intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Năng suất sinh học sơ cấp ở vịnh Vân phong, tỉnh khánh hòa

Chia sẻ: Hân Hân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

73
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dựa vào dữ liệu tổng quan trong giai đoạn 2004 - 2013, các đặc trưng về NSSH sơ cấp được thảo luận trong mối quan hệ với chlorophyll-a và mức độ suy giảm ánh sáng của cột nước. NSSH sơ cấp vịnh Vân Phong biến động mạnh theo không gian và thời gian, nhưng không có sự sai khác giữa mùa khô và mùa mưa. NSSH có mối quan hệ chặt chẽ với phát triển của thực vật nổi và hệ số suy giảm ánh sáng. Hệ số chuyển hóa carbon của thực vật nổi ở mùa khô cao hơn mùa mưa và tầng mặt cao hơn tầng đáy.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Năng suất sinh học sơ cấp ở vịnh Vân phong, tỉnh khánh hòa

Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2014, tập 20: 60 - 69<br /> <br /> NĂNG SUẤT SINH HỌC SƠ CẤP Ở VỊNH VÂN PHONG, TỈNH KHÁNH HÒA<br /> Phan Minh Thụ, Nguyễn Hữu Huân, Lê Trần Dũng<br /> Lê Trọng Dũng, Võ Hải Thi, Trần Thị Minh Huệ, Hoàng Trung Du<br /> Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam<br /> Tóm tắt<br /> <br /> Dựa vào dữ liệu tổng quan trong giai đoạn 2004 - 2013, các đặc trưng về<br /> NSSH sơ cấp được thảo luận trong mối quan hệ với chlorophyll-a và mức độ<br /> suy giảm ánh sáng của cột nước. NSSH sơ cấp vịnh Vân Phong biến động<br /> mạnh theo không gian và thời gian, nhưng không có sự sai khác giữa mùa<br /> khô và mùa mưa. NSSH có mối quan hệ chặt chẽ với phát triển của thực vật<br /> nổi và hệ số suy giảm ánh sáng. Hệ số chuyển hóa carbon của thực vật nổi ở<br /> mùa khô cao hơn mùa mưa và tầng mặt cao hơn tầng đáy. Theo phân bố mặt<br /> rộng, NSSH sơ cấp tích phân tăng dần từ vùng cạn sang vùng nước sâu hơn.<br /> Theo chu kỳ năm, NSSH tích phân trung bình tháng ở phần ngoài vịnh Vân<br /> Phong là 1069,15 - 2205,05 mgC/m2/ngày và ở vụng Bến Gỏi là 696,19 1435,85 mgC/m2/ngày. Sự biến động của NSSH sơ cấp liên quan đến nguồn<br /> cung cấp dinh dưỡng từ các hoạt động kinh tế trong vùng nghiên cứu.<br /> GROSS PRIMARY PRODUCTION OF PHYTOPLANKTON<br /> IN VAN PHONG BAY, KHANH HOA PROVINCE<br /> Phan Minh Thu, Nguyen Huu Huan, Le Tran Dung<br /> Le Trong Dung, Vo Hai Thi, Tran Thi Minh Hue, Hoang Trung Du<br /> Institute of Oceanography, Vietnam Academy of Science & Technology<br /> <br /> Abstract<br /> <br /> Based on data set of GPP in the period of 2004-2013, characteristics of gross<br /> primary production (GPP) were discussed in the relation to chlorophyll-a<br /> and the vertical light extinction coefficient. GPP in Van Phong bay was<br /> strongly varied in spatial and temporal, but there was no significant<br /> difference between dry and rainy seasons. The variation of GPP was<br /> significantly contributed by phytoplankton growth and vertical light<br /> extinction coefficient. Efficiency of phytoplankton assimilation for carbon in<br /> dry season was higher than that in rainy season, and this value at surface<br /> layer was higher than that at bottom layer. In the term of spatial distribution,<br /> integrated GPP increased from the shallow waters to deep waters. In annual<br /> cycle, the monthly average of integrated GPP was 1069.15 - 2205.05<br /> mgC/m2/day in outer part of Van Phong bay and 696.19 - 1435.85<br /> mgC/m2/day in Ben Goi waters. The variation of GPP was resulted from<br /> nutrient sources supporting from economic activities within the coastal<br /> areas.