nước và các công ty chứng khoán là thành viên lưu ký thay vì chỉ có ngân hàng lưu ký nước ngoài như trước đây để nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài có thể tham gia mở tài khoản lưu ký ở bất kỳ thành viên lưu ký nào. Những biện pháp thu hút và quản lý của các cơ quan quản lý Việt Nam trong thời gian qua đối với các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài cho thấy nhà đầu tư nước ngoài đang là đối tượng được chính phủ Việt Nam khuyến khích đầu tư vào thị trường chứng khoán nhằm huy động nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời tạo sự phát triển mạnh mẽ và bền vững cho thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian tới. Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ở Việt Nam cũng còn có những tồn tại hạn chế nhất định, cần phải khắc phục để nâng cao năng lực thu hút và quản lý có hiệu quả nguồn vốn này cho phát triển bền vững thị trường chứng khoán nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung. Một là, lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn hạn chế. Sau giai đoạn phục hồi năm 2012-2013, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài tiếp tục rút khỏi Việt Nam trong năm 2014-2015 dưới tác động của cuộc khủng hoảng giá dầu và sự biến động mạnh trên thị trường chứng khoán Trung Quốc. Nếu như năm 2013, nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào ròng Việt Nam đạt gần 1,4 tỷ USD thì đến năm 2014 chỉ còn vào ròng 100 triệu USD, thậm chí rút ròng hơn 60 triệu USD trong cả năm 2015. Bước sang năm 2016, mặc dù dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đã quay trở lại song
  3. 1120 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION vẫn ở mức thấp. Tính đến hết tháng 6/2016, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào ròng chỉ đạt 309 triệu USD. Năm 2017 nhờ vào sự phục hồi niềm tin của nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài và sự tăng trưởng tốt của thị trường chứng khoán Việt Nam, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào ròng đạt 1.770 triệu USD. Hai là, Các tiêu chí giám sát, quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, nhất là các tiêu chí giám sát về quá trình luân chuyển, vận động của dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trên thị trường chậm được xây dựng và hoàn thiện dẫn đến chưa đảm bảo năng lực giám sát sự vận động của dòng vốn, ứng phó với những biến động bất thường của dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, nhất là những biến động gây ra ảnh hưởng xấu đến thị trường, đến nền kinh tế. Ba là, Việt Nam chưa xây dựng được một chính sách đồng bộ trong thu hút, xử lý và quản lý một cách hiệu quả vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Đối với nguồn vốn FDI, Việt Nam đã có những chính sách cũng như biện pháp cụ thể nhằm tăng cường khả năng thu hút vốn cho nền kinh tế nói chung, các ngành kinh tế nói riêng. Tuy nhiên, đối với nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài thì những chính sách nhằm tăng cường khả năng thu hút của Việt Nam vẫn chưa được xây dựng chi tiết, cụ thể như đối với vốn FDI. Đặc biệt, sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của khu vực và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài càng không được ưu thích do tâm lý lo sợ những tác động tiêu cực của luồng vốn này đối với nền kinh tế trong nước. Do đó, các nhà hoạch định chính sách còn khá e ngại trước dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua. Trên thực tế, cần có những phân tích, đánh giá đúng vai trò và ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực của nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, từ đó xây dựng chính sách thu hút, sử dụng và quản lý có hiệu quả nguồn vốn này, đóng góp tích cực vào sự phát triển của thị trường chứng khoán và nền kinh tế. Bốn là, Việt Nam cũng chưa có định hướng rõ ràng trong việc thu hút và kiểm soát luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Đây là một điều mà các quỹ đầu tư nước ngoài cũng như các nhà đầu tư cá nhân nước ngoài đều băn khoăn và rất quan tâm. Định hướng không rõ ràng đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài không những ảnh hưởng đến công tác quản lý, thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường Việt Nam, cũng như sự vận hành của luồng vốn này tại thị trường Việt Nam mà còn gây tâm lý không ổn định cho nhà đầu tư nước ngoài và vô hình dung ảnh hưởng tới cả mục tiêu đầu tư, thời gian đầu tư của nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Năm là, sự thiếu đồng bộ về mặt pháp luật. Luật đầu tư đã được ban hành năm 2014 thay thế cho Luật đầu tư năm 2005, nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành vẫn chưa đầy đủ. Bên cạnh đó, trong Luật đầu tư năm 2014 cũng đã đề cập đến hoạt