intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nâng cao vai trò của khoa học xã hội và nhân văn đối với sự phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Phó Cửu Vân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

9
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Nâng cao vai trò của khoa học xã hội và nhân văn đối với sự phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay" nhằm trả lời cho câu hỏi làm thế nào để thu hút nguồn lực cho ngành khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam thì chúng ta cần phải nhìn nhận lại vai trò của nhóm ngành khoa học xã hội và nhân văn trong đời sống xã hội để từ đó đưa ra những giải pháp khai thác nâng cao vai trò của nó hơn nữa. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nâng cao vai trò của khoa học xã hội và nhân văn đối với sự phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay

  1. Trường Đại học Mỏ - Địa chất NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Trần Thị Tâm Tóm tắt: Hiện nay, sự phát triển của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng kỹ thuật, cách mạng công nghệ cùng kinh tế thị trường đang ảnh hưởng lớn đến đời sống của con người. Từ đó các lĩnh vực về khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật đang trở thành sự lựa chọn hàng đầu của người Việt đồng thời các lĩnh vực thuộc ngành khoa học xã hội và nhân văn dường như ngày càng bị xem nhẹ, ít thu hút được sự quan tâm của mọi người. Bởi vậy, trả lời cho câu hỏi làm thế nào để thu hút nguồn lực cho ngành khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam thì chúng ta cần phải nhìn nhận lại vai trò của nhóm ngành khoa học xã hội và nhân văn trong đời sống xã hội để từ đó đưa ra những giải pháp khai thác nâng cao vai trò của nó hơn nữa. Từ khóa: Khoa học xã hội và nhân văn, toàn cầu hóa, nền tảng phát triển, phát triển bền vững, nghiên cứu con người. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trước sự phát triển mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, khoa học công nghệ và kinh tế thị trường thì ở Việt Nam rất nhiều người có suy nghĩ chỉ cần chú tâm vào học tập, nghiên cứu và phát triển nhóm ngành khoa học công nghệ; một số khác lại có suy nghĩ khoa học xã hội và nhân văn mang lại lợi ích kinh tế kém nên không có vai trò bằng khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ… Với rất nhiều lý do khác nhau đã làm cho ngành khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam không thể phát triển như kỳ vọng. Mặt khác, hiện nay con người không thấy được vai trò của khoa học xã hội và nhân văn đối với việc khắc phục những mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, khoa học công nghệ đang tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội. Bởi vậy, vấn đề đặt ra là cần phải nghiên cứu nhằm nâng cao vai trò của khoa học xã hội nhân văn thông qua việc chỉ ra thực trạng và đề xuất một số giải pháp giải quyết những bất cập của vấn đề này trong bối cảnh xã hội hiện nay đang có nhiều biến đổi mạnh mẽ. 2. NỘI DUNG 2.1. Khoa học xã hội và nhân văn cùng với vai trò của nó Khoa học là hệ thống tri thức của con người được rút ra trong quá trình quan sát và nghiên cứu thế giới. Cùng với sự thay đổi của đối tượng nghiên cứu và sự phát triển của trình độ con người thì nội hàm tri thức khoa học cũng thay đổi. Người ta chia ra làm hai nhóm chính: khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn. Khoa học xã hội và nhân văn là được quan niệm là hệ thống tri thức nghiên cứu về con người và xã hội. Đối tượng nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn liên quan đến những vấn đề phát triển xã hội và hoạt động của con người trong những điều kiện biến đổi của lịch sử, của môi trường tự nhiên - xã hội và hoàn cảnh xã hội - lịch sử, ở đó diễn ra đời sống hiện thực, sự tồn tại và phát triển của  TS. Trường Đại học Công nghệ Giao thông vận tải. 176