<br /> <br /> 60<br /> <br /> I. MỞ ĐẦU<br /> <br /> của NSSH sơ cấp trong vùng nước là rất<br /> phức tạp (Platt và cs., 1991; Platt &<br /> Sathyendranath, 2000) và chi phối bởi địa<br /> hình cũng như hiệu ứng các đảo (Nguyen<br /> Tac An và cs., 2013). Do đó, để hiểu rõ<br /> được những biến động của NSSH ở vịnh<br /> Vân Phong, bài báo này trình bày bức tranh<br /> toàn diện của NSSH ở vịnh Vân Phong.<br /> <br /> Vịnh Vân Phong nằm giới hạn trong<br /> khoảng 109°10’÷109°26’ Đông và 120°29’<br /> ÷120°48’ Bắc. Vịnh cách Nha Trang về<br /> phía Bắc hơn 30 km theo đường chim bay,<br /> 60 km đường bộ và 40 hải lý theo đường<br /> biển. Phía Tây vịnh Vân Phong là phần kéo<br /> dài của dãy Trường Sơn. Cửa vịnh nằm ở<br /> phía Đông Nam rộng 17 km thông ra biển<br /> Đông. Phía Đông Bắc là bán đảo Hòn Gốm<br /> gồm các dãy núi nhỏ và cồn cát kéo dài nên<br /> tránh được sóng. Nằm giữa bán đảo Hòn<br /> Gốm, Hòn Lớn và đảo Cổ Cò là lạch Cổ Cò<br /> có chiều rộng 200 m có độ sâu trung bình<br /> 25 m. Diện tích mặt nước vùng vịnh khoảng<br /> 80.000 ha. Khu vực này có địa hình phong<br /> phú, đặc biệt là hệ thống đảo, bán đảo, vịnh<br /> sâu và kín gió, bờ và bãi biển, cồn cát hấp<br /> dẫn và là khu vực có hệ sinh thái đa dạng<br /> như rừng nhiệt đới, rừng ngập mặn, khu hệ<br /> sinh vật đáy ở biển nông ven bờ.<br /> Nhờ thiên nhiên ưu đãi về điều kiện tự<br /> nhiên, tính đa dạng sinh học cao, vịnh Vân<br /> Phong trở thành nơi giàu có nguồn lợi thủy<br /> sản. Chính vì vậy, đánh giá nguồn hữu cơ<br /> sơ cấp thông qua những thay đổi của năng<br /> suất sinh học (NSSH) sơ cấp góp phần<br /> lượng hóa được mức độ dinh dưỡng của<br /> thủy vực. Nghiên cứu NSSH ở vịnh Vân<br /> Phong đã được tiến hành theo phương pháp<br /> định lượng hoặc mô hình. Nguyen Huu<br /> Huan và Nguyen Tac An (2000) đã sử dụng<br /> mô hình LOICZ đã đánh giá rằng khả năng<br /> đồng hóa tinh của hệ sinh thái vịnh Vân<br /> Phong là tương đối thấp, vào khoảng 0,12<br /> mg C/m2/ngày. Trong khi đó, Thái Ngọc<br /> Chiến và cs. (2006) đã áp dụng mô hình<br /> ECOHAM để mô tả biến động của NSSH.<br /> Tuy nhiên, kết quả của mô hình ECOHAM<br /> chưa đánh giá được thực trạng của toàn khu<br /> vực. NSSH sơ cấp tích phân ở vùng biển<br /> vịnh Vân Phong dao động 0,26 - 1,15<br /> gC/m2/ngày và năng suất vùng ven bờ, ven<br /> đảo thường cao hơn ở cửa vịnh (Nguyen<br /> Tac An và cs., 2013) nhưng chưa phân tích<br /> được những yếu tố ảnh hưởng đến sự phân<br /> bố NSSH ở đây. Như một số nghiên cứu đã<br /> chỉ ra, trong tự nhiên, biến động và phân bố<br /> <br /> II. TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> Bài báo sử dụng nguồn dữ liệu tổng hợp từ<br /> các chuyến khảo sát tại vịnh Vân Phong<br /> trong thời gian từ 2004 đến 2009 và kết quả<br /> khảo sát bổ sung vào tháng 5/2013 theo sơ<br /> đồ như trên hình 1.<br /> Trong các chuyến khảo sát thuộc dự án<br /> NUFU (2004 - 2009), mẫu NSSH và Chl-a<br /> được thu ở tầng mặt và tầng đáy. Trong khi<br /> đó, trong đợt khảo sát bổ sung tháng<br /> 5/2013, mẫu NSSH được thu ở tầng mặt,<br /> giữa và đáy; mẫu Chl-a, TSS được thu ở<br /> các tầng 0, 5, 10, 20 và tầng đáy; cường độ<br /> ánh sáng và Chl-a huỳnh quang được đo<br /> trong toàn cột nước, Chl-a huỳnh quang<br /> dùng để xác định tầng Chl-a cực đại tại hiện<br /> trường. Mẫu nước tại tầng Chl-a cực đại tại<br /> 2 trạm VP9 và VP13 được thu phục vụ cho<br /> thí nghiệm xác định NSSH cực đại (PBmax)<br /> và hiệu suất sử dụng ánh sáng của thực vật<br /> nổi (αB).