động đầu tư góp vốn, mua cổ phần, nhưng văn bản hướng dẫn thi hành thì lại chủ yếu tập trung vào hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Mặt khác, sự thiếu đồng bộ về mặt luật pháp trong điều chỉnh hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài còn thể hiện ở chỗ nội dung công tác quản lý nhà nước đối với vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài được quy định rải rác trong nhiều văn bản do các cơ quan khác nhau ban hành, gây khó khăn cho việc nghiên cứu, theo dõi và thực thi. Văn bản quy định về hoạt động ngoại hối đối với mua bán chứng khoán của nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài do ngân hàng Nhà nước ban hành; văn bản quy định về tỷ lệ tham gia giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán do Bộ Tài chính ban hành, các hình thức đầu tư nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam lại được quy định trong Luật đầu tư,v.v. Do vậy, việc đối chiếu hiệu lực của các văn bản pháp quy cũng gặp nhiều khó khăn do thời gian ban hành và có hiệu lực cũng rất khác nhau. Sáu là, công tác điều hành chính sách vĩ mô và phản ứng chính sách đối với dòng lưu chuyển vốn đầu tư nước ngoài còn nhiều bất cập. Có thể nói, trong nhiều giai đoạn, ngân hàng nhà nước đã phải đảm bảo thực hiện đồng thời ba mục tiêu: Kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá và lãi suất, trong khi nền kinh tế và thị
  4. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 1121 trường tài chính đã hội nhập quốc tế sâu rộng. Vì quá ưu tiên cho mục tiêu tăng trưởng nên chúng ta đã tìm cách thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lúc lại vẫn muốn duy trì chính sách tiền tệ độc lập cùng với cơ chế tỷ giá khá cứng đã làm cho tham vọng cùng một lúc đạt được cả 3 mục tiêu vốn được xem là “bất khả thi”. Hậu quả của chính sách này đã khiến Việt Nam đối mặt với nhiều bất ổn vĩ mô như đã xảy ra trong năm 2010 và đầu năm 2011 trong lúc chính sách tiền tệ vốn đã kém độc lập lại trở nên càng kém độc lập hơn vì phần lớn phải rơi vào trạng thái bị đọng, đồng thời buộc phải điều chỉnh mạnh tỷ giá càng khiến cho bất ổn vĩ mô gia tăng. Bảy là, công tác giới thiệu thông tin đầu tư về Việt Nam và thị trường chứng khoán Việt Nam đến các nhà đầu tư nước ngoài còn nhiều hạn chế. Hiện nay, nhà đầu tư nước ngoài chỉ có thể tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam bằng cách tiếp cận trực tiếp với các sản phẩm tài chính, chứng khoán phát hành trên lãnh thổ Việt Nam, còn khả năng tiếp cận các nguồn thông tin về thị trường chứng khoán Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài còn rất hạn chế. Nói cách khác, nguồn công bố thông tin chính thức về thị trường chứng khoán Việt Nam ra các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn rất thiếu, đòi hỏi phải được đầu tư nhiều hơn cho hoạt động quảng bá thị trường chứng khoán Việt Nam ra thế giới trong thời gian tới. Tám là, khả năng dự đoán và thống kê của các cơ quan quản lý nhà nước về số vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua vẫn còn hạn chế: Khi thị trường chứng khoán phát triển, luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam ngày càng nhiều, kèm theo đó có cả những tác động tiêu cực như lượng ngoại tệ tăng nhanh, ngân hàng Nhà nước phải chi tiền để mua ngoại tệ dẫn đến lạm phát tăng... thì yêu cầu thống kê và đưa ra con số chính xác lượng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đã vào Việt Nam lại càng trở nên cấp thiết. Nếu đưa ra con số thống kê chính xác thì các cơ quan quản lý mới có thể đưa ra những biện pháp điều chỉnh phù hợp và kịp thời. Tuy nhiên, các con số thống kê về tổng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam thời gian qua được công bố bởi các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức quốc tế hay các quỹ đầu tư nước ngoài lại không giống nhau. Những con số về tổng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam được công bố những năm gần đây như năm 2013 khoảng 11,5 tỷ USD; năm 2014 là 11,97 tỷ USD; năm 2015 là 15,15 tỷ USD; năm 2016 là 17,2 tỷ USD và năm 2017 là 32,9 tỷ USD đây cũng chỉ là những con số ước đoán về giá trị danh mục đầu tư và không ai có thể cam đoan đây là con số chính xác. Chín là, hệ thống công nghệ thông tin, nhân sự phục vụ cho công tác thu hút và quản lý giám sát dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài tại các cơ quan quản lý nhà nước còn hạn chế. Hệ thống công nghệ thông tin chuyên biệt thu thập dữ liệu về sự vận động của dòng vốn gián tiếp nước ngoài chưa có, khiến cho cơ sở dữ liệu về dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài là không đầy đủ, không chính xác và không kịp thời. Năng lực, trình độ, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ trong các cơ quan quản lý nhà nước vẫn còn hạn