  2. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững những con người hiện thực. Nhiệm vụ của khoa học xã hội và nhân văn là phát hiện ra đặc điểm bản chất, quy luật của sự hình thành và phát triển của con người, xã hội loài người. Sản phẩm của khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ là những thứ hiện hữu nên người ta thường đánh giá cao vai trò của nó hơn khoa học xã hội và nhân văn. Mặt khác, trên thế giới các nước văn minh giàu mạnh cũng đều là nước có khoa học tự nhiên phát triển nên một số người cho rằng những nước đó không quan tâm tới khoa học xã hội và nhân văn. Đây hoàn toàn là quan điểm sai lầm như sách Nghiên cứu chiến lược xuất bản năm 2003 của nhà chiến lược học Trung Quốc Nữu Tiên Chung viết: “Người Mỹ coi trọng công nghệ mà không coi trọng tư tưởng, coi trọng quản lý mà không coi trọng chiến lược. Họ có tâm trạng ăn xổi ở thì, chỉ cầu lợi trước mặt, dân Mỹ thiếu ý thức với lịch sử, với bất cứ vấn đề nào họ đều muốn tìm kiếm giải đáp có tính kỹ thuật”1. Lời nhận xét này mang tính chất chủ quan và không đúng bởi ngay từ khi lập quốc tới nay chính quyền Mỹ luôn chú trọng tới phát triển cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội nhân văn nhưng vì thành tựu khoa học xã hội và nhân văn của họ có ít đại biểu nổi tiếng với những triết thuyết mang tính thời đại nên người ta khó nhận thấy bề nổi của khoa học xã hội và nhân văn. Phương Tây mà cụ thể là Tây Âu (Hy Lạp- La Mã thời cổ đại) là một trong những nơi ra đời nền văn minh, nền triết học sớm nhất của nhân loại. Đây cũng là nơi đạt được nhiều thành tựu về khoa học tự nhiên, công nghệ hiện đại và là nơi có kinh tế phát triển đồng đều nhất thế giới. Thành tựu này của phương Tây chắc chắn có vai trò đóng góp của khoa học xã hội và nhân văn đặc biệt là tri thức triết học lâu đời bởi vậy người phương Tây không coi thường khoa học xã hội và nhân văn. Họ luôn coi triết học là “khoa học của mọi khoa học”. Mặc dù tư tưởng này có từ thời kỳ cổ đại và có thời điểm nó chấm dứt vai trò này khi các ngành khoa học cụ thể khác ra đời nhưng cho đến nay người phương Tây rất đề cao vai trò của triết học bởi đối với họ nó vẫn là môn khoa học dành cho sự thông thái. Vì thế hiện nay, ở một số nước châu Âu một số kiến thức chuyên ngành khoa học xã hội như Triết học, Luật, Chính trị học, Ngoại giao, Văn hóa học, Tâm lý học… còn trở thành điều kiện cần thiết một người nào đó trở thành chính khách, luật sư hay các chuyên gia kinh tế. Nhìn về phương Đông chúng ta thấy, tất cả các quốc gia lớn mạnh về kinh tế đều có nền khoa học xã hội và nhân văn phát triển như Trung Quốc, Nhật Bản, Singapo, Hàn Quốc, Ấn Độ… Ở đây, khoa học xã hội và nhân văn được quan tâm chú trọng, người ta xây dựng những viện và trung tâm lớn để nghiên cứu, giảng dạy. Những trung tâm lớn này thu hút rất nhiều người tham gia nghiên cứu đặc biệt là người nước ngoài tìm về đây để tìm hiểu học tập. Đây cũng là cách để các quốc gia này khẳng định nền khoa học xã hội và nhân văn của họ lớn mạnh đồng thời quảng bá tư tưởng văn hóa của họ đến với thế giới.Thậm chí, ở nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng các trung tâm nghiên cứu tư tưởng phương Đông và thành lập học viện Khổng Tử (trong đó có cả Mỹ). Qua đây thấy rằng, khoa học xã hội và nhân văn được nước ngoài rất chú trọng bởi vì nó cần thiết cho con người và sự phát triển của xã hội. Thời gian vừa qua, ở Việt Nam khoa học xã hội và nhân văn đóng góp rất nhiều vào công cuộc xây dựng đất nước và phát triển đời sống văn hóa xã hội. Nó cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, chính sách phát triển đất nước nhanh và bền vững trên các lĩnh vực 1 Nguyễn Hải Hoành (2019), “Tầm quan trọng của khoa học xã hộ và nhân văn tại Mỹ”, http://www.vanhoahoc.vn/, đăng ngày 26/2/2019, truy cập ngày 25/ 7 /2020. 177
