intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nâng cao năng lực tự học cho sinh viên - Giải pháp thực hiện dạy thật, học thật trong giáo dục 4.0 ở nước ta hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

20
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Nâng cao năng lực tự học cho sinh viên - Giải pháp thực hiện dạy thật, học thật trong giáo dục 4.0 ở nước ta hiện nay" đưa ra một số biện pháp nhằm làm gia tăng, phát triển, thúc đẩy khả năng tự học của sinh viên, làm cho họ tự giác, chủ động, độc lập, tự mình phát huy các phẩm chất, năng lực trí tuệ và hành động, sức mạnh trí tuệ và cơ bắp trong học tập để chiếm lĩnh tri thức của nhân loại, phát triển và hoàn thiện các năng lực, phẩm chất của cá nhân. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nâng cao năng lực tự học cho sinh viên - Giải pháp thực hiện dạy thật, học thật trong giáo dục 4.0 ở nước ta hiện nay

  1. NÂNG CAO NĂNG LỰC TỰ HỌC CHO SINH VIÊN - GIẢI PHÁP THỰC HIỆN DẠY THẬT, HỌC THẬT TRONG GIÁO DỤC 4.0 Ở NƯỚC TA HIỆN NAY TS. Nguyễn Thị Hiền Oanh1 Tóm tắt: Trong Cách mạng công nghiệp 4.0, bằng cấp không phải là vấn đề quan tâm hàng đầu. Con người sẽ được định giá trị bằng giá trị mà họ mang đến cho xã hội. Người học theo quan điểm truyền thống, với cách học thụ động dù được trang bị nhiều bằng cấp trong tay cũng nhanh chóng mất chỗ đứng vì không đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Bản chất cốt lõi của việc học tập đại học là học cách học, học cách nghiên cứu, tự học, tự nghiên cứu trở thành đặc trưng cơ bản và quyết định chất lượng, hiệu quả học tập của sinh viên. Từ khóa: Tự học, giảng viên, sinh viên, … 1. DẪN NHẬP Trong thời đại mà khoa học kĩ thuật phát triển nhanh chóng như hiện nay, nhà trường dù tốt đến mấy cũng không thể đáp ứng hết nhu cầu học tập của người học cũng như đòi hỏi ngày càng cao của đời sống xã hội. Vì vậy, bồi dưỡng năng lực tự học, là một công việc có vị trí cực kì quan trọng. Chỉ có tự học, tự bồi đắp tri thức bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau, người học mới có thể bù đắp được những thiếu khuyết về tri thức khoa học, về đời sống xã hội. Từ đó có được sự tự tin trong cuộc sống, trong công việc để hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của mình. 2. NỘI DUNG 2.1. Tự học, vai trò của tự học 2.1.1. Tự học “Tự học” là tự mình học lấy, không cần ai dạy (Từ điển tiếng Việt (1977). Theo Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học là học mà không có thầy hoặc có thầy nhưng không giáp mặt thầy trong phần lớn thời gian học” [Dẫn theo Lê Khánh Bằng (2005)]. - “Tự học là động não, suy nghĩ, sử dụng năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích,…) và có khi cả cơ bắp (khi sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của chính bản Trường Đại học Sài Gòn. *
  2. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 653 thân người học (tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học) cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình (Nguyễn Cảnh Toàn,1997). - “Tự học là hình thức hoạt động nhận thức của cá nhân nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính sinh viên tiến hành trên lớp, ở ngoài lớp theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa đã quy định. Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại học có tính độc lập cao và mang đậm nét sắc thái cá nhân như có quan hệ chặt chẽ với quá trình dạy học (Lưu Xuân Mới, 2000). Tự học là tìm tài liệu đọc, là hỏi han, lắng nghe và đào sâu suy nghĩ để giúp ta nắm vững vấn đề; tự học là tự làm việc với chính mình, cách học này còn có thể ứng dụng vào việc học tập văn hóa xã hội, học cách làm việc, học cách thông cảm, học cách ứng xử, giao tiếp, học cách phát biểu, diễn thuyết,… Tự học luôn đi cùng, gắn bó chặt chẽ với khái niệm tự thân. Tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng của mỗi cá nhân chỉ được hình thành bền vững và phát huy hiệu quả thông qua các hoạt động tự thân ấy. Để có được, đạt tới sự hoàn thiện thì người học phải tự thân tiếp nhận tri thức từ nhiều nguồn; Tự thân rèn luyện các kĩ năng; Tự thân bồi dưỡng tâm hồn của mình ở mọi nơi mọi lúc;… Tự học giúp suy nghĩ có được sự chăm chú, chuyên tâm, giúp năng lực suy nghĩ được rèn luyện trở nên mạnh mẽ và nhạy bén. Nhờ tự học ta sẽ từ bỏ hết mọi thói quen ỷ lại, suy nghĩ độc lập hơn, tự do hơn. Sự tự học giúp ta trở thành người nghiên cứu, có được sự tập trung suy nghĩ sâu sắc hơn và tự học cũng là điều kiện cần phải có để tư duy thăng hoa, giúp khai thác tối đa khả năng còn tiềm ẩn của mỗi người. 2.1.2. Vai trò của tự học đối với sinh viên Tự học, tự nghiên cứu là cốt lõi của học tập, nghiên cứu; là một mục tiêu quan trọng; là bản chất, động lực, nội lực, đồng thời là giải pháp then chốt quyết định chất lượng dạy học, nghiên cứu khoa học ở trường đại học, cao đẳng. Tự học đóng một vai trò rất quan trọng trên con đường học vấn của mỗi sinh viên, giúp sinh viên củng cố, phát triển kiến thức, rèn luyện kỹ năng, bồi dưỡng thái độ học tập, rèn luyện thói quen tích cực, chủ động trong học tập của sinh viên; là con đường cơ bản giúp sinh viên đáp ứng nhu cầu đòi hỏi học tập trong xã hội hiện đại. Tự học là hoạt động cơ bản ở bậc đại học, có quan hệ chặt chẽ với hoạt động dạy. Trong quá trình dạy - học, hoạt động học có tính độc lập cao và mang đậm sắc thái cá nhân. Trong quá trình tự học, người học phát huy cao vai trò chủ thể nhận thức của bản thân. Đó là quá trình người học chủ động, tích cực vận động, từng bước biến tri thức,
  3. 654 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP kinh nghiệm của loài người thành vốn tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của bản thân. Song điều đó không có nghĩa là không cần hay xem nhẹ vai trò của người dạy. Tự học với tư cách là một hoạt động của quá trình dạy - học, để đạt được kết quả tốt trong tự học cũng như để có phương pháp tự học đúng đắn, khoa học thì vai trò hướng dẫn, định hướng của người thầy - người dạy tự học là vô cùng quan trọng. Nó không chỉ tạo điều kiện cho sinh viên có thể chiếm lĩnh được lượng tri thức lớn, đặc thù của những môn khoa học ấy mà hơn thế, nó hình thành phương pháp, thói quen học tập cơ bản và quan trọng nhất ở bậc học này, giúp sinh viên không chỉ có được kết quả cao trong quá trình học tập mà còn có được những kỹ năng cần thiết cho cuộc sống và nghề nghiệp tương lai của mình. Trong vấn đề giáo dục nói chung và việc học nói riêng thì tự học có một vai trò hết sức quan trọng. Tự học giúp người học hiểu sâu, mở rộng, củng cố và ghi nhớ bài học một cách vững chắc nhờ vào khả năng tự phân tích, tổng hợp tài liệu, từ đó có khả năng vận dụng các tri thức đã học vào việc giải quyết