intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Năng lực sức khỏe tâm thần của bệnh nhân ung thư vú tại Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh năm 2020

Chia sẻ: ViJenchae ViJenchae | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

47
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày xác định điểm số năng lực sức khỏe tâm thần và các yếu tố liên quan của bệnh nhân ung thư vú tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh năm 2020. Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả tiến hành phỏng vấn trực tiếp trên 213 bệnh nhân đang điều trị ung thư vú nguyên phát tại khoa Nội IV, Xạ IV, Ngoại IV tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Năng lực sức khỏe tâm thần của bệnh nhân ung thư vú tại Bệnh viện Ung Bướu thành phố Hồ Chí Minh năm 2020

  1. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 NĂNG LỰC SỨC KHỎE TÂM THẦN CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ TẠI BỆNH VIỆN UNG BƯỚU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2020 ĐỖ THỊ HÀ1, PHẠM NHẬT TUẤN2, KIM XUÂN LOAN2 TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định điểm số năng lực sức khỏe tâm thần và các yếu tố liên quan của bệnh nhân ung thứ vú tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh năm 2020. Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả tiến hành phỏng vấn trực tiếp trên 213 bệnh nhân đang điều trị ung thư vú nguyên phát tại khoa Nội IV, Xạ IV, Ngoại IV tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả: Điểm trung bình năng lực nhận thức sức khỏe tâm thần của bệnh nhân ung thư vú là 109,9 ± 14,0 điểm. Trình độ học vấn và nghề nghiệp liên quan có ý nghĩa thống kê với năng lực nhận thức SKTT của bệnh nhân ung thư vú (với giá trị p lần lượt là p = 0,019 và p = 0,036). Cụ thể, những bệnh nhân có học vấn từ cấp III trở lên có điểm năng lực nhận thức SKTT cao hơn những bệnh nhân có trình độ từ cấp I trở xuống 6,75 điểm. Với nghề nghiệp, bệnh nhân làm công việc tự do (nông dân, buôn bán,…) có điểm số năng lực nhận thức SKTT thấp hơn 4,39 điểm so với những bệnh nhân làm nội trợ, nghỉ hưu hoặc thất nghiệp. Điểm trung bình năng lực tìm kiếm trợ giúp SKTT của đối tượng nghiên cứu là 32,1 ± 6,1. Kết luận: Điểm trung bình năng lực nhận thức sức khỏe tâm thần của bệnh nhân ung thư vú là 109,9 ±14,0 điểm. Điểm trung bình năng lực tìm kiếm trợ giúp sức khỏe tâm thần của đối tượng nghiên cứu là 32,1 ± 6,1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong quá trình điều trị ung thư vú, nhiều người bệnh gặp phải những vấn đề tâm lý như trầm cảm, Hiện nay, ung thư vú là dạng ung thư thường rối loạn lo âu[11]. Theo một số nghiên cứu thực hiện gặp nhất ở phụ nữ tại nhiều quốc gia trên thế giới[20]. tại Việt Nam, tỷ lệ bệnh nhân ung thư vú mắc trầm Theo thống kê của Globocan, trong năm 2018 thế cảm dao động từ 16 - 20%[4,5]. Những vấn đề tâm lý giới có hơn 2 triệu người mắc, chiếm 11,6% tổng số này không chỉ làm ảnh hưởng đến kết quả điều trị, ca mắc ung thư nói chung và hơn 600000 ca tử kéo dài thời gian nằm viện, mà còn gây suy giảm vong[8]. So sánh giữa các khu vực, Châu Á là nơi có chất lượng cuộc sống của bệnh nhân[21,22]. Tuy nhiên số mắc và tử vong do ung thư vú cao nhất thế giới vấn đề này vẫn còn chưa được quan tâm đúng mực với tổng cộng 