chế, thể hiển ở việc hoạch định các chính sách điều tiết sự phát triển của thị trường chưa hợp lý, thường mang tính chất chạy theo sự biến động của thị trường hoặc vẫn còn những sai sót trong quá trình làm việc. Tất cả những vấn đề này ảnh hưởng rất lớn đến công tác hoạch định các chính sách trong thu hút, quản lý và phản ứng trước những biến động bất thường của dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ở Việt Nam hiện nay. 2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC THU HÚT VÀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ GIÁN TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐẢM BẢO CHO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Để nâng cao năng lực thu hút và quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đảm bảo cho phát triển bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam, cần thực hiện tốt các giải pháp sau Thứ nhất, cần nhanh chóngban hành đầy đủ và đồng bộ các văn bản hướng dẫn các luật liên quan đến đầu tư gián tiếp và thu hút, quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài.
  5. 1122 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION Việc ban hành các văn bản pháp lý và cơ chế chính sách về thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, trước hết là thể chế quản lý và thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài liên quan đến thị trường chứng khoán nói chung và đến nhà đầu tư nước ngoài nói riêng, phải đáp ứng yêu cầu hội nhập và được chuẩn hóa với một môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư cũng như chủ thể liên quan. Đồng thời, thiết lập các quy định về quản lý ngoại hối; quy định về nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào và ra trong những tình huống đặc biệt... Cần khẩn trương xây dựng hệ thống khung pháp lý đầy đủ cho thị trường chứng khoán phái sinh cùng với sớm xây dựng và ban hành Luật chứng khoán mới để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống văn bản pháp luật. Mặt khác, cần xây dựng một cách cụ thể cơ chế quản lý, giám sát vốn đầu tư gián tiếp để đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh và sự an toàn của thị trường tài chính nói chung, thị trường chứng khoán nói riêng. Việt Nam cần phát triển hệ thống cảnh báo sớm và chủ động xây dựng các phương án đối phó thích hợp nhằm giám sát, phòng ngừa hiệu quả các nguy cơ biến động tiêu cực của thị trường chứng khoán do đầu cơ, độc quyền, lũng đoạn, thiếu thông tin về thị trường. Thứ hai,xây dựng và ban hành cơ chế chính sách thu hút và quản lý nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Thực tế ngày càng cho thấy sự cần thiết phải sớm xây dựng và ban hành đầy đủ, đồng bộ các cơ chế chính sách thu hút và quản lý thống nhất nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường Việt Nam đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài là một vấn đề lớn, nếu chúng ta không quản lý được các tài khoản vốn và dòng tiền đầu tư gián tiếp một cách đồng bộ, linh hoạt thì có biến cố xảy ra thị trường tài chính sẽ rất nguy hiểm. Một số nội dung cần thiết trong cơ chế chính sách thu hút và quản lý nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài của Việt Nam như sau: - Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ phát triển thị trường chứng khoán như: Chính sách thu hút nhà đầu tư nước ngoài; chính sách về công bố thông tin; chính sách về thuế, phí, lệ phí trên thị trường chứng khoán; chính sách về giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán...; Quy định đối tượng tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam, như: ban hành quy định tiêu chuẩn tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài, chú trọng những nhà đầu tư có kinh nghiệm sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư Việt Nam có cơ hội học tập kinh nghiệm đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài; Quy định mức vốn nhất định khi tham gia vào thị trường của nhà đầu tư nước ngoài; Quy định thời gian rút vốn của nhà đầu tư nước ngoài ra khỏi thị trường chứng khoán Việt Nam; Quy định các hình thức khuyến khích về thuế đối với nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đầu tư dài hạn vào thị trường chứng khoán Việt Nam và có những biện pháp phù hợp nhằm hạn chế những nguồn vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán mang tính chất ngắn hạn để đảm bảo sự ổn định trong phát triển thị trường chứng khoán; Quy định các tiêu chuẩn xem xét khi cấp phép hoạt động cho các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; Xây dựng các biện pháp phòng ngừa cần thiết trong trường hợp nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đảo chiều trên cơ sở cảnh báo trước nguy cơ cũng như là các biện pháp xử lý trong trường hợp xấu nhất xảy ra; Đảm bảo sự công bằng khi xây dựng các quy định điều chỉnh đối với nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Thứ ba,thúc đẩy quá trình nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ thị trường “cận biên” sang thị trường “mới nổi” Nâng hạng thị trường không chỉ là cách xây dựng hình ảnh cho thị trường tài chính quốc gia mà nó còn tác động trực tiếp lên khả năng thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Không chỉ riêng Việt Nam