những nhiệm vụ học tập mới. Đồng thời, tự học giúp người học hình thành được tính tích cực, độc lập tự giác trong học tập cũng như nề nếp làm việc khoa học. Từ đó quyết định sự phát triển các phẩm chất nhân cách và chất lượng học tập của sinh viên. Do phương pháp học tập ở đại học khác cơ bản so với phương pháp học ở phổ thông, ở đại học không có sự kiểm tra hàng ngày của giảng viên nên việc học tập của sinh viên phần lớn là tự học. Đó là hoạt động diễn ra liên tục, trong một phạm vi lớn nhằm lĩnh hội rất nhiều tri thức. Có thể nói: Bản chất của công việc tự học của sinh viên đại học là quá trình nhận thức một cách tự giác, tích cực, tự lực không có sự tham gia hướng dẫn trực tiếp của giáo viên nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ dạy học. Nói khác đi, việc tự học ngoài lớp học đóng vai trò trọng yếu ở đại học. Bên cạnh đó, tự học còn giữ vai trò lớn lao trong việc nâng cao khả năng hiểu biết và tiếp thu tri thức mới của sinh viên, nhiều nhà giáo dục nổi tiếng đã nêu lên sự cấp thiết phải khéo léo tổ chức việc tự học cho sinh viên. Tự học với sự nỗ lực, tư duy sáng tạo đã tạo điều kiện cho việc tìm hiểu tri thức một cách sâu sắc, hiểu rõ bản chất của chân lý. Trong quá trình tự học, sinh viên sẽ gặp nhiều vấn đề mới và việc đi tìm lời giải đáp cho những vấn đề ấy là cách tốt nhất để kích thích hoạt động trí tuệ cho sinh viên. Nếu thiếu đi sự nỗ lực tự học của bản thân sinh viên thì kết quả không thể cao cho dù có điều kiện ngoại cảnh thuận lợi đến mấy (thầy giỏi, tài liệu hay). Không chỉ có vậy, tự học còn có vai trò to lớn trong việc giáo dục, hình thành nhân cách cho sinh viên. Việc tự học rèn luyện cho sinh viên thói quen độc lập suy nghĩ, độc lập giải quyết vấn đề khó khăn trong nghề nghiệp, trong cuộc sống, giúp cho họ tự tin hơn trong việc lựa chọn cuộc sống cho mình. Hơn thế, tự học thúc đẩy sinh
  4. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 655 viên lòng ham học, ham hiểu biết, khát khao vươn tới những đỉnh cao của khoa học, sống có hoài bão, ước mơ. Qua đó có thể nói rằng tự học của sinh viên không chỉ là một nhân tố quan trọng trong lĩnh hội tri thức mà còn có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách sinh viên. Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường nghề nghiệp. Do đó, việc tự học của sinh viên không nên chỉ giới hạn trong các giờ học trên lớp, với sự hướng dẫn trực tiếp của giảng viên. Nếu rèn luyện cho sinh viên có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao (Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 2016). - Nâng cao năng lực tự học là làm gia tăng, phát triển, thúc đẩy khả năng tự học của sinh viên, làm cho họ tự giác, chủ động, độc lập, tự mình phát huy các phẩm chất, năng lực trí tuệ và hành động, sức mạnh trí tuệ và cơ bắp trong học tập để chiếm lĩnh tri thức của nhân loại, phát triển và hoàn thiện các năng lực, phẩm chất của cá nhân. Ngày nay, sự vận động của thế giới tri thức ngày càng mạnh mẽ, kiến thức mới liên tục ra đời. Giáo dục thời đại 4.0 đã mở rộng độ tuổi học tập qua khái niệm “Học tập suốt đời”. Jacques Delor, một nhà kinh tế và chính trị của Pháp, Chủ tịch thứ tám Ủy ban châu Âu đã từng viết: Quan niệm giáo dục suốt cả cuộc đời là một trong số các chìa khóa đi vào thế kỷ XXI. Quan niệm này vượt ra khỏi sự tách biệt truyền thống giữa giáo dục ban đầu và giáo dục thường xuyên, đáp ứng sự thách thức của một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. 