911 014 ca mắc và 310 577 ca tử bởi nhiều lí do[16]. Việc trì hoãn điều trị sẽ càng khiến vong[8]. Tại Việt Nam, số ca mắc ung thư vú chiếm cho những rối loạn tâm lý trở nên trầm trọng hơn. 9,2% tổng số các loại ung thư và là dạng ung thư phổ biến nhất ở nữ giới[4,8]. Mỗi năm, cả nước ta ghi Để tìm được những hỗ trợ tâm lý thích hợp, nhận hơn 15 000 ca ung thư vú mới và ước tính có bệnh nhân cần phải biết và hiểu để nhận diện và tìm khoảng 45.000 phụ nữ Việt đang sống chung với đến giúp đỡ nếu bản thân gặp phải những vấn đề về căn bệnh này với hơn 6000 ca tử vong[3,4]. sức khỏe tâm thần[84]. Thuật ngữ Năng lực sức khỏe tâm thần (NLSKTT) từ đó được đề ra và định nghĩa Địa chỉ liên hệ: Đỗ Thị Hà Ngày nhận bài: 07/10/2020 Email: hadothi1998@gmail.com Ngày phản biện: 03/11/2020 Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020 1 CN. Y tế công cộng, Khoa Y tế Công cộng - Đại học Y Dược TP. HCM 2 ThS. Giảng viên Đại học Y Dược TP. HCM 494
  2. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 là “kiến thức và niềm tin về các rối loạn tâm thần C - Năng lực nhận thức SKTT (thang đo Mental giúp một người nhận ra, quản lý và phòng ngừa Health Literacy Scale); chúng”[10]. Việc có kiến thức về vấn đề sức khỏe tâm D - Năng lực tìm kiếm trợ giúp SKTT (thang đo thần không chỉ giúp bệnh nhân tìm được hỗ trợ thích General Help-Seeking Questionaire). hợp cho việc điều trị tâm lý từ đó cải thiện hiệu quả điều trị ung thư, nâng cao chất lượng cuộc sống mà Phương pháp quản lý số liệu còn giúp đỡ những người xung quanh từ đó góp Nghiên cứu nhập liệu bằng phần mềm Microsoft phần nâng cao sức khỏe cộng đồng[6,7]. Tại Việt Excel 2010 và phân tích số liệu bằng phần mềm Nam, NLSKTT vẫn là một chủ đề mới mẻ và chưa Stata 14.2. có nhiều nghiên cứu đánh giá, đặc biệt là trên bệnh nhân ung thư vú - những người cần được quan tâm KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU nhiều hơn đến sức khỏe tinh thần bên cạnh việc Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu điều trị bệnh để phục hồi về thể chất. Do đó, thông qua nghiên cứu này, chúng tôi muốn tìm hiểu và Đặc điểm về dân số - kinh tế - xã hội đánh giá năng lực nhận thức cũng như năng lực tìm Có 213 bệnh nhân ung thư vú được khảo sát. kiếm trợ giúp về sức khỏe tâm thần của bệnh nhân Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu ung thư vú tại bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ là 50,1 ± 9,8 tuổi (thấp nhất là 24 và cao nhất là 79 Chí Minh. tuổi). Bệnh nhân từ 50 - 59 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất Mục tiêu của nghiên cứu là xác định điểm số (37,1%) và thấp nhất là người từ 18 - 39 tuổi trung bình NLSKTT (bao gồm điểm trung bình của (15,2%). Có 18,8% bệnh nhân sống tại TP. HCM và năng lực nhận thức sức khỏe tâm thần và năng lực 81,2% đến từ các tỉnh thành khác. Phần lớn bệnh tìm kiếm trợ giúp sức khỏe tâm thần) và các yếu tố nhân được khảo sát là dân tộc Kinh (99,1%) và theo liên quan ở bệnh nhân ung thư vú đang điều trị tại Phật Giáo (61,5%) hoặc không theo tôn giáo nào bệnh viện Ung Bướu Thành phố Hồ Chí Minh năm (23,9%). Về trình độ học vấn, bệnh nhân học đến 2020. cấp II chiếm đa số với tỉ lệ 44,1%, bệnh nhân có trình độ từ cấp III trở lên chiếm 24,9% và dưới cấp I ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU là 6,6%. Nội trợ (39,9%) và buôn bán (16,4%) là Đối tượng nghiên cứu những nghề nghiệp chiếm phần nhiều, nhưng cũng có đến 9,9% bệnh nhân hiện đang thất nghiệp. Đa Cỡ mẫu của nghiên cứu là 213 bệnh nhân. số bệnh nhân tham gia nghiên cứu nhận xét tình trạng kinh tế của mình ở mức đủ sống (67,6%), đã Những bệnh nhân nữ đủ 18 tuổi trở lên đang kết hôn (71%), sống cùng với chồng (70,4%) và con điều trị ung thư vú nội trú và ngoại trú tại bệnh viện cháu (69%). Ung Bướu TP. HCM và đồng ý tham gia nghiên cứu được chọn vào nghiên cứu. Đối với những bệnh Đặc điểm về tình trạng bệnh nhân mắc các khuyết tật gây khó khăn trong giao Phần lớn bệnh nhân hiện đang khám và điều trị tiếp và đang trong tình trạng sức khỏe yếu không thể ngoại trú (97,2%) tại khoa Nội (73,2%) và khoa Xạ trả lời bộ câu hỏi sẽ không tham gia khảo sát. (24,4%). Số bệnh nhân đang mắc ung thư vú giai Phương pháp thu thập số liệu đoạn II và III được ghi nhận nhiều nhất trong nghiên cứu với tỷ lệ lần lượt là 51,6% và 37,6%. Hầu hết Nghiên cứu viên sử dụng phương pháp phỏng đều đang điều trị bằng phương pháp hóa trị (73,2%), vấn trực tiếp mặt đối mặt dựa trên bộ câu hỏi cấu tiếp đến là xạ trị (22,5%). Gần một nửa bệnh nhân trúc soạn sẵn. có các bệnh kèm theo: tăng huyết áp (19,3%) hoặc Công cụ thu thập số liệu các bệnh khác (rối loạn tiền đình, suy tim, đau khớp, Bộ câu hỏi bao gồm 4 phần: viêm xoang, v.v.) (22,1%). Trong đó 31% bệnh nhân chỉ mắc một bệnh kèm theo; 8,9 % mắc 2 bệnh và A - Đặc điểm dân số - kinh tế - xã hội bao gồm 4,7% mắc từ 3 bệnh kèm theo trở lên. Tất cả bệnh tuổi, nơi ở hiện tại, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp nhân được khảo sát đều cho biết chưa từng được hiện tại, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, người bác sĩ tâm lý chẩn đoán mắc rối loạn tâm thần. Có đang sống chung và tình trạng kinh tế; 9,4% bệnh nhân có người nhà được chẩn đoán mắc B - Đặc điểm tình trạng bệnh: Khoa điều trị, rối loạn tâm thần. hình thức điều trị, giai đoạn ung thư, phương pháp điều trị, tiền sử bản thân mắc được chẩn đoán mắc rối loạn tâm thần, tiền sử thành viên gia đình được chẩn đoán mắc rối loạn tâm thần; 495
  3. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 Điểm trung bình năng lực nhận thức SKTT Về khả năng tìm kiếm thông tin liên quan đến SKTT, ít hơn 50% bệnh nhân đồng ý rằng mình có Bảng 1. Điểm trung bình các thuộc tính của thể sử dụng điện thoại thông minh hoặc máy tính để năng lực nhận thức SKTT tìm kiếm thông tin về SKTT. Tỷ lệ bệnh nhân cho Điểm thấp rằng sẽ gặp mặt chuyên gia tâm lý để tìm hiểu thông nhất – tin là 39,5%. Điểm trung bình của thuộc tính này là Thuộc tính ĐTB  ĐLC Điểm cao 10,2 ± 5,2. nhất Về thái độ trong hành vi tìm kiếm trợ giúp, bệnh Khả năng nhận diện rối loạn 20,9  5,6 8 - 32 nhân không đồng ý rằng người mắc bệnh tâm thần Kiến thức về yếu tố nguy cơ 6,7  1,6 2-8 có thể tự khỏi bệnh nếu họ muốn (67,7%); bệnh tâm Kiến thức về trợ giúp từ 4 - 12 thần không phải là bệnh y khoa thực sự (66,6%); 7,1  1,3 chuyên gia người có vấn đề về SKTT là người nguy hiểm (58,7%); cần tránh xa họ (61,1%). Chỉ 2,4% đồng ý Kiến thức về tự điều trị 5,3  0,7 4-8 bệnh tâm thần là dấu hiệu của sự yếu đuối và 0,9% Kiến thức về tìm kiếm thông 10,2  5,2 4 - 20 đồng tình bệnh tâm thần do chuyên gia SKTT điều