  6. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 1123 mà nhiều thị trường cận biên khác cũng đang nổ lực để được nâng hạng lên thị trường mới nổi, bởi lợi ích đầu tiên khi Việt Nam được xếp vào nhóm thị trường mới nổi sẽ thu hút thêm dòng vốn từ các nhà đầu tư tổ chức nước ngoài. Việc nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ thị trường cận biên sang thị trường mới nổi cần tập trung vào các giải pháp nhằm giúp nhà đầu tư nước ngoài dễ tiếp cận thị trường chứng khoán Việt Nam và có thể bao gồm các giải pháp chủ yếu sau: (i)Mở cửa thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài theo hướng: Giải quyết các vướng mắc về tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài, nhất là đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện mà pháp luật chuyên ngành không quy định cụ thể về tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài; Cho phép nâng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài lên đến 100% tại hầu hết các công ty đại chúng; Đối xử với các công ty đại chúng và các quỹ đầu tư đại chúng như nhà đầu tư trong nước;Cần cho phép tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài đối với lĩnh vực ngân hàng; (ii)Đảm bảo hơn nữa quyền bình đẳng cho nhà đầu tư nước ngoài trong tiếp cận thông tin; (iii)Nâng cao chất lượng quản trị công ty niêm yết, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài đánh giá doanh nghiệp Việt Nam; (iv)Thực hiện tái cấu trúc hệ thống tổ chức thị trường giao dịch thông qua việc hợp nhất hai Sở giao dịch chứng khoán hiện nay là HOSE và HNX thành một Sở giao dịch chứng khoán nhằm nâng cao khả năng thanh khoản, quy mô thị trường, năng lực hạ tầng công nghệ, tiết giảm chi phí; (v)Tăng cường quảng bá, nâng cao hình ảnh về thị trường chứng khoán Việt Nam. Thứ tư,nâng cao tính công khai, minh bạch thông tin của thị trường chứng khoán Thông tin về chứng khoán và thị trường chứng khoán là cơ sở cho hoạt động của thị trường chứng khoán, là yếu tố để các nhà đầu tư định giá mua bán chứng khoán. Đã đến lúc phải pháp luật hóa một cách đầy đủ hơn về việc báo cáo thông tin, công bố thông tin của thị trường chứng khoán, cụ thể là:Ban hành khung pháp lý đầy đủ về nghĩa vụ báo cáo, công bố thông tin một cách công khai đối với các công ty đại chúng, công ty niêm yết theo đúng thông lệ và chuẩn mực quốc tế; Hoàn thiện phương thức và cơ chế công bố thông tin theo quy mô (vốn và số lượng cổ đông) của công ty mà không phân biệt là công ty đại chúng niêm yết hay chưa niêm yết;Thúc đẩy việc thực hiện nghĩa vụ báo cáo, công bố thông tin định kỳ, bất thường và theo yêu cầu đối với các công ty niêm yết, đăng ký giao dịch và công ty đại chúng chưa niêm yết/ đăng ký giao dịch để công việc báo cáo, công bố thông tin đi vào nề nếp, tuân thủ theo quy định của pháp luật;Từng bước áp dụng các chuẩn mực quốc tế về nghiệp vụ kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính nhằm cải thiện chất lượng các báo cáo tài chính, đảm bảo thông tin công bố là tin cậy, đầy đủ, chính xác và kịp thời, đặc biệt là các thông tin về các vấn đề tài chính trọng yếu của công ty;Tăng cường giám sát, kiểm soát chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính của công ty niêm yết, đăng ký giao dịch và công ty đại chúng chưa niêm yết/ đăng ký giao dịch, qua đó nâng cao tính minh bạch và chất lượng thông tin của báo cáo tài chính công bố trên thị trường chứng khoán, đặc biệt tập trung đối với các công ty chưa tuân thủ nghĩa vụ báo cáo, công bố thông tin theo quy định, các công ty có hoạt động kinh doanh khó khăn, thua lỗ kéo dài, âm vốn chủ sở hữu, số liệu tài chính có sai lệch lớn...; Nâng cao tính minh bạch, công bằng của thị trường trong việc tiếp cận thông tin công bố theo hướng: đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng hệ thống công bố thông tin điện tử (IDS) để cho các công ty đại chúng thực hiện việc báo cáo và công bố thông tin bằng văn bản điện tử, thay thế cho việc báo cáo bằng văn bản giấy để hỗ trợ các công ty đại chúng thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin được thuận tiện, đầy đủ, kịp thời. Bên cạnh đó, cũng cần có cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của thị trường, ngăn ngừa các hiện tượng giao dịch nội gián gây thiệt hại cho nhà đầu tư. Xử lý nghiêm các vi phạm về quy định công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.