  3. Trường Đại học Mỏ - Địa chất kinh tế, văn hóa, chính trị... của Đảng, nhà nước và các thiết chế xã hội. Vai trò thiết yếu của khoa học xã hội và nhân văn đó là giáo dục, phát huy chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc cho con người và cả xã hội. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng hiện nay bởi trong xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, khoa học công nghệ đang tác động mạnh mẽ đến đời sống của con người thì việc giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc là điều rất cần thiết bởi vì nếu không biết giữ gìn bản sắc chúng ta sẽ bị hòa tan hoàn toàn trước làn sóng hội nhập. Cùng với giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống thì việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc là yếu tố đặc biệt quan trọng trước sự tác động tiêu cực của nhiều nhân tố hiện nay. Ngoài ra, khoa học xã hội và nhân văn còn có vai trò lớn trong việc giáo dục đạo đức để con người ứng xử với nhau có đạo đức, văn hóa và nhân văn hơn trong đời sống hàng ngày. Tổng kết lại, vai trò của khoa học xã hội và nhân văn được thể hiện cụ thể như sau: Khoa học xã hội và nhân văn có nhiệm vụ làm sáng tỏ hơn những quan niệm về chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ, các loại hình sở hữu, các thành phần kinh tế, nguồn lực con người, văn hóa và truyền thống, về tôn giáo và tâm linh… Được trang bị nền tảng của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nên khoa học xã hội và nhân văn rất biện chứng, điển hình là xây dựng những quan niệm mới về kinh tế tư nhân, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa… sao cho phù hợp với thời đại và vẫn giữ được lập trường chính trị của đất nước. Đối với chính trị, khoa học xã hội và nhân văn đã chỉ ra đăc điểm, bản chất và nhiệm vụ cần phải hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta từ đó đề xuất giải pháp thực hiện và phát huy dân chủ, củng cố vai trò của Đảng cầm quyền, cải cách bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược đề ra là dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Đối với văn hóa và xã hội, khoa học xã hội và nhân văn chỉ ra toàn bộ lịch sử dựng nước và giữ nước, bản sắc văn hóa truyền thống của người Việt đồng thời xây dựng những bộ quy tắc đạo đức văn hóa mới để phù hợp với việc giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại một cách phù hợp từ đó khoa học xã hội và nhân văn có vai trò quan trọng trong việc định hướng lối sống nhân văn cho con người. Bên cạnh đó, nó còn có vai trò lớn trong việc nghiên cứu xây dựng nguồn nhân lực, cụ thể nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước bằng việc đưa ra tiêu chí để phù hợp với yêu cầu của thời đại. Khoa học xã hội và nhân văn nghiên cứu đặc điểm, nội dung, bản chất của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và sự phát triển của kinh tế tri thức hiện nay. Đặc biệt, nó nghiên cứu sự tác động của những yếu tố này đến kinh tế, đời sống xã hội con người trên nhiều bình diện, phương thức khác nhau để từ đó chỉ ra những giải pháp hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực và phát huy những tác động tích cực. Không chỉ nghiên cứu các vấn đề xã hội trong nước, khoa học xã hội nhân văn ở Việt Nam con nghiên cứu các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội nước ngoài. Có rất nhiều trung tâm và tạp chí nghiên cứu sâu về một quốc gia, một khu vực như các viện Nghiên cứu Trung Quốc, Nghiên cứu châu Âu, châu Mỹ… để chỉ ra đặc điểm, bản chất và đưa ra xu thế phát triển trong tương lai của họ, từ đó giúp chúng ta có những phương án tốt nhất trong ngoại giao nhằm tránh được những rủi ro trong quá trình hợp tác làm ăn trên nhiều phương diện. Như vậy qua nghiên cứu chúng ta thấy, khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam đã khơi dậy những tư tưởng sáng suốt mang đậm bản sắc truyền thống Việt Nam về độc lập, tư do và tự chủ quốc gia; về chủ quyền lãnh thổ, đặc biệt về chủ quyền biển đảo; về lòng yêu nước; về sức mạnh của đoàn 178
  4. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững kết và sức mạnh lòng dân; về tinh thần tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau của đồng bào… Chính những yếu tố này đã tạo ra một sức mạnh tưởng chừng mềm nhưng thực tế đặc biệt vững chắc để xây dựng đất nước trong bối cảnh phức tạp như hiện nay. Đánh giá về vai trò của khoa học xã hội và nhân văn, Đại hội XII của Đảng đã nhận xét: “Trong những năm qua, khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần quan trọng trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; khẳng định lịch sử hình thành và phát triển dân tộc, bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, bảo tồn các giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam”1. Khoa học xã hội nhân văn của Việt Nam có vai trò không thể thiếu, không thể xem nhẹ đối với từng bước phát triển của đất nước, của con người và xã hội. Tuy nhiên, việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta đang bộc lộ nhiều điểm hạn chế. 2.2. Một số hạn chế trong việc nghiên cứu, giảng dạy khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam hiện nay Nhìn tổng thể thì việc nghiên cứu, giảng dạy khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta đang bộ lộ nhiều hạn chế hơn ưu điểm, thậm chí đây còn là vấn đề đáng báo động. Bởi vậy, ở bài viết này tác giả không trình bày mặt ưu điểm mà tập trung đi vào hạn chế của vấn đề này. Thứ nhất, ngành khoa học xã hội và nhân văn không thu hút được nhiều người tập trung nghiên cứu. Trong thời gian vừa qua ngành khoa học xã hội và nhân văn không thu hút được nhiều người học. Nguyên nhân của vấn đề đó là do tỷ lệ người học sau khi ra trường có việc làm đúng chuyên ngành không cao bởi môi trường làm việc hạn hẹp chỉ làm trong cơ quan nhà nước như các trường học, viện nghiên cứu với số lượng người biên chế có giới hạn. Bên cạnh đó, những người làm trong ngành khoa học xã hội và nhân văn làm phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. Thực tiễn đã cho thấy, để thành đạt trong ngành khoa học xã hội và nhân văn ít nhất phải mất từ 10 đến 20 năm mới có thể trở thành nhà khoa học xã hội có vị thế xã hội khiêm tốn nào đó. Trong khi đó để thành đạt trong khoa ngành khoa học công nghệ kỹ thuật thì có thể chỉ mất 5- 7 năm bởi vì bằng chứng cho thấy hiện nay rất nhiều người trẻ đã có những công trình, phát minh, sáng chế nổi tiếng thậm chí có những học sinh, sinh viên khi đang ngồi trên ghế nhà trường cũng có những phát minh, sáng chế được công bố và đưa vào áp dụng sản xuất. Khoa học xã hội và nhân văn khác với các ngành khoa học trên ở chỗ kết quả nghiên cứu nằm ở lớp sau sự biểu hiện ra bề ngoài của xã hội chứ không hiện hữu rõ ràng như ngành khoa học tự nhiên hoặc kết quả nghiên cứu phải sau một thời gian mới