2.2. Một số biện pháp nâng cao năng lực tự học của sinh viên thời 4.0 2.2.1. Dạy sinh viên tự học qua cách dạy, cách làm việc của giảng viên - Dạy cho sinh viên biết cách xây dựng kế hoạch học tập và tự quản lý việc học Trước hết, giảng viên cần có thông báo rõ ràng về tiến độ, chương trình, cách thức, yêu cầu của môn học. Từ đó, giúp sinh viên nhận thức đúng về vai trò, trách nhiệm của mình và họ phải tự chịu trách nhiệm về hành vi, kết quả học tập của bản thân. Thực tế dạy - học các môn lý luận chính trị thường vào ngay năm học đầu tiên của bậc học đại học cho nên hầu như sinh viên ít được chuẩn bị hoặc chưa có ý thức về việc xây dựng kế hoạch và quản lý việc học, họ rất lo lắng và không biết cách giải quyết. Vì vậy, giảng viên cần phải giúp họ, cố vấn cho họ. Việc giảng viên thông báo
  5. 656 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP về chương trình, kế hoạch, yêu cầu của môn học, nhấn mạnh những vấn đề cần lưu ý cũng chính là một định hướng cho sinh viên để trên cơ sở đó sinh viên có thể xây dựng một kế hoạch học tập môn học cho cá nhân cũng như quản lý quỹ thời gian của mình hợp lý hơn. Hơn nữa, giảng viên còn có thể giành một chút thời gian của buổi học đầu tiên để thảo luận với sinh viên về cách học các môn khoa học ở đại học như thế nào cho có hiệu quả. Sau đó yêu cầu sinh viên lập kế hoạch học tập cho cá nhân mình. Chú ý với sinh viên về việc xen kẽ các hình thức hoạt động một cách hợp lý trong từng giai đoạn cũng như trong suốt cả kế hoạch học tập để đảm bảo phát triển năng lực cũng như hứng thú trong học tập và nghiên cứu. Quá trình hướng dẫn sinh viên xây dựng kế hoạch học tập cũng như quản lý quỹ thời gian học tập của sinh viên còn mang ý nghĩa như một quá trình chuẩn bị tâm lý, ý thức học tập môn học cho sinh viên, xây dựng động cơ, thái độ học tập đúng đắn, tạo tâm thế chủ động của sinh viên với quá trình học tập, nghiên cứu khoa học. - Dạy cho sinh viên cách tìm, đọc và ghi chép tài liệu Việc lựa chọn đúng tài liệu là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng đối với việc học tập của người học, nhất là với việc tự học. Hiện nay, tài liệu của các môn khoa học ở đại học rất đa dạng, phong phú, nếu không có hướng dẫn cụ thể thì sinh viên sẽ rất lúng túng trong việc tìm kiếm, lựa chọn và sử dụng tài liệu. Giảng viên cần định hướng cho sinh viên lập các danh mục tài liệu dùng cho môn học, phân loại các tài liệu đó một cách cơ bản theo cấp độ quan trọng hoặc theo loại hình,… Có được hệ thống các tài liệu của môn học tức là sinh viên đã có được thứ vũ khí quan trọng nhất để có thể tự học. Tuy nhiên, hiệu quả của quá trình dạy tự học sẽ không được phát huy nếu chỉ dừng lại ở đây, mà vấn đề là giảng viên cần dạy cho sinh viên biết cách đọc tài liệu của môn học ấy như thế nào. Tri thức trong các môn khoa học ở đại học thường là các khái niệm, các nguyên lý, các phạm trù, các quy luật hoặc tính quy luật của tự nhiên, xã hội, tư duy. Do đó, giảng viên cần dạy sinh viên cách tự học thông qua việc đọc sách, chính là đặt ra những yêu cầu với sinh viên trong khi đọc sách cũng như nghiên cứu tài liệu là không chỉ đọc và suy nghĩ để hiểu những tri thức trong tài liệu đưa đến mà còn phải nâng lên một mức cao hơn là phải