trị tin liên quan đến SKTT là không hiệu quả. Tuy nhiên có đến 19,3% đồng ý Thái độ về bệnh tâm thần 59,7  9,3 34 - 75 và 63,4% chắc chắc đồng ý rằng tìm đến chuyên gia Tổng 72 - 141 để giải quyết vấn đề về SKTT là không đủ khả năng 109,9  14,0 tự giải quyết vấn đề hay chỉ có 41,3% bệnh nhân Phần lớn bệnh nhân nhận diện được dấu hiệu được hỏi cho rằng sẽ tìm đến chuyên gia nếu bản của rối loạn lo âu lan tỏa (33,3% chắc chắn và thân gặp vấn đề SKTT. 47,9% rất chắc chắn) và phụ thuộc chất gây nghiện Có 85% bệnh nhân sẵn sàng sống cạnh nhà, (18,8% chắc chắn và 78,4% rất chắc chắn). Tuy giao lưu, kết bạn và làm việc chung với người mà họ nhiên có hơn 50% bệnh nhân không nhận diện được biết là đang gặp vấn đề SKTT và 94,8% người đồng ám sợ xã hội, rối loạn nhân cách, ám sợ nơi đông ý sống chung nhà với người đó. Tỷ lệ đồng ý để người và rối loạn lưỡng cực. Điểm trung bình khả người thân kết hôn với người có vấn đề SKTT chỉ năng nhận diện các rối loạn tâm thần của bệnh nhân chiếm 17,9%. Tỷ lệ đồng ý bỏ phiếu bầu cử cho ung thư vú trong nghiên cứu là 20,9 ± 5,6. người từng có vấn đề SKTT vào vị trí lãnh đạo Hơn 60% bệnh nhân chắc chắn về việc phụ nữ chiếm 20,2%. Điểm trung bình của thuộc tính này là có nguy cơ mắc rối loạn tâm thần cao hơn nam giới. 59,7 ± 9,3 điểm, ở mức khá cao. Có hơn 5% bệnh nhân chắc chắn rằng nam giới có Nhìn chung, điểm số năng lực nhận thức SKTT nguy cơ mắc rối loạn lo âu hơn nữ. Kiến thức về các của bệnh nhân ung thư vú trong nghiên cứu này dao yếu tố nguy cơ và nguyên nhân dẫn đến rối loạn tâm động từ 72 đến 141 điểm và điểm trung bình chung lý của đối tượng nghiên cứu có điểm trung bình là là 109,9 ± 14,0. 6,7 ± 1,6. Điểm trung bình năng lực tìm kiếm trợ giúp SKTT Đối với kiến thức về trợ giúp từ chuyên gia SKTT có 93,7% bệnh nhân chắc chắn rằng liệu pháp Bảng 2. Các nguồn trợ giúp SKTT (n = 213) nhận thức hành vi mang lại hiệu quả trong trị liệu rối loạn tâm lý; 85,4% chắc chắn rằng chuyên gia SKTT Câu hỏi TB ± ĐLC nên phá bỏ tính bảo mật nếu một người đang có 1 Chồng/Bạn trai 4,5  2,6 nguy cơ gây hại trực tiếp cho chính người đó hoặc người khác; 79,9% không đồng ý rằng chuyên gia 2 Bạn 4,8 ± 2,3 SKTT nên phá bỏ tính bảo mật nếu vấn đề của một 3 Cha mẹ 2,2 ± 2,2 người không đe dọa đến tính mạng. Thuộc tính này 4 Người thân khác trong gia đình 4,7 ± 2,4 có điểm trung bình là 7,1 ± 1,3. 5 Chuyên gia tâm lý 2,0  1,6 Đối với kiến thức về tự điều trị, hầu hết bệnh nhân nhận thấy cải thiện chất lượng giấc ngủ mang 6 Gọi điện qua đường dây nóng 1,6  1,4 lại lợi ích (16,4% có lợi và 78,9% rất có lợi) trong 7 Bác sĩ điều trị ung thư 4,4  1,8 việc kiểm soát cảm xúc. Có hơn 80% bệnh nhân 8 Các lãnh đạo tôn giáo 3,5  2,0 đồng ý rằng tránh tất cả các hoạt động gây lo lắng sẽ có lợi (23,9%) và rất có lợi (59,6%) cho người 9 Không tìm giúp đỡ từ bất kì ai 3,3  2,2 khó kiểm soát cảm xúc. Điểm trung bình kiến thức 10 Tìm giúp đỡ từ nguồn khác 1,0 ± 0,3 về tự điều trị là 5,3 ± 0,7. 496