<br /> Nhiệt độ, độ mặn được đo tại hiện<br /> trường bằng CTD. Chlorophyll-a: 2 - 4 lít<br /> mẫu được lọc qua màng lọc GF/F, sau đó<br /> định lượng bằng phương pháp chiết suất với<br /> acetol 90% và đo trên máy quang phổ<br /> (Jeffrey & Welschmeyer, 1997). TSS (Vật<br /> chất lơ lửng): mẫu nước được lọc qua màng<br /> GF/F, và sấy ở 105°C (APHA, 2005).<br /> NSSH: được xác định bằng phương pháp<br /> gia số oxy trong bình đen – trắng dưới ánh<br /> sáng tự nhiên trong thời gian 24 giờ<br /> (Gaarder & Gran, 1927). DO định lượng<br /> bằng phương pháp Winkler (APHA, 2005).<br /> Ánh sáng trong toàn cột nước được xác<br /> định bằng máy PRR2600/2601.<br /> Hệ số suy giảm ánh sáng của PAR<br /> (cường độ ánh sáng hữu dụng cho quang<br /> hợp) tại độ sâu z (KPAR(z) – đơn vị tính m-1)<br /> 61<br /> <br /> được xác định theo công thức sau (Phan<br /> Minh Thu và cs., 2008):<br /> K PAR ( z ) =<br /> <br /> ln Ed PAR ( z + 1) − ln Ed PAR ( z − 1)<br /> ( z − 1) − ( z + 1)<br /> <br /> Đánh giá năng suất sinh học tích phân sử<br /> dụng dữ liệu ảnh viễn thám theo Behrenfeld<br /> & Falkowski (1997):<br /> <br /> (1)<br /> <br /> Trong đó: EdPAR(z+1) và EdPAR(z-1) là<br /> cường độ của PAR tại độ sâu (z+1) và<br /> (z-1)m.<br /> Tính toán NSSH tích phân trong toàn cột<br /> nước là hàm của độ sâu và thời gian (Platt<br /> và cs., 1991) theo công thức:<br /> (2)<br /> Trong đó: P(z,t): Năng suất sinh học của<br /> thực vật nổi tại độ sâu z và thời gian t.<br /> <br /> (3)<br /> Trong đó: IPP: NSSH tích phân trong<br /> ngày (mgC m-2 day-1); PBopt: NSSH cực đại<br /> riêng phần của Chl-a (mgC (mgChl a)-1 h-1);<br /> E0: PAR tại bề mặt (E m-2 d-1); Zeu: Độ sâu<br /> tầng ưu quang (m) (Zeu = 4.6/KPAR); Chl0:<br /> Chl-a tầng mặt (mg m-3) và DL: thời gian<br /> chiếu sáng trong ngày (h). Những dữ liệu<br /> về E0, Chl-a và KPAR (thay thế bằng K490)<br /> được khai thác từ cơ sở dữ liệu của MODIS<br /> trung bình tháng có độ phân giải 4km trong<br /> thời gian 2004-2013.<br /> <br /> Hình 1. Vị trí các trạm nghiên cứu<br /> Fig. 1. Study stations<br /> <br /> 61<br /> 62<br /> <br /> C/m3,ngày đến 252,82 ± 111,16 mg C/m3,<br /> ngày. Cường độ hô hấp trung bình tầng đáy<br /> dao động từ 43,14 ± 27,71 mg C/m3,ngày<br /> đến 256,03 ± 96,70 mg C/m3,ngày. Giá trị<br /> NSSH sơ cấp và cường độ hô hấp cao nhất<br /> vào tháng 8/2009 kể cả tầng mặt và tầng<br /> đáy. Điều này có thể là do sự cộng hưởng<br /> của cường độ bức xạ mặt trời gia tăng và<br /> nguồn vật chất thích hợp cho quang hợp<br /> của thực vật nổi được cung cấp từ đất liền<br /> và các hoạt động trong vịnh như nuôi trồng<br /> hải sản.<br /> Về phân bố không gian, NSSH sơ cấp<br /> cao thường xuất hiện ở đỉnh vịnh Vân<br /> Phong, trong khi đó ở cửa vịnh Vân Phong,<br /> NSSH sơ cấp thường rất thấp (Hình 4). Tuy<br /> nhiên, ở tầng đáy, NSSH sơ cấp ở Cửa Bé<br /> thường lớn hơn so với vùng Cửa Lớn của<br /> vịnh Vân Phong. Kết quả đánh giá cho<br /> thấy, những vùng có NSSH sơ cấp cao<br /> thường liên quan đến hoạt động cung cấp<br /> muối dinh dưỡng từ hoạt động nuôi cá lồng<br /> hoặc tôm hùm lồng trong khu vực.<br /> <br /> III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN<br /> 1. Phân bố NSSH sơ cấp<br /> NSSH sơ cấp và cường độ hô hấp của thực<br /> vật nổi biến động mạnh theo thời gian và<br /> không gian (Hình 2, 3 và 4). Vào mùa khô,<br /> NSSH sơ cấp trung bình tầng mặt (giá trị<br /> trung bình dao động từ 35,90 ± 17,31 mg<br /> C/m3,ngày đến 156,57 ± 94,90 mg C/m3,<br /> ngày) thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với<br /> tầng đáy (giá trị trung bình dao động từ<br /> 34,41 ± 33,77 mg C/m3,ngày đến 208,36 ±<br /> 116,51 mg C/m3,ngày) (p
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2