suy nghĩ những điều trong sách, đưa nó vào cuộc sống để kiểm tra và có thể qua đó có thể phát hiện ra những vấn đề mới. Bên cạnh đó, cần hướng dẫn sinh viên đọc thêm các tác phẩm kinh điển. Đây là một yêu cầu bắt buộc, đưa người học về với lý luận gốc để hiểu đúng, hiểu đủ về những vấn đề, những nguyên lý, quy luật, phạm trù của các môn học ấy, từ đó củng cố niềm tin khoa học của sinh viên. Giảng viên cần khuyến khích sinh viên khi đọc sách, nghiên cứu tài liệu, hay suy nghĩ thật kỹ những gì mình thấy thích nhất, cần thiết nhất và hãy đặt ra cho mình
  6. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 657 những vấn đề để rồi tìm cách giải quyết. Đây là bước cao nhất của quá trình sinh viên tự đọc và nghiên cứu tài liệu, cũng là biểu hiện rõ ràng khả năng tự học của sinh viên. - Dạy sinh viên cách nghiên cứu khoa học “Cách nghiên cứu” ở đây được xem như là một biện pháp mà giảng viên cần dạy cho sinh viên để chủ động tự học và bồi dưỡng phương pháp, năng lực sáng tạo của sinh viên. Thông thường, giảng viên đặt vấn đề hoặc hướng dẫn sinh viên đặt ra vấn đề để giải quyết với các yêu cầu thực hiện theo nhóm hoặc cá nhân, cách thức thực hiện là bài tập lớn hoặc bài thảo luận. Đối với dạy - học các môn khoa học ở đại học thì hoạt động này rất phù hợp và có ý nghĩa lớn, không những tạo điều kiện để khắc sâu tri thức cho sinh viên mà còn phát triển quan điểm toàn diện, biện chứng cho sinh viên. Những vấn đề đặt ra thường chứa những mâu thuẫn phải giải quyết như những sự kiện được coi là trái với quy luật hoặc nguyên tắc phổ biến, ngược với quan điểm thông thường, những sự kiện được nhìn nhận một cách bất đồng, không nhất trí với nhiều người, nhiều nhóm người; những sự kiện đang tạo ra trở ngại, vướng mắc cho sự phát triển bình thường để đạt mục đích đã được xác lập một cách hợp lý theo những quy luật chung nhất. Giảng viên hướng dẫn sinh viên giải quyết vấn đề bằng cách sử dụng tư duy phê phán, phân tích thực tiễn để phát hiện ra những khe hở trong những quy luật, nguyên tắc, quy trình. Trên cơ sở đó lập luận được xây dựng trên những sự kiện, dữ liệu thu thập được phù hợp mà không trái với quy luật khoa học. Hình thức hướng dẫn sinh viên làm nghiên cứu khoa học là một hình thức đào tạo nhằm bồi dưỡng năng lực tư duy, sáng tạo và năng lực giải quyết vấn đề có hiệu quả. 2.2.2. Dạy sinh viên tự học thông qua hoạt động dạy - học trên lớp Giảng viên lựa chọn các phương pháp dạy - học, tổ chức các hoạt động dạy - học phù hợp để có thể kích thích tính chủ động, sáng tạo của sinh viên, hình thành kỹ năng tự học cho sinh viên. - Dạy theo cách giải quyết vấn đề nhằm tích cực hóa việc học Đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy - học giải quyết vấn đề là tình huống có vấn đề. Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm vụ cần giải quyết, một vướng mắc cần tháo gỡ,… Do vậy, kết quả của việc nghiên cứu và giải quyết tình huống có vấn đề sẽ là tri thức mới, nhân thức mới hoặc phương thức hành động mới đối với chủ thể. Trong quá trình giải quyết vấn đề, nhiệm vụ chủ yếu là tìm hoặc phát minh ra tất cả các bộ phận của lời giải thích chặt chẽ, tượng trưng cho việc giải thích sao cho cái tù mù trở thành chính xác, câu hỏi được trả lời, nhiệm vụ được hoàn thành, những bộ phận thiếu đã được tìm ra, sự lỏng lẻo đã được xóa bỏ, vấn đề đã được giải quyết xong.
  7. 658 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP Quá trình dạy - học theo cách này có thể tiến hành thông qua nhiều hình thức tổ chức đa dạng như làm việc theo nhóm, tranh luận, sắm vai, mô phỏng,… sẽ khuyến khích sinh viên có cách học với tư duy mở, có tính tương tác, phê phán tích cực. - Dạy theo cách tổng kết thực tiễn, sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học Cách dạy này không chỉ có ý nghĩa trong việc hình thành kỹ năng tự học cho sinh viên trong quá trình học tập mà còn giúp cho sinh viên có thể học được những kiến thức phù hợp với yêu cầu mới của thời đại. Vì một trong những nguồn sản xuất ra những kiến thức phù hợp ấy chính là sự tổng kết thực tiễn và sử dụng những kết qủa nghiên cứu vào trong quá trình dạy - học. Cách dạy - học này thực chất là bồi dưỡng cho sinh viên năng lực giải quyết các vấn đề mới mà họ phải đối mặt, hoặc bằng những khả năng đã được đào tạo, họ phải đi tìm kiếm thông tin cần thiết. Do vậy, với cách dạy - học này, giảng viên cũng sẽ dần tạo cho sinh viên ý thức tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi, khám phá để lĩnh hội tri thức. 2.2.3. Dạy sinh viên cách nghiên cứu giáo trình Đây là biện pháp cốt lõi, quan trọng hàng đầu. Bởi vì giáo trình là tài liệu “hạt nhân”, là nguồn kiến thức chính, chủ đạo, là sự triển khai và phát triển chương trình trong quá trình dạy - học. Để dạy - học có chất lượng, giảng viên phải định hướng, dẫn dắt, gợi mở để sinh viên biết cách và thực hiện có hiệu quả việc nghiên cứu giáo trình; khai thác, phát huy được vai trò của giáo trình trong dạy - học. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của phương pháp truyền thống, hầu hết quá trình tự học ở nhà trường được triển khai theo hướng giảng viên đọc, nghiên cứu, tóm lược kiến thức cơ bản giáo trình, sau đó truyền thụ thẳng, trực tiếp đến sinh viên. Do đó, giá trị của “tam giác dạy học” - giáo trình, nội dung dạy - học (khách thể); sinh viên (chủ thể); giảng viên (tác nhân) sẽ không khai thác được nhiều. Sinh viên thiếu phương pháp, cách thức, kỹ năng cơ bản, cần thiết để nghiên cứu giáo trình. Đó là lực cản chủ yếu làm giảm khả năng, hiệu quả tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Vì vậy, để hiệu quả tự học của sinh viên được phát huy, cần đặc biệt coi trọng cách dạy nghiên cứu giáo trình cho sinh viên. Hướng dẫn tự học qua cách dạy nghiên cứu giáo trình là giảng viên đưa ra những định hướng, dẫn dắt, gợi mở để sinh viên nghiền ngẫm, suy xét, nghiên cứu, tìm ra phương pháp, cách thức, kỹ năng tự học, tự nghiên cứu cơ bản, cần thiết để khai thác, phát huy giá trị, hiệu quả của giáo trình môn học. Để hướng dẫn sinh viên tự học thông qua dạy cách nghiên cứu giáo trình có hiệu quả cần: hướng dẫn, dạy cách tự học, tự nghiên cứu tổng thể về giáo trình môn học, nghiên cứu khái quát về từng chương, nghiên cứu về vấn đề cụ thể trong từng chương. Cần coi trọng cách hướng dẫn sinh viên tự học, tự nghiên cứu. Tuy nhiên, hướng dẫn
  8. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 659 cách dạy tự học, tự nghiên cứu về vấn đề cụ thể trong từng chương có ý nghĩa cơ bản, quan trọng, lâu dài, khó khăn, phức tạp. Khi hướng dẫn nghiên cứu tổng thể về giáo trình môn học, nghiên cứu khái quát về từng chương, nghiên cứu về vấn đề cụ thể trong từng chương cần nhấn mạnh cách thức, giá trị và các ví dụ trong từng trường hợp nghiên cứu. Trên cơ sở đó, sinh viên nắm được cách thức, giá trị, lợi ích đem lại của từng trường hợp, từng cách thức nghiên cứu, từ đó sẽ tích cực, chủ động sáng tạo hơn trong nghiên cứu, học tập. Hướng dẫn nghiên cứu tổng thể về giáo trình môn học là trên cơ sở chương trình, giảng viên định hướng, gợi mở, dẫn dắt để sinh viên tìm hiểu khái quát, nắm được những nội dung cơ bản, cốt lõi của giáo trình môn học. Khi tiến hành hoạt động này, giảng viên