  4. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 Khi được hỏi nếu bản thân gặp phải những vấn không tìm kiếm bất kì nguồn hỗ trợ nào. Điểm số đề về cảm xúc hoặc tâm lý, đa số bệnh nhân trả lời năng lực tìm kiếm trợ giúp SKTT của bệnh nhân ung sẽ chia sẻ với bạn bè (61,1%), người thân trong gia thư vú trong nghiên cứu dao động từ 16 - 51 điểm. đình như con cái, anh chị em,… (59,1%), chồng Điểm trung bình của thang đo là 32,1 ± 6,1 điểm. (55,9%). Có 36,2% sẽ tìm đến lãnh đạo tôn giáo; 10,8% sẽ gọi đường dây nóng hỗ trợ; 31,5% sẽ Bảng 3. Mối liên quan giữa năng lực nhận thức SKTT với các yếu tố (n = 213) Đặc tính Hệ số Giá trị p KTC 95% Nhóm tuổi 18 - 39 tuổi 1 40 - 49 tuổi 4,67 0,132 (- 1,42) - 10,77 50 - 59 tuổi - 1,57 0,617 (- 7,75) - 4,61 60 tuổi 0,96 0,792 (- 6,23) - 8,16 Trình độ học vấn ≤ Cấp I 1 Cấp II 4,32 0,057 (- 0,14) - 8,77 Cấp III 6,75 0,019 1,12 - 12,38 Nghề nghiệp Tại nhà 1 Tự do - 4,39 0,036 (- 8,49) - (- 0,29) Cơ quan 1,68 0,575 (- 4,21) - 7,56 Tình trạng kinh tế Đủ sống 1 Không đủ sống - 1,52 0,465 (- 5,61) - 2,57 Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa trình độ học vấn và nghề nghiệp với năng lực nhận thức sức khỏe tâm thần. Cụ thể, những bệnh nhân học từ cấp III trở lên có điểm năng lực nhận thức SKTT cao hơn những bệnh nhân có học vấn từ cấp I trở xuống 6,75 điểm với p = 0,019 (KTC 95%: 1,14 - 12,42). Bệnh nhân làm nghề tự do (nông dân, buôn bán, làm thuê,…) có điểm năng lực SKTT thấp hơn những bệnh nhân làm việc tại nhà (nội trợ, nghỉ hưu, thất nghiệp) 4,39 điểm với p = 0,036 (KTC 95%: (- 8,51) - (- 0,29)). BÀN LUẬN cực, rối loạn nhân cách,… đều là các dạng rối loạn ít được biết hơn. Phần lớn bệnh nhân nhận diện được rối loạn lo âu (81,2%), trầm cảm (58,2%) và trầm cảm mãn tính Hơn 60% bệnh nhân chắc chắn “phụ nữ có (55,8%); hơn 50% không nhận diện được ám sợ xã nguy cơ mắc rối loạn tâm thần cao hơn nam giới”. hội, rối loạn nhân cách, ám sợ nơi đông người và rối Dựa vào kết quả từ các nghiên cứu trên thế giới cho loạn lưỡng cực. Trong nghiên cứu của Cheung thấy phụ nữ thường dễ mắc rối loạn lo âu lan (2015), chỉ có 35,2% bệnh nhân nhận biết được dấu tỏa[1,12], trầm cảm[2,17] và nhiều dạng rối loạn tinh hiệu của rối loạn lo âu và 48,1% nhận diện được thần khác[15] hơn nam giới. Khả năng nhận biết các trầm cảm[921]. Trong nghiên cứu cắt ngang của nguy cơ và nguyên nhân gây ra rối loạn tâm lý của Okuyama, chỉ có 11% bệnh nhân nhận biết được bệnh nhân tham gia nghiên cứu ở mức cao. triệu chứng của trầm cảm[14]. Nhìn chung, khả năng Hầu hết bệnh nhân chắc chắn rằng liệu pháp nhận diện các rối loạn tâm lý của đối tượng nghiên nhận thức hành vi mang lại hiệu quả trong trị liệu cứu chỉ ở mức trung bình. Các vấn đề như rối loạn SKTT. Có thể thấy, mặc dù “liệu pháp nhận thức lo lâu, trầm cảm có thể được nghe nói đến nhiều từ hành vi” là khái niệm mới và ít phổ biến nhưng tỷ lệ các phương tiện truyền thông nên bệnh nhân tương bệnh nhân đồng ý rằng đây là phương pháp hiệu đối có nhận thức về chủ đề này, nhưng với những quả vẫn rất cao do đây là phương pháp được vấn đề sức khỏe tâm thần khác như rối loạn lưỡng 497
  5. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 chuyên gia - những người có chuyên môn và uy tín giúp tốt nhất nếu bản thân có vấn đề về SKTT, tiếp chỉ định. đến là bác sĩ điều trị ung thư và bạn bè[21]. Trong nghiên cứu của tác giả Okuyama, tỷ lệ này còn cao Đa số bệnh nhân đều đồng ý cải thiện chất hơn nữa. Cụ thể, lần lượt có 84% và 86% đối tượng lượng giấc ngủ sẽ có lợi cho người gặp khó khăn đánh giá gia đình và bác sĩ điều trị ung thư là nguồn trong kiểm soát cảm xúc. Giấc ngủ có vai trò quan