được kiểm chứng, thậm chí kết quả nghiên cứu còn gây ra tranh luận, bàn cãi vì đôi khi nó còn phụ thuộc vào quan điểm cá nhân nên cả định lượng và định tính của nó không thể rõ ràng như khoa học tự nhiên. Thu nhập của người làm về khoa học xã hội và nhân văn cũng kém hơn nhiều so với các ngành khác. Phần lớn thu nhập của họ chủ yếu dựa vào lương cơ bản của nhà nước và cơ hội kiếm thêm từ bên ngoài rất khó vì sản phẩm nghiên cứu của họ đều phục vụ lợi ích chung của cả xã hội. Trong khi đó ở các viện nghiên cứu, số lượng đề tài các cấp do nhà nước phân bổ cũng giới hạn với kinh phí thấp hơn rất nhiều so với ngành khoa học kĩ thuật, khoa học công nghệ. 1 Hồ Sĩ Quý (2019), “Khoa học xã hội và nhân văn với sự phát triển bền vững của đất nước”, http://khxhnvnghean.gov.vn/, đăng ngày 1/11/2019, truy cập ngày 20/8/2020. 179
  5. Trường Đại học Mỏ - Địa chất Rất nhiều người cho rằng khoa học xã hội và nhân văn không cần phải đầu tư nghiên cứu nhiều bởi vì hiệu quả kinh tế mang lại không cao và các vấn đề nghiên cứu đều cũ, được nhiều người nghiên cứu. Đây là quan điểm hoàn toàn sai lầm bởi vì khoa học xã hội và nhân văn luôn theo sát và song hành với đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của con người nên nó luôn luôn phải được đổi mới cùng với sự thay đổi của đời sống xã hội. Do không thu hút được nhiều người nghiên cứu nên hiện nay và trong thời gian tới ngành khoa học xã hội và nhân văn sẽ bị thiếu nguồn nhân lực phục vụ cho ngành, đặc biệt là thiếu người giỏi, người yêu và chuyên tâm với nghề. Trên đây là những khó khăn, thách thức đối với ngành khoa học xã hội và nhân văn. Trong thời gian vừa qua, rất nhiều mã ngành thuộc khoa học xã hội và nhân văn ở các trường đại học không thể tuyển sinh đủ chỉ tiêu đề ra đồng thời số lượng thí sinh lựa chọn môn khoa học xã hội nhân văn để thi tốt nghiệp cấp 3 cũng rất ít. Thậm chí, trong thời gian vừa báo chí còn nhắc mãi câu chuyện cả một hội đồng tổ chức thi tốt nghiệp cấp 3 ở Nghệ An, Hà Nội chỉ có một thí sinh thi môn Lịch sử- đây là điều đáng buồn. Trước thực trạng này, ngành giáo dục có năm đưa ra quy định đưa Lịch sử là môn thi bắt buộc với thí sinh thi tốt nghiệp cấp 3 và có kết quả đáng buồn là rất nhiều thí sinh bị điểm 0 và kết quả thi của môn Lịch sử cũng kém hơn nhiều so với các môn khác. Đây là điều quá buồn cho sự phát triển bền vững của đất nước vì điều tối thiểu của người Việt là phải hiểu biết về lịch sử nước mình để tự hào về Tổ quốc và từ đó tiếp tục góp sức mình vào sự nghiệp xây dựng đất nước như lời của chủ tịch Hồ Chí Minh “Dân ta phải biết sử ta- Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Thứ hai, chất lượng giảng dạy, nghiên cứu ngành khoa học xã hội và nhân văn chưa cao đồng thời đang bộc lộ rất nhiều bất cập trong công tác đào tạo, quản lý. Hiện nay các công trình nghiên cứu của ngành khoa học xã hội và nhân văn tăng về số lượng nhưng thiếu về chất lượng. Các cơ sở giáo dục vì chạy theo lợi nhuận nên đào tạo tràn lan thạc sỹ, tiến sĩ chất lượng thấp. Cách đây vài ba năm báo chí nước ta đưa tin nhiều về một số “lò ấp tiến sĩ”: “Trong 2 năm 2015 và 2016 cho xuất lò 700 tiến sĩ và 2.811 thạc sĩ. Đã có những đề tài tiến sĩ, thạc sĩ, cho dù nghĩ mãi cũng không biết dùng vào việc gì, mang lại lợi ích gì cho nền khoa học nước nhà” hay “Có giáo sư hướng dẫn tới 12 nghiên cứu sinh, chưa kể tiến sĩ kinh tế lại hướng dẫn nghiên cứu sinh ngành quản lý giáo dục”1. Điều này làm cho nhiều người có cái nhìn xem thường học vị và sản phẩm của ngành khoa học xã hội nhân văn. Tình trạng đạo văn ở ngành khoa học xã hội và nhân văn cũng không hiếm. Có những công