  7. 1124 PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION Thứ năm, nâng cao năng lực và tính chuyên nghiệp cho hệ thống các tổ chức trung gian thị trường - Thực hiện rà soát, đánh giá về năng lực cung ứng dịch vụ, khả năng quản trị, đảm bảo an toàn trong hoạt động của các tổ chức trung gian thị trường; phân loại các tổ chức trung gian thị trường theo các nhóm khác nhau để từ đó có các biện pháp hỗ trợ, điều chỉnh cần thiết đối với từng nhóm tổ chức trung thị trường. - Tiếp tục rà soát để có các điều chỉnh, bổ sung cần thiết về chính sách nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức trung gian thị trường hoạt động linh hoạt; khuyến khích các tổ chức trung gian thị trường đưa ra nhiều sản phẩm dịch vụ chứng khoán như quỹ cổ phiếu, quỹ trái phiếu, quỹ cân bằng, quỹ đầu tư đa mục tiêu kết nối thị trường bảo hiểm, thị trường trái phiếu, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản với thị trường chứng khoán... - Nâng cao chất lượng hoạt động, năng lực tài chính, quản trị công ty và khả năng kiểm soát rủi ro của các tổ chức trung gian thị trường. - Nâng cao chất lượng và đạo đức nghề nghiệp nhân viên hành nghề kinh doanh chứng khoán thông qua việc chuẩn hóa các chương trình đào tạo, đồng thời xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu để thực hiện công khai danh sách người hành nghề chứng khoán trên cổng thông tin điện tử của Ủy ban chứng khoán Nhà nước. - Tăng cường công tác kiểm tra và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm nhằm kiểm soát rủi ro hoạt động, tăng cường sự minh bạch, hiệu quả hoạt động các tổ chức trung gian thị trường. Thứ sáu, tăng cung hàng hóa cho thị trường và cải thiện chất lượng nguồn cung (i) Cần tiếp tục quyết liệt trong công tác cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; giảm dần tỷ lệ nắm giữ cổ phần của Nhà nước trong các doanh nghiệp không cần thiết phải có sự tham gia của Nhà nước; (ii) Đẩy mạnh hoạt động giao dịch các chứng khoán phái sinh, trước mắt là các hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu, hợp đồng tương lai trái phiếu Chính phủ và tiến tới đưa vào giao dịch quyền chọn chỉ số, quỹ chỉ số; (iii) Tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp như trái phiếu được bảo đảm bằng tài sản, được bảo đảm thanh toán, trái phiếu chuyển đổi,…; (iv) Nâng cao chất lượng nguồn cung hàng hóa cho thị trường. Trước mắt, cần nâng tiêu chí phát hành và niêm yết chứng khoán.Về lâu dài, chất lượng chứng khoán được phát hành và niêm yết trên thị trường chứng khoán được quyết định bởi chính hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chứ không phải bởi giá cả chứng khoán trên thị trường. Thứ bảy,thực hiện tốt công tác dự báo nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường Việt Nam trong từng giai đoạn Nếu như số liệu về vốn FDI vào Việt Nam đã thống kê khá chính xác, thì số liệu về vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam lại có sự khác nhau giữa các cơ quan quản lý nhà nước cũng như giữa các cơ quan quản lý của Việt Nam với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. Thực tế đã cho thấy rằng khả năng dự đoán, dự báo các số liệu kinh tế vĩ mô của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, điều này phần nào cản trở đến công tác quản lý nhà nước trong việc đề ra các biện pháp thu hút và quản lý vốn đầu tư nước ngoài phù hợp. Trong thời gian tới, để thực hiện tốt công tác dự đoán, dự báo nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào ra trong từng giai đoạn phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, có thể chú trọng các biện pháp sau:Nghiên cứu, xây dựng và quy định chế độ, văn bản báo cáo thống nhất, phù hợp với công việc quản lý chuyên môn cũng như phù hợp với việc tổng hợp số liệu phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô; Quy định cụ