trợ giúp có ích, 56% đối tượng sẽ tìm đến bạn bè để trọng lên sức khỏe, cảm xúc có thể là điều mà hầu giải quyết vấn đề SKTT[14]. hết bệnh nhân nhận thấy. Tuy nhiên với điểm trung bình là 5,3 ± 0,7, kiến thức về tự điều trị của đối Bạn bè thường là những người đang cùng điều tượng nghiên cứu nằm ở mức thấp. trị ung thư tại bệnh viện, do đó bệnh nhân đồng cảm và chia sẻ với nhau nhiều hơn so với những nguồn Hơn một nửa số bệnh nhân được hỏi không trợ giúp khác. Ngoài ra, trong một số nghiên cứu, biết các nguồn thông tin về bệnh tâm thần; hơn 60% bệnh nhân cho rằng các phương pháp điều trị tâm lý không thể sử dụng điện thoại thông minh, máy tính của chuyên gia tâm lý sẽ không mang lại hiệu quả hoặc đến gặp chuyên gia tâm lý để tìm kiếm thông như hỗ trợ từ người thân, bạn bè[14,21]. Ngoài ra, tin. Bệnh nhân đa số đều lớn tuổi và trình độ học vấn những định kiến xã hội về bệnh tâm thần cũng như không cao nên có thể hạn chế khả năng sử dụng về việc một người phải cần đến sự hỗ trợ của điện thoại, máy tính để tìm thông tin. Kết quả nghiên chuyên gia tâm lý đã khiến cho bệnh nhân không cứu cũng cho thấy một điểm đáng lưu ý là bệnh muốn sự giúp đỡ từ nguồn này[16]. Nhìn chung, với nhân cho rằng việc tìm gặp chuyên gia tâm lý để tìm hiểu thông tin cũng có thể được xem là không cần điểm trung bình là 32,1 ± 6,1, năng lực tìm kiếm thiết. Điều này có thể do hệ thống chăm sóc sức trợ giúp SKTT của bệnh nhân ung thư vú trong khỏe tâm thần tại Việt Nam chưa được phát triển nghiên cứu ở mức thấp. hoặc vai trò hỗ trợ của chuyên gia tâm lý chưa được Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa trình độ biết đến nhiều bởi bệnh nhân. học vấn và năng lực nhận thức SKTT có ý nghĩa Hơn 90% đồng tình về việc bệnh tâm thần do thống kê với p = 0,019. Những bệnh nhân học cấp I chuyên gia SKTT điều trị có mang lại hiệu quả. và cấp II có điểm NLSKTT thấp hơn bệnh nhân học Nhưng chỉ 41,3% người cho rằng sẽ tìm đến chuyên cấp III và đại học. Điều này tương đồng với nghiên gia nếu gặp vấn đề SKTT. Phần lớn bệnh nhân sẽ cứu tại Singapore năm 2019 và Nhật Bản năm 2007 sẵn sàng kết bạn, làm việc hoặc sống chung với với giá trị p lần lượt là p = 0,001 và p < 0,001[14,15]. người có vấn đề về SKTT. Điểm trung bình thái độ Đây cũng là yếu tố có tác động mạnh mẽ được trong hành vi tìm kiếm trợ giúp ở mức cao. nhiều nghiên cứu khác nhau khác nhau công nhận[13,18]. Người có học vấn càng cao thì có nhiều Với điểm trung bình là 109,9 ± 14,0, năng lực kiến thức và hiểu biết về SKTT hơn cũng như có nhận thức SKTT của bệnh nhân ung thư vú tham gia kiến thức tìm kiếm trợ giúp tốt hơn so với bệnh nhân nghiên cứu ở mức trung bình. Kết quả này khá có học vấn thấp[15]. tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả Những bệnh nhân làm công việc tự do như Cheung đánh giá NLSKTT trên 54 bệnh nhân ung nông dân, buôn bán, làm thuê,… có điểm trung bình thư vú[21]. Bên cạnh đó, hai nghiên cứu khác khảo nhận thức SKTT thấp hơn 4,39 điểm so với bệnh sát trên bệnh nhân mắc các loại ung thư khác cũng nhân làm việc tại nhà (nội trợ, nghỉ hưu,…) tại Singapore và Nhật Bản đều có chung kết luận là (p = 0,036). Nghiên cứu của Poon cũng thể hiện mối NLSKTT của bệnh nhân ung thư còn thấp[14,15]. Tuy liên quan giữa nghề nghiệp với năng lực nhận thức nhiên trong nghiên