cần hướng dẫn sinh viên nghiên cứu khái quát: về chương trình, đề cương chi tiết môn học, về giáo trình, nội dung cơ bản và quan hệ logic của nó; mối tương quan, thống nhất và khác biệt giữa chương trình với giáo trình. Giá trị tích cực của hoạt động này là sinh viên hiểu được nghiên cứu giáo trình phải lấy chương trình làm cơ sở; nắm được nội dung cơ bản của chương trình, giáo trình và có phương pháp nghiên cứu tổng thể giáo trình. Như vậy, tự học, tự nghiên cứu giáo trình có vị trí quan trọng và dạy cách nghiên cứu giáo trình là con đường, biện pháp chủ đạo nâng cao hiệu quả hướng dẫn sinh viên tự học. Hướng dẫn sinh viên tự học qua dạy cách nghiên cứu giáo trình cần được triển khai theo định hướng, quy trình nhất định. 2.2.4. Đổi mới phương pháp dạy học, rèn luyện phương pháp tự học, tự nghiên cứu Nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy, trong điều kiện hiện nay, khi mà phương pháp thuyết trình truyền thống giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống phương pháp dạy học, trên lớp hầu hết quá trình hoạt động không phải là sinh viên mà là giảng viên; người học được đặt vào vị trí bị động của quá trình dạy học thì tính tích cực tự học, tự nghiên cứu trong sinh viên khó có thể được phát huy. Người ta không thể tập bơi trên ghế, không thể tự học, tự nghiên cứu một cách hiệu quả nếu thiếu môi trường, điều kiện thuận lợi thiết yếu. Trong khi đó, các nghiên cứu cho thấy, hoàn toàn có thể tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để tích cực hóa hoạt động tự học, tự nghiên cứu trong sinh viên bằng cách đổi mới phương pháp dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học trong định hướng mục tiêu tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để nâng cao tính tích cực tự học, tự nghiên cứu của sinh viên trong dạy học là vấn đề không đơn giản. Để thực hiện có hiệu quả vấn đề này, cần triển khai theo hướng: Đổi mới phương pháp dạy học truyền thống theo hướng giảm thuyết trình, tăng cường lồng ghép các biện pháp kích thích tính tự học, tự nghiên cứu trong sinh viên, sử dụng các phương pháp nâng cao tính tích cực học tập của sinh viên như thảo
  9. 660 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC GIA: XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP luận, vấn đáp, nêu vấn đề, vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong quá trình dạy học, chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tự nghiên cứu, tăng cường tổ chức các hoạt động học tập của sinh viên; nghiên cứu áp dụng các phương pháp dạy học hiện đại như dạy học giải quyết vấn đề, dạy học nghiên cứu trường hợp, dạy học theo dự án, theo tình huống; hoặc có thể lồng ghép, tích hợp phương pháp dạy học truyền thống và phương pháp dạy học hiện đại một cách phù hợp. Đổi mới phương pháp dạy học để tích cực hóa hoạt động tự học, tự nghiên cứu của sinh viên đòi hỏi giảng viên phải có bước đi, cách làm, biện pháp phù hợp; cần phải tiến hành thận trọng, có sự đầu tư, nghiên cứu kỹ lưỡng, duy trì thường xuyên, liên tục, kiên trì, nhẫn nại, bền bỉ, tránh chủ quan, nóng vội. Như vậy, đổi mới phương pháp dạy học, chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tự nghiên cứu, làm cho sinh viên có hứng thú với vấn đề đặt ra, có môi trường tự học, tự nghiên cứu; giảng viên có điều kiện hướng dẫn, dẫn dắt, gợi mở vấn đề; sinh viên tự lực tự học, tự nghiên cứu vấn đề đặt ra và giải quyết các tình huống đặt ra; kích thích tính độc lập suy nghĩ, trao đổi, thảo luận, tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. 