trình cóp chép y nguyên sản phẩm của người khác và rất nhiều sản phẩm sách, luận án, luận văn thực hiện cóp chép tổng hợp từ những sản phẩm của người khác mà không đưa ra được cái mới của mình. Bên cạnh đó, việc phản biện các công trình khoa học cũng dễ dàng cho qua những sản phẩm kém chất lượng. Trong thời gian vừa qua có rất nhiều vấn đề thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu thậm chí tạo ra làn sóng nghiên cứu lớn nhưng về chất lượng thì thiếu độ sâu, hời hợt. Điển hình là có rất nhiều trình nghiên cứu về các vấn đề “Kinh tế tri thức”, “Thế giới phẳng”, “Công nghệ 4.0”… thậm chí rất nhiều hội thảo khoa học bàn về những chủ đề này nhưng rất ít người hiểu cặn kẽ tri thức này như thế nào. Ngành khoa học xã hội và nhân văn thiếu những công trình nghiên cứu cơ bản, có hệ thống các vấn đề triết học- kinh tế và chính trị có quan hệ trực tiếp với sự phát triển của con người, đất nước và 1 Lê Thanh Phong (2020), “Sản xuất tiến sĩ dỏm nhiều như lò ấp trứng”, https://laodong.vn/, đăng ngày 7/8/2020, truy cập ngày 16/8/2020. 180
  6. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững dân tộc Việt Nam, xã hội Việt Nam trong lịch sử và hiện đại. Hiện nay, các công trình của khoa học xã hội và nhân văn chủ yếu nghiên cứu các vấn đề thực trạng, nghiên cứu những đối tượng thuộc về “lớp trên”, “bề mặt biểu hiện”, “lớp váng trên” và thiếu những công trình mang tính chất suy luận, logic về những đặc điểm, bản chất của con người Việt Nam. Khái niệm phát triển bền vững là sự phát triển của hiện nay không làm ảnh hưởng đến mai sau với ba yếu tố: kinh tế, xã hội và đặc biệt là môi trường bởi môi trường hiện nay là yếu tố cấp thiết cần được bảo vệ. Tuy nhiên có một yếu tố cần được bảo vệ và phát triển bền vững đó chính là văn hóa. Đó là giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc và giáo dục con người trở nên có văn hóa trong suy nghĩ và hành động để bảo vệ lợi ích chung cho mình và cho cộng đồng. Nhưng hiện nay, một bộ phận không nhỏ đang dần trở nên thiếu văn hóa trong ứng xử. Thử hỏi nếu tất cả đều không có văn hóa thì không biết xã hội này sẽ loạn như thế nào? Và giúp cho mỗi cá nhân, xã hội có văn hóa là nhiệm vụ của khoa học xã hội và nhân văn với những công trình nghiên cứu có chất lượng cao được giảng dạy nghiêm túc bởi những con người có trình độ và sự tâm huyết. Thứ ba, chúng ta vẫn còn cứng nhắc trong việc tiếp thu ý kiến của nước ngoài khi nghiên cứu về văn hóa Việt Nam. Hiện nay do điều kiện kinh tế- xã hội và công nghệ thông tin đã phát triển nên chúng ta được tiếp cận nhiều hơn với kết quả nghiên cứu về Việt Nam của người nước ngoài để thấy được tính đa chiều trong nghiên cứu. Tư duy của các nhà khoa học Việt Nam về những kết quả nghiên cứu đó cũng dần thay đổi đó là sự cởi mở tuy nhiên với nhiều lý do khác nhau chúng ta vẫn còn dè dặt trong việc đón nhận, thừa nhận các kết quả nghiên cứu đó bởi tính phản biện và tính mới của khoa học xã hội và nhân văn chưa cao. Tóm lại, thực tiễn đã chứng minh khoa học xã hội và nhân văn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước và đời sống xã hội của con người. Ở bất kỳ quốc gia nào thì khoa học xã hội và nhân văn có tính định hướng tư tưởng tri thức rất cao. Tuy nhiên, ở Việt Nam ngành này đang bộc lộ nhiều vấn đề bất cập. Vấn đề đặt ra là cần tìm ra những giải pháp để có nâng cao vai trò và chất lượng của ngành khoa học xã hội và nhân văn hiện nay. 2.3. Một số giải pháp để nâng cao vai trò, chất lượng của khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam Thứ nhất, nhà nước cần quan tâm và hoạch định những chính sách bảo vệ và phát triển ngành