cứu này, tác giả không sử dụng SKTT (p = 0,004)[15]. Trong nghiên cứu này, những cùng thang đo đánh giá NLSKTT với tác giả Cheung, bệnh nhân làm công việc tại nhà có trình độ học vấn còn hai nghiên cứu tai Nhật và Singapore lại không cao hơn bệnh nhân làm công việc tự do, mà trình độ đánh giá trên cùng đối tượng là bệnh nhân ung thư học vấn có tác động đến khả năng nhận biết SKTT vú nên việc so sánh kết quả giữa các nghiên cứu do đó có thể chính yếu tố này đã dẫn đến sự khác còn khá nhiều hạn chế. biệt giữa hai nhóm nghề nghiệp trên. Về năng lực tìm kiếm trợ giúp SKTT, 61,1% KẾT LUẬN bệnh nhân cho rằng sẽ tìm đến bạn bè, 59,1% tìm đến người thân trong gia đình hoặc chồng (55,9%) Điểm trung bình năng lực nhận thức SKTT của để được giúp đỡ nếu gặp vấn đề về tâm lý. Cũng có bệnh nhân ung thư vú là 109,9 ± 14,0 điểm (mức đến 54,5% người cho rằng tìm đến bác sĩ đang điều trung bình). Trình độ học vấn và nghề nghiệp liên trị ung thư cho mình để được hỗ trợ. Điều này tương quan có ý nghĩa thống kê với năng lực nhận thức đồng với nghiên cứu của tác giả Cheung khi kết quả SKTT của bệnh nhân ung thư vú. Điểm trung bình cho thấy bệnh nhân nghĩ rằng gia đình là nguồn trợ 498
  6. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 năng lực tìm kiếm trợ giúp SKTT của đối tượng 12. MacKenzie, M. B., & Fowler, K. F.(2013): Social nghiên cứu là 32,1 ± 6,1 (mức thấp). anxiety disorder in the Canadian population: Exploring gender differences in TÀI LIỆU THAM KHẢO sociodemographic profile, Journal of Anxiety Disorders, 27(4): 427 - 434; 1. Asher, M., Aderka, I. M, (2018): Gender differences in social anxiety disorder, Journal of 13. Niemeyer H, Bieda A, Michalak J, Schneider S, Clinical Psychology, 74(10): 1730 - 1741; Margraf J (2019): Education and mental health: Do psychosocial resources matter?, SSM 2. Bandelow B, Schüller K. (2019): Age and gender Population Health, 8:7; distribution of patients with major mental disorders participating in clinical trials, Eur Arch 14. Okuyama, T., Nakane, Y., Endo, C., Seto, Psychiatry Clin Neurosci; T.(2007): Mental health literacy in Japanese cancer patients: ability to recognize depression 3. Bệnh viện K (2018), Giám đốc bệnh viện K and preferences of treatments - comparison with khuyến cáo chị em phụ nữ nên tầm soát ung Japanese lay public, Psycho-Oncology, 16(9): thư vú ở tuổi 40, http://benhvienk.vn/giam-doc- 834 - 842; benh-vien-k-khuyen-cao-chi-em-phu-nu-nen- tam-soat-ung-thu-vu-o-tuoi-40-nd36099.html; 15. Poon SH, Wang FQ, Goh J, Chan YH, Lim L (2019): Mental Health Literacy in Cancer 4. Bộ Y tế (2018), Điểm tin Y tế, Outpatients in Singapore”, East Asian Arch https://www.moh.gov.vn/diem-tin-y-te/- Psychiatry, 29(3): 91 - 94; /asset_publisher/sqTagDPp4aRX/content/-iem- tin-y-te-ngay-24-9-2018; 16. Reavley NJ, Jorm AF (2011): Stigmatizing attitudes towards people with mental disorders: 5. Đặng Thị Thu Trang (2014): Tương quan giữa findings from an Australian national survey of nhận thức về sức khỏe tâm thần và hành vi tìm mental health literacy and stigma, Aust N Z J kiếm trợ giúp vấn đề sức khỏe tâm thần của học Psychiatr, 45:1086 - 1093; sinh trung học phổ thông, Luận văn thạc sỹ tâm lí học, Đại học Giáo Dục, Đại Học Quốc Gia Hà 17. Serpytis P, Navickas P, Lukaviciute L, et