  8. PROCEEDINGS OF THE SUSTAINABLE ECONOMIC DEVELOPMENT AND BUSINESS MANAGEMENT IN THE CONTEXT OF GLOBALISATION 1125 thể các đối tượng có nhiệm vụ báo cáo tình hình vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài: Số vốn thực có, tình hình sử dụng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài; trên cơ sở đó có thể dự đoán, dự báo được xu hướng hoạt động của nguồn vốn này trong thời gian tới; Quy định thời hạn và đối tượng cần nộp báo cáo định kỳ về vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt Nam; Nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác dự đoán, dự báo số liệu về vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào ra tại Việt Nam. Thứ tám, tăng cường hiệu quả kiểm tra và giám sát vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài Năng lực quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ở Việt Nam còn những tồn tại về khả năng kết nối giữa các cơ quan quản lý và giám sát hoạt động đầu tư, quá trình luân chuyển vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài; thiếu những tiêu chí phù hợp và khả thi trong kiểm soát, giám sát quá trình luân chuyển vốn đầu tư trên thị trường, cảnh báo những rủi ro có thể phát sinh khi có các biến động lớn của dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cả theo chiều gia tăng, bổ sung cho thị trường cũng như rút lui, thoái vốn khỏi thị trường thậm chí là rút ra khỏi nền kinh tế.Do vậy, cần thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm kiểm soát quá trình luân chuyển vốn trên thị trường, luân chuyển vốn vào - ra thị trường cũng như nền kinh tế: Một là, quá trình quản lý dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài cần được thực hiện trên vị thế chủ động, hướng đến dòng vốn vào - ra thị trường, nền kinh tế ở trạng thái có thể dự báo. Hai là, cần xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đồng bộ, hiệu quả để giám sát quá trình vận động, luân chuyển của dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trên thị trường chứng khoán. Ba là, tăng cường nâng cao hiệu quả giám sát thị trường tài chính nói chung, tạo nền tảng vững chắc để kiểm soát và giám sát vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Theo đó, cần tập trung thực hiện một số biện pháp:tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của thị trường tài chính;hoàn thiện mô hình giám sát theo hướng chuyển dần từ mô hình giám sát chuyên ngành sang mô hình kết hợp giữa giám sát theo chuyên ngành và giám sát hợp nhất;hoàn thiện và tăng cường ứng dụng các công cụ xác định rủi ro hệ thống đối với thị trường tài chính và rủi ro an toàn vĩ mô, các chỉ tiêu đánh giá an toàn hệ thống tài chính phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường tài chính Việt Nam và thông lệ quốc tế; tăng cường đầu tư, hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, phát triển hệ thống công nghệ thông tin đảm bảo đủ mạnh để hỗ trợ toàn diện hoạt động giám sát, đặc biệt là phần mềm giám sát phân tích số liệu, đánh giá hoạt động của các định chế tài chính phục vụ cho việc cảnh báo sớm của các cơ quan giám sát; xây dựng kho dữ liệu để các cơ quan giám sát khai thác chung nhằm đảm bảo thống nhất và không gây phiền hà cho các cơ quan chịu sự giám sát;tăng cường cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan giám sát nhằm nâng cao hiệu quả giám sát, tránh chồng chéo hoặc bỏ sót trong việc giám sát hoạt động tài chính ngân hàng. Bên cạnh những giải pháp trên, cũng cần thực hiện đồng bộ với việc: Cải thiện căn bản chất lượng bên cầu về chứng khoán; Tăng dự trữ ngoại hối của quốc gia; Tăng cường ứng dụng các công nghệ thông tin mới đối với thị trường chứng khoán nhằm đáp ứng cuộc cách mạng công nghệ 4.0; Thực hiện sự hợp tác và trao đổi kinh nghiệm với các quốc gia trong việc thu hút, giám sát sự di chuyển của luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2