khoa học xã hội và nhân văn. Nhà nước cần phải có sự quan tâm, nâng cao vai trò của ngành khoa học xã hội và nhân văn. Cụ thể: đầu tư về cơ sở vật chất, tiềm lực kinh tế cho ngành; có nhiều ưu đãi đối với người nghiên cứu, giảng dạy và người học ngành thậm chí Bộ Giáo dục cần có những quy định thay đổi môn thi bắt buộc trong đó có môn thuộc về ngành khoa học xã hội và nhân văn; tôn vinh các công trình khoa học có chất lượng, có vai trò lớn đối với xã hội … Bên cạnh đó cần có các chế tài quy định rõ về bản quyền tác giả, lợi ích kinh tế của tác giả các công trình nghiên cứu, tránh trường hợp các nhà xuất bản tái bản tràn lan sách thu nhiều lợi nhuận trong khi tác giả là những người đầu tư rất nhiều chất xám lại nhận được rất ít giá trị kinh tế từ sản phẩm của mình, xử lý nghiêm khắc đối với tình trạng đạo văn, ăn cắp bản quyền. Thứ hai, nâng cao chất lượng của ngành khoa học xã hội và nhân văn. Để nâng cao chất lượng của ngành thì cần phải bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành toàn diện về trí tuệ, đạo đức và lòng yêu 181
  7. Trường Đại học Mỏ - Địa chất nghề, thực hiện nghiêm túc việc đào tạo, thẩm định, phản biện các công trình nghiên cứu khoa học và đầu ra của các bậc đào tạo cử nhân, thạc sỹ, tiến sĩ. Cần phải gắn lý luận với thực tiễn, tổ chức biên soạn những công trình trọng điểm mang tầm cỡ quốc gia, thuộc các lĩnh vực lịch sử, văn hóa, văn họa, ngôn ngữ, tôn giáo… nhằm phục vụ kịp thời các nhu cầu cấp bách của xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Kết quả nghiên cứu sẽ tập hợp thành các giải pháp kiến nghị, đề xuất tới các cơ quan của Đảng và nhà nước nhằm góp phần làm cơ sở, làm luận cứ khoa học cho việc hoạch định các chính sách cụ thể đồng thời công bố các kết quả nghiên cứu khoa học trên các tạp chí, các phương tiện thông tin đại chúng nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân ta. Bên cạnh đó, ngành khoa học xã hội và nhân văn cần phải đầu tư vào nghiên cứu các công trình thuộc mảng nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu lý luận- tức là những yếu tố thuộc về gốc của vấn đề để cung cấp các lập luận, lý giải đặc điểm, bản chất, quy luật của các vấn đề xã hội đang diễn ra đồng thời đưa ra những dự báo cho tương lai. Khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam cần hạn chế các công trình mang tính chất “ăn xổi”, nghiên cứu lớp váng trên để tránh tạo ra một hệ thống sản phẩm nghiên cứu hời hợt, nông cạn. Thứ ba, cần học tập nước ngoài trong việc phát triển ngành khoa học xã hội và nhân văn. Học tập nước ngoài Việt Nam cần phát triển các trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn lớn với nguồn ngân sách từ nhà nước và các đơn đặt hàng từ đơn vị tư nhân khác. Ngoài ra, có thể bổ sung một số quy định về người tốt nghiệp các ngành nghề khác cần bằng chứng chỉ thêm của ngành khoa học xã hội và nhân văn giống như các nước phương Tây hiện nay đang áp dụng. Đồng thời, cần cởi mở hơn trong việc tiếp nhận tri thức của những công trình nước ngoài khi nghiên cứu về văn hóa, con người, xã hội Việt Nam để có tri thức phong phú, bao quát và khoa học hơn đặc biệt giảm tải việc áp đặt chủ quan trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, trong quá trình tiếp thu ý kiến từ bên ngoài cũng cần kiên định cũng cần giữ vững lập trường của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để tránh luận điệu xuyên tạc, tránh mưu đồ dùng chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Thứ tư, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong ngành khoa học xã hội và nhân văn và nâng cao ý thức cho người dân về vai trò của khoa học xã hội và nhân văn. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng bởi hai đối tượng này liên quan tới chủ thể sản xuất ra sản phẩm và người thụ hưởng các sản phẩm ấy. Cụ thể cần tập trung nguồn lực kinh tế để nâng cao thu nhập cho đội ngũ cán bộ, có nhiều phụ cấp ưu đãi, chế độ đãi ngộ nhất là đội ngũ có trình độ cao để họ chuyên tâm với nghề hơn nữa từ đó cho ra đời những công trình nghiên cứu thật sự có chất lượng. Bên cạnh đó, cần nghiêm túc và minh bạch trong việc cấp học hàm, học vị cao cho đội ngũ nghiên cứu và giảng dạy tránh trường hợp xuất hiện nhiều các “tiến sĩ giấy”, các giáo sư và phó giáo sư có năng lực kém gây bất bình trong dư luận. Đối với người dân thì cần phải nâng cao nhận thức cho họ về vai trò khoa học xã hội và nhân văn, giúp họ không đánh đồng một số hiện tượng tiêu cực trong ngành với tất cả ngành để từ đó họ tin tưởng, tôn trọng hơn ngành khoa học này. Biện pháp nâng cao thông qua giáo dục, tuyên truyền với các phương tiện thông tin khác nhau để đưa thông tin đến người dân nhanh nhất và chính xác nhất. 3. KẾT LUẬN Khoa học xã hội và nhân văn có vai trò lớn đối với việc hoạch định chính sách của các quốc gia đồng thời có vai trò lớn đối với giáo dục văn hóa, nhân cách cho con người. Bên cạnh đó, khoa học 182
  8. Khoa học xã hội với sự phát triển bền vững xã hội nhân văn còn làm nhiệm vụ khắc phục những tác động tiêu cực do các yếu tố toàn cầu hóa, kinh tế thị trường đối với xã hội. Mặc dù có vai trò lớn như vậy nhưng ở Việt Nam hiện nay khoa học xã hội và nhân văn đang không được coi trọng như chính vai trò thực sự của nó đồng thời bản thân ngành này cũng đang bộc lộ rất nhiều vấn đề bất cập cần phải giải quyết. Chính vì vậy, nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn để chỉ ra vai trò, thực trạng và tìm giải pháp khắc phục là việc làm hết sức quan trọng. Việc làm này phải được tiến hành ngay, bổ sung và phát triển theo thời gian vì khoa học xã hội nhân văn xuất hiện cùng với buổi đầu xã hội loài người có tri thức. Nó chính là nền tảng cho các ngành khoa học khác, nó thẩm thấu vào trong tất cả đời sống xã hội nên nó phải luôn được coi trọng, bổ sung, hoàn thiện và phát triển cùng với đời sống. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Chí Bảo (2015), “Nghiên cứu cơ bản trong khoa học xã hội nhân văn và lý luận ở nước ta hiện nay- quan niệm và vấn đề đặt ra”, http://philosophy.vass.gov.vn/, đăng ngày 29/8/2015, truy cập ngày 25/7/2020. 2. Phạm Văn Đức (2015), “Phát triển bền vững và vai trò của khoa học xã hội đối với phát triển bền vững ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học xã hội (số 2- 2015). 3. Nguyễn Hải Hoành (2019), “Tầm quan trọng của khoa học xã hộ và nhân văn tại Mỹ”, http://www.vanhoahoc.vn/, đăng ngày 26/2/2019, truy cập ngày 25/ 7 /2020. 4. Lê Thanh Phong (2020), “Sản xuất tiến sĩ dỏm nhiều như lò ấp trứng”, https://laodong.vn/, đăng ngày 7/8/2020, truy cập ngày 16/8/2020. 5. Hồ Sĩ Quý (2017), “Vai trò của khoa học xã hội và việc định hướng phát triển văn hóa”, http://tapchimattran.vn/, đăng ngày 15/10/2017, truy cập 25/7/2020. 6. Hồ Sĩ Quý (2019), “Khoa học xã hội và nhân văn với sự phát triển bền vững của đất nước”, http://khxhnvnghean.gov.vn/, đăng ngày 1/11/2019, truy cập ngày 20/8/2020. 7. Nguyễn Duy Quý (2007), “Khoa học xã hội và nhân văn với sự nghiệp đổi mới”, https://www.chungta.com, đăng ngày 8/6/2007, truy cập 20/7/20220. 8. Nguyễn Quang Thuấn (2019), “Khoa học xã hội và nhân văn với sự phát triển của đất nước”, http://tuyengiao.vn/, đăng ngày 01/12/2019, truy cập 25/7/2020. 183
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2