al. Nội; (2011): Gender-Based Differences in Anxiety and Depression Following Acute Myocardial 6. Farrer L, Leach L, Griffiths KM, Christensen H, Infarction”, Arq Bras Cardiol., 111(5): 676 - 683; Jorm AF (2008): Age differences in mental health literacy, BMC Public Health, 20(8): 125; 18. Tsaras K, Papathanasiou, Mitsi D, Veneti A, et al (2018): Assessment of Depression and Anxiety 7. Ferlay J, Steliarova-Foucher E, Lortet-Tieulent J, in Breast Cancer Patients: Prevalence and et al (2013): Cancer incidence andmortality Associated Factors”, Asian Pacific Journal of patterns in Europe: estimates for 40 countries in Cancer Prevention, 19(6): 1661 - 1669; 2012, Europe Journal of Cancer, 49: 1374 - 403; 19. Waldmann, T., Staiger, T.(2019): Mental health 8. Globocan (2018), Breast: Fact sheet, literacy and help-seeking among unemployed http://gco.iarc.fr/today/data/factsheets/cancers/2 people with mental health problems, Journal of 0-Breast-fact-sheet.pdf; Mental Health, 9: 1 - 7; 9. Globocan (2018), Viet Nam – Fact sheet, 20. WHO (2019), Cancer, https://gco.iarc.fr/today/data/factsheets/populatio https://www.who.int/health- ns/704-viet-nam-fact-sheets.pdf; topics/cancer#tab=tab_1; 10. Jorm, A. F. (2012): Mental health literacy: 21. Yin Ting Cheung, Ying Ying Ong, et al (2015): Empowering the community to take action for Assessment of mental health literacy in patients better mental health, American Psychologist, with breast cancer, J Oncol Pharm Practice, 67(3): 231 - 243; 0(0):1 - 11 11. Maass, S. W. M. C., Roorda, C.(2015): The 22. Zhuang, X. Y., Wong, D. F. K., Cheng, C.-W., & prevalence of long-term symptoms of depression Pan, S.-M. (2017): Mental health literacy, stigma and anxiety after breast cancer treatment: A and perception of causation of mental illness systematic review, Maturitas, 82 (1):100–108; among Chinese people in Taiwan, International Journal of Social Psychiatry, 63(6):498 - 507 499
  7. Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5-2020-Tập 2 Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5-2020-Vol 2 ABSTRACT Objectives: To assess the mean score of cancer patients' mental health literacy in Ho Chi Minh Oncology Hospital in 2020 and its associations. Method: This cross-sectional study was designed to interview at least 213 cancer patients undergoing treatment in the Internal Medicine Department IV, Department of Radiology IV, and Surgical Department IV in Ho Chi Minh Oncology Hospital. Result: Mean score of mental health literacy of cancer patients in the Oncology hospital was 109,9 ± 14,0. The education level and occupation of patients had significant statistical relationships with mental health literacy (p = 0,019 and p = 0,036, respectively). Patients whose educational level was high school had 6,75 points more than ones with elementary school level and lower. Patients working as farmers, selling,... had 4,39 points more than others that were housewives, retired, and unemployed. Mean score of mental health help- seeking of cancer patients was 32,1 ± 6,1. Conclusion: Mean score of mental health literacy of cancer patients in the Oncology hospital was 109,9 ± 14,0. The mean score of mental health help-seeking of cancer patients was 32,1 ± 6,1. 500
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2