2.2.5. Giao cho sinh viên hệ thống bài tập về nhà Đây là một động lực quan trọng, một giải pháp then chốt để kích thích, tích cực hóa sinh viên để tăng cường tự học, tự nghiên cứu. Khi chuyển sang phương thức đào tạo tín chỉ thì tự học, tự nghiên cứu của sinh viên được coi trọng, được tính vào nội dung và thời lượng của chương trình; thời gian học tập lý thuyết, học tập trên lớp có giảm xuống, tăng thời gian tự học, tự nghiên cứu trong sinh viên; đưa giáo dục đại học về đúng nghĩa của nó, người học tự học, tự nghiên cứu, giảm sự nhồi nhét kiến thức của người dạy và do đó phát huy được tính chủ động, sáng tạo của người học. Hệ thống bài tập giao cho sinh viên cần được thiết kế theo hướng: bám sát mục tiêu đào tạo; nội dung chương trình, giáo trình môn học cần nghiên cứu, chọn lọc cẩn thận, chu đáo, tránh chủ quan, tùy tiện; đảm bảo vừa sức với sinh viên, chú ý đến sự phân loại bài tập phù hợp với từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng; phải có khả năng gây hứng thú, khơi gợi niềm yêu thích, say mê tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Hệ thống bài tập phải có hình thức đa dạng, phong phú như: củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng học bài cũ, nghiên cứu, chuẩn bị bài mới, hướng đến tìm kiếm nội dung, tri thức hoặc phương pháp, cách thức tiếp cận nội dung, bài tập nghiên cứu lý thuyết, bài tập thực hành, thảo luận, bài tập vận dụng thực tiễn, tìm hiểu nội dung chuyên sâu, giải quyết vấn đề phức tạp liên quan đến nội dung môn học, bài tập hệ thống câu hỏi, nghiên cứu, sưu tầm tài liệu tham khảo,… Cần chú ý đến tính định hướng tự học, tự nghiên cứu qua hệ thống bài tập, sự gợi mở, sự giúp đỡ cần thiết, thực sự có
  10. Phần 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NỀN GIÁO DỤC THỰC CHẤT 661 trách nhiệm của giảng viên trong quá trình sinh viên giải quyết hệ thống bài tập, cơ chế kiểm tra, đánh giá một cách khách quan, minh bạch kết quả tự học, tự nghiên cứu trong giải quyết bài tập của sinh viên; kỹ năng khen, chê đúng mức nhằm động viên, khuyến khích sinh viên. Như vậy, hệ thống bài tập có vai trò quan trọng trong quá trình tích cực hóa hoạt động tự học, tự nghiên cứu trong sinh viên. Vai trò, giá trị thực của nó chỉ được phát huy khi đáp ứng những yêu cầu nhất định. Những biện pháp trên đây gợi mở bước đầu cho quá trình thiết kế, xây dựng hệ thống bài tập nhằm nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. 3. KẾT LUẬN Tự học là học một cách tự giác, chủ động, độc lập, là tự mình phát huy các phẩm chất, năng lực trí tuệ và hành động, sức mạnh trí tuệ và cơ bắp để chiếm lĩnh tri thức của nhân loại, để phát triển và hoàn thiện các năng lực, phẩm chất của cá nhân người học. Học thật, hay thực học, xét về phương diện nội dung, là nền giáo dục dạy người ta tri thức, kỹ năng, phẩm chất, tạo ra năng lực thực, tức những cái mà người học có thể sử dụng nó phục vụ cho công việc, cho mưu sinh, cho đời, cho đất nước. Thực học là tránh việc học những cái ra đời không dùng vào việc gì, còn cái cần cho việc thì không được học. Thực học ở đây với nghĩa là nền giáo dục thiết thực, hữu dụng, có thực chất, giáo dục và đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, gắn chặt với đời sống. Học thật là danh vị, học hàm, bằng cấp là phù hợp và phản ánh đúng cái thực lực của người học [6]. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Khánh Bằng (2005), “Yêu cầu mới của thời đại, của đất nước với giáo viên và phương hướng đổi mới phương pháp dạy - học ở các trường sư phạm”, Tạp chí Giáo dục, số 122-2005. 2. Lưu Xuân Mới (2000), Lý luận dạy học đại học, NXB Giáo dục. 3. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Vai trò của kỹ năng tự học (ngoài lớp học), Khoa khoa học giáo dục, ngày 11/7/2021. 4. Nguyễn Cảnh Toàn (1997), Quá trình dạy - tự học, NXB Giáo dục. 5. Văn Tân (1977), Từ điển Tiếng Việt (in lần thứ hai, có chỉnh lý, bổ sung), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 6. Truy xuất từ https://khoahocdoisong.vn/that-trong-giao-duc-bat-dau-tu-dau-